Đọc truyện Côn Luân – Chương 49: Xà khiếu tước lai
Lương Tiêu chạy một mạch, thi thoảng bắt gặp dấu vết hai người để lại,
cây gãy đá nát như cuồng phong quét qua. Gã trông thấy mà kinh hoàng, tự nhủ cho dù tìm được Tiêu Thiên Tuyệt chắc mình cũng mất mạng. Ý nghĩ
khiến gã bi phẫn vô cùng, biết rõ chuyến đi lành ít dữ nhiều mà chân
không sao dừng được.
Đuổi về phía tây nam suốt nửa đêm vẫn không
bắt kịp, dấu chân hai người càng lúc càng mờ nhạt, Lương Tiêu chạy đến
sáng sớm ngày hôm sau thì mất dấu. Gã sục sạo khắp nơi hồi lâu nhưng vẫn không vớt vát được chút manh mối nào, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt y như thể đã bốc hơi.
Lương Tiêu không nản lòng, tiếp tục tiến
bước, băng qua mấy thôn làng đều tịnh không gặp một người sống, khắp mặt đất vương vãi những thương gãy cung đứt, thi thể lăn lóc, phần nhiều là binh lính hai nước Tống, Nguyên, nhưng cũng có không ít dân lành, cảnh
tượng thê thảm không kể xiết.
Lương Tiêu lòng dạ ngổn ngang, chạy tiếp trăm dặm cuối cùng cũng gặp một nhóm dân Tống, hỏi ra mới biết có
mấy tốp lính Nguyên tăng cường đi qua vùng này, đụng độ với lính Tống.
Cư dân sợ loạn quân cướp bóc, bèn bỏ lại vườn tược, nháo nhào chạy đi
tránh nạn.
Nhìn nhóm dân Tống quần áo lam lũ đầu tóc rối bù, mặt
mũi lem nhem sắc diện hoảng hốt, Lương Tiêu vụt nhớ đến những gì đã từng chứng kiến, nỗi hối hận trào dâng ngập lòng.
Dạo thề độc diệt
Tống, gã chẳng thể ngờ rằng cứ đánh đánh giết giết là sẽ đẩy muôn dân
vào cảnh lầm than. Sau khi tận mắt trông thấy thảm trạng trong thành
Tương Dương, gã đã ăn năn lắm rồi, còn gắng gượng theo quân giao chiến
được đến nay đều là nhờ những lời hùng hồn về một thiên hạ thống nhất
hòa bình vĩnh cửu của Bá Nhan. Ngày lại ngày chinh chiến, làm chứng nhân bất đắc dĩ cho những màn tàn sát thê lương, lòng Lương Tiêu lúc nào
cũng như thiêu như đốt.
Đêm nay, gặp hết làng mạc hoang vu đến
dân tình li tán, gã hối hận cùng cực, bàng hoàng tự hỏi: “Cứ thế này
mãi, chẳng biết còn bao nhiêu người chết, liên lụy bao nhiêu dân lành
đây? Có lẽ rồi sẽ như Lan Á nói, sau chiến tranh, dầu cho thiên hạ thái
bình ngàn năm, nhưng tâm hồn ta không bao giờ yên ổn được nữa”.
Lương Tiêu thẫn thờ hồi lâu, khi tỉnh táo lại, nạn dân đã đi xa. Gã nhìn theo bóng họ, lòng đau đớn như bị rắn độc cắn xé, thống khổ nghĩ: “Tiêu
Thiên Tuyệt giết cha ta, cướp mẹ ta mang đi, khiến ta cô khổ phiêu bạt.
Đến nay chính ta lại khiến bao nhiêu dân lành mất nhà mất cửa, tứ cố vô
thân, thế này thì ta cũng có khác gì Tiêu Thiên Tuyệt đâu?”.
Lương Tiêu bất chấp tính mạng truy đuổi Tiêu Thiên Tuyệt chỉ cốt trả thù,
nhưng ý nghĩ trên đã dập tắt hết mọi quyết tâm, chà cùn mọi ý định báo
cừu xưa nay, gã lầm lũi tiến bước, không bận tâm đã đi bao xa, càng
không biết mình đi về hướng nào.
Đêm khuya, hai chân nặng như đeo đá, Lương Tiêu rã rời ngồi xuống một gốc cây, dõi mắt về làng mạc phía
xa, không gian tăm tối và lạnh lẽo như địa ngục. Đôi hồi gió rít lạnh
căm lùa cành lá kêu u u, nghe như tiếng ai sầu ai thảm.
Sức lực
kiệt quệ, tinh thần bải hoải, Lương Tiêu đờ đẫn chìm vào giấc ngủ. Cuối
giờ dần đầu giờ mão, gã choàng tỉnh vì một tràng cười quái dị. Tiếng
cười vút lên chói tai lẫn với âm thanh rin rít lạ lùng. Lương Tiêu bò
dậy, tiếng cười tạm ngưng, bốn bề trở lại yên tĩnh.
Lương Tiêu nhìn về phía phát ra tiếng cười thì chỉ gặp bóng đêm dày đặc, không le lói lấy một tia sáng, người bỗng ớn lạnh.
Gã dò dẫm bước theo hướng tiếng cười đến mười mấy dặm, phía trước dần dần
hiện lên bóng nhà cửa nhấp nhô, nhìn kỹ thì ra là một thôn trang. Lúc
này trời sắp sáng, soi nổi dáng núi lởm chởm vươn cao phía sau ngôi
làng. Thì ra con đường đã đưa Lương Tiêu tới gần địa giới Hoàng Sơn.
Nơi cổng làng ngổn ngang mười mấy xác chết của lính Nguyên. Lương Tiêu tiến đến, ngồi xổm xuống giở xem quần áo một người, trên ngực hắn in một vết đen trông giống con mắt âm hiểm nhìn trừng trừng. Lương Tiêu thót tim,
khám kỹ hơn thì nhận ra toàn thân hắn mềm nhũn như bông, toàn bộ gân cốt đứt gãy từng đoạn, không còn một đoạn xương hay gân nào nguyên vẹn.
Lương Tiêu rất đỗi nghi hoặc, đoán chừng tên lính này bị đấm chết, gân cốt
toàn thân đều hứng quyền kình nên gãy rời. Nhưng nếu như vậy, quyền kình của hung thủ quả là tàn độc lạ lùng, chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp
tục xem sang các binh sĩ khác, trên ngực họ đều có dấu nắm đấm, gân cốt
cũng gãy vụn.
Lương Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đào một cái huyệt
chôn tất cả xuống, xong xuôi đứng dậy thận trọng đi vào làng. Gã đoán có thể hung thủ vẫn còn ở trong trấn, bèn lập tức dồn tụ nội kình, đi bước nào cũng nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Suốt một thôi đường, thấy các nhà trong làng đều mở toang cửa lớn cửa sổ, bên trong vắng ngắt không
một bóng người.
Lúc này trời tờ mờ sáng, gió lạnh căm căm thi
thút xuyên qua các ô cửa, gào rít tựa tiếng quỷ khóc ban đêm. Lương Tiêu gan góc cùng mình mà cũng không khỏi phát run khi nghĩ tên sát nhân
đang lẩn quất đâu đây. Thình lình có một tiếng “bình” rất to, Lương Tiêu thất thanh la lên:
– Ai? – rồi liếc mắt nhìn, phát hiện ra là một cánh cửa gỗ đang du đẩy qua lại bỗng đóng sập vào ngõng do gió thổi mạnh hơn.
Lương Tiêu thở phào, chợt thấy giữa khoảng khép mở của cánh cửa dường như
thấp thoáng bóng người, gã thót tim, nhảy vọt tới lách mình vào nhà,
nhưng bên trong trống hoác, không có một ai. Đang kinh ngạc thì nhận ra
trên nền đất in một bóng đen dài thượt, do nắng sớm mới lên hắt vào từ
ngoài cửa sổ, Lương Tiêu đạp cửa bay ra. Đập vào mắt gã là sáu người
đang đứng thõng tay xếp thành hàng một, tất cả đều vận quân phục Nguyên
triều.
Lương Tiêu nhướng mày hỏi:
– Các ngươi là thuộc hạ của ai?
Sáu binh sĩ vẫn bất động, bộ dạng ngây ngốc. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn lại gần vỗ vào vai người đứng cuối hàng. Sau một tiếng “bộp”, sáu tên
lính cùng đổ rạp về phía trước, chồng so le lên nhau như những quân bài
cửu. Lương Tiêu sửng sốt nhìn kỹ thì thấy họ đã chết lè lưỡi lồi mắt tự
bao giờ rồi.
Gã cúi xuống kiểm tra. Tình trạng tử vong của nhóm
này khác với đám quân Nguyên ngoài cổng làng, gân cốt tuy đứt gãy hết
nhưng trên mình không có vết thương gì rõ rệt. Riêng người cuối hàng đứt ngón út bàn tay phải, người thứ năm cụt ngón út bàn tay trái. Người thứ tư thì Lương Tiêu phải khám nghiệm khá lâu mới phát hiện ra ngón út bàn chân trái của hắn đã rụng. Người thứ ba rơi đâu mất ngón út bàn chân
phải. Người thứ hai khá kỳ lạ, các sợi tóc tách rời từng đoạn nhỏ, ngoài ra không có thương tích gì nữa. Lương Tiêu hoang mang xem đến người đầu tiên thì thấy gân xương tóc tai đều nguyên vẹn, gã trầm tư một lúc rồi
mở áo giáp lục tìm, quả nhiên phát hiện trên ngực hắn in hình nắm đấm
đen kịt.
Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, một tia sáng bỗng xẹt qua óc, gã bất giác buột miệng thốt thành tiếng. Ai đó bật cười lạnh lùng:
– Nhìn ra rồi phải không?
Lương Tiêu hoảng hốt ngước lên. Một người đang lẳng lặng đứng cách gã chừng
một trượng, ăn vận trễ nải nhưng phong thái rất ung dung đường hoàng.
Lương Tiêu trố mắt:
– Công Dương tiên sinh… – Đắn đo một thoáng, gã hỏi. – Những người này đều do ông giết phải không?
Công Dương Vũ hừ mũi:
– Giết hạng vô danh tiểu tốt chỉ tổ bẩn tay. – Ông nhìn Lương Tiêu từ đầu xuống chân. – Hà, nhưng nếu ngươi muốn chết thì lão phu cũng vui vẻ
giúp ngươi thỏa nguyện.
Lương Tiêu nhăn mặt:
– Tiêu Thiên Tuyệt đâu rồi?
Công Dương Vũ hững hờ đáp:
– Hắn gặp cố nhân, đang bịn rịn hàn huyên.
Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ đột nhiên xuất hiện đã kinh ngạc lắm rồi, lại nghe ông nói năng lấp lửng thì càng thêm nghi hoặc:
– Ở đây đã xảy ra chuyện gì?
– Cái thân ngươi bây giờ còn khó giữ, đừng thò mũi vào chuyện người khác nữa!
Lương Tiêu nóng mặt:
– Cứ cho là Lương Tiêu tội đáng muôn chết, lẽ nào Vân Thù chưa từng phạm lỗi?
Công Dương Vũ cau đôi mày rậm, mắt lóe lên sắc lạnh. Lương Tiêu xua tay:
– Tiên sinh khoan động thủ, sáu người này là đồng đội của tôi. Người ta
thường nói nghĩa tử là nghĩa tận, tiên sinh hãy thư cho tôi ít thời gian để giúp họ yên nghỉ rồi giao đấu cũng chưa muộn.
Dứt lời, gã tuốt kiếm đào huyệt mai táng sáu binh sĩ nọ. Công Dương Vũ quan sát một lúc, lạnh lùng bảo:
– Chúng nó chết có ngươi chôn cất, chẳng biết ngươi chết rồi ai lo hậu sự cho?
Lương Tiêu ngẫm lại từ dạo tòng quân tới nay, chinh chiến liên miên, đã gặp
bao cảnh thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hàng ngàn hàng vạn
binh lính ngã xuống nơi sa trường đều biến thành các thi thể vô danh.
Bản thân mình sống tới hôm nay thực đã may mắn lắm rồi. Càng nghĩ càng
thê lương, gã lắc đầu:
– Người ta trên đời, ai mà không chết?
Cùng là nhắm mắt xuôi tay, được chôn cất hay không có gì khác nhau? Lẽ
nào tiên sinh đã biết mai sau ông chết có ai an táng hộ rồi chăng?
Công Dương Vũ ngẫm cảnh mình xa vợ lìa con, tấm thân cô quạnh không một bóng người thân, sợ rằng khi trăm tuổi nắm xương tàn sẽ rơi rụng trong núi
hoang, chẳng ai ngó ngàng tới. Không nén được nỗi xót xa, ông thở dài
sau một lúc câm lặng:
– Được, nể mặt Văn Tĩnh, lát nữa ngươi chết, lão phu sẽ tự tay an táng cho.
Trong lòng Lương Tiêu lẫn lộn biết bao cảm xúc. Gã vốn muốn tìm đến thanh
minh với Công Dương Vũ, nhưng chuyến đi này khiến gã mục kích gần hơn bi kịch của binh đao, vừa hối hận vừa căm hờn, cho rằng bản thân mình gánh nặng bao tội nghiệt, chẳng màng phân trần lý lẽ nữa, chỉ nghĩ: “Hôm nay chết dưới tay ông già cũng như một sự giải thoát”, rồi lại chua xót:
“Khổ nỗi thù cha chưa trả, mẹ đi đâu cũng không rõ, ta thõng tay chịu
chết chẳng phải là bất hiếu lắm sao?”.
Cùng lúc ấy Công Dương Vũ
bị lời lẽ của gã khơi gợi những tiếc hận bấy lâu trong tim, rầu rĩ tự
nhủ: “Ta không thể quay lại Thiên Cơ cung được nữa, con cái sờ sờ ra đấy mà cũng như không, sau này về với tổ tiên, e rằng chẳng có ai hương
khói tế tự ta cả. Chà, hài tử Văn Tĩnh vốn dĩ hiền lương, không may táng mạng dưới tay lão quái vật, ta nhất định báo thù cho hắn. Song hắn chỉ
được một mụn con này, nếu nó chết, chẳng phải hắn sẽ tuyệt hậu hay
sao?”. Khi mới biết tin Lương Tiêu tấn công quân Tống, ông đã đùng đùng
nổi giận, những muốn giết ngay cho hả, nhưng đến lúc này bỗng lại ngập
ngừng.
Ông già cầm râu trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu đang theo dõi với ánh mắt thắc mắc thì Công Dương Vũ chậm rãi hỏi:
– Ngươi có biết sáu tên này chết thế nào không?
Lương Tiêu cân nhắc một thoáng rồi đáp:
– Đều chết vì quyền kình. Song vì sao người thứ hai đứt tóc, bốn người đằng sau gãy ngón tay ngón chân thì thật khó hiểu.
– Đó chính là chỗ cao cường của kẻ ra tay. Nếu đấm cả sáu gãy xương đứt
gân mà chết thì khó khăn gì, nhưng đây hắn chỉ đẩy quyền kình đến ngón
tay hay cọng tóc nạn nhân, hoàn toàn không chạm vào các gân cốt khác.
Nội lực tinh diệu tới mức có thể vận hành tùy ý rồi.
Lương Tiêu rùng mình:
– Tiêu Thiên Tuyệt chăng?
Công Dương Vũ cười nhạt:
– Tiêu lão quái giết người theo kiểu chém to kho mặn, đời nào nghịch ngợm tủn mủn đến thế? Môn võ công này xuất xứ từ Thiên Trúc, tên tiếng Phạn
của nó là Thấp bà Quân đồ lị[1]. Theo tín ngưỡng Bà La Môn, “thấp bà” là vị thần hủy diệt, “quân đồ lị” nghĩa là rắn, cũng là tên gọi nội lực
trong Du già thuật[2]. Thấp bà Quân đồ lị do đó có thể dịch ra là Rắn
của thần hủy diệt, nhưng thường được gọi là Hỏa xà. Sau khi luyện thành
công phu, nội kình hệt như trăm ngàn con rắn độc trườn khắp cơ thể địch
thủ, húc vỡ tim, đập nát xương hoặc băm gan chặt ruột hoàn toàn tùy tâm ý của người thi triển.
Lương Tiêu tư lự:
– Xem chừng kẻ đó đã luyện thành.
– Đúng vậy.
Lương Tiêu nhướng mày:
– Tên hắn là gì?
Công Dương Vũ lườm Lương Tiêu, cười khẩy:
– Ranh con, ngươi chết đến nơi rồi còn hỏi chi cho lắm?
Lương Tiêu bực tức nói:
– Ai bảo ông không động thủ ngay đi, toàn lảm nhảm những chuyện đẩu đâu.
Công Dương Vũ buồn bã nghĩ: “Nếu ta đủ nhẫn tâm để động thủ, hà cớ phải rườm lời thế. Khốn thay hiện tại quyết tâm của lão phu suy yếu mất rồi, phải làm sao cho ngươi khiến ta tức giận mới ra tay được”. Ông bèn gợi ý:
– Nội công của hung thủ cao cường nhỉ, ngươi có khâm phục không?
Đối với Công Dương Vũ, kẻ tu luyện môn Hỏa xà này là kẻ đại gian đại ác,
Lương Tiêu chỉ cần buông một từ “có” thôi thì nhất định ông sẽ nổi giận
và thừa căm phẫn để lấy mạng gã. Vì vậy vừa hỏi dứt, ông liền nhìn chăm
chăm vào mặt Lương Tiêu để dò thái độ.
Lương Tiêu nhíu mày, lắc lắc đầu:
– Trên đời này, nhiều lắm là có bốn người khiến tôi khâm phục, hung thủ còn lâu mới lọt được vào danh sách ấy.
Công Dương Vũ thất vọng ê chề, tiện miệng hỏi thêm:
– Thế à, bốn người nào?
– Có một hòa thượng vô cùng nghĩa khí, dám nói dám làm. Ông ấy xếp thứ tư trong số những người Lương Tiêu khâm phục.
– Cửu Như chứ gì?
– Tiên sinh cũng quen ông ấy à?
Công Dương Vũ hừ mũi, không trả lời thẳng vào câu hỏi:
– Ai nữa?
– Người tiếp theo là Liễu Tình đạo trưởng. Tại sao thì chắc khỏi phải giải thích.
Công Dương Vũ gật đầu lia lịa, hớn hở nói:
– Tất nhiên tất nhiên, nàng xếp thứ nhất phải không?
Lương Tiêu lắc đầu:
– Thứ ba.
Công Dương Vũ cáu kỉnh nghĩ bụng: “Để xem ai xếp được trên nàng”. Lương Tiêu tiếp:
– Người thứ hai Lương Tiêu khâm phục là một tiểu cô nương.
Công Dương Vũ nhăn mặt nghĩ bụng: “Một đứa ranh con mà dám so đọ với Tuệ Tâm hử?”. Ông hừ mũi giận dữ. Lương Tiêu bùi ngùi:
– Tiểu cô nương này mắc bệnh nan y nhưng không bi quan buồn bực mà luôn
vui vẻ giúp đỡ người khác, nhờ cô bé giúp đỡ nên mới có Lương Tiêu ngày
nay.
Công Dương Vũ dịu nét mặt, khẽ gật đầu. Lương Tiêu chốt hạ:
– Còn người Lương Tiêu khâm phục nhất là một viên quan nhà Nguyên.
Mắt Công Dương Vũ lóe sáng, kình đẩy suốt xuống tay. Lương Tiêu thủng thẳng:
– Người ấy họ Quách tên Thủ Kính. Ông ta dồn hết tâm sức cũng như hứng
thú vào cải tạo thủy lợi và nghiên cứu lịch pháp, công lao rỡ ràng ngàn
năm, phúc đức cao dày vạn kiếp, do đó xếp đầu trong bảng bốn người Lương Tiêu khâm phục.
Công Dương Vũ nghe tới đây, cơn giận xẹp xuống, gật gù bảo:
– Nếu quả thực như ngươi kể thì bất luận hắn ta là Nguyên hay Tống đều đáng được thế nhân kính phục.
Nói thì nói vậy, nhưng thấy mình không được liệt vào hàng nhân vật khiến
Lương Tiêu khâm phục, Công Dương Vũ cũng hơi tự ái. Lương Tiêu nhẩn nha
tiếp:
– Ngoài ra, Lương Tiêu còn rất mến mộ võ công và tài trí
của Công Dương tiên sinh, nhưng cái lối bỏ mặc vợ con và hờ hững tình
thân của ông lại khiến Lương Tiêu không có thiện cảm lắm nữa.
Công Dương Vũ bừng bừng nổi giận, nhưng suy tính một hồi, nghĩ rằng nếu vì
thế mà giết Lương Tiêu thì lại chứng tỏ bản thân mình nhỏ nhen, bèn nén
cơn nộ hỏa, cười nhạt bảo:
– Nhóc con miệng còn hôi sữa, chả hiểu cái quái gì! – Trong bụng thì phát ớn: “Thằng ranh giảo hoạt kinh
khủng, chắc đã nhìn ra toan tính của lão phu nên mới giả vờ bịa chuyện
nói quanh khiến ta không nắm được thóp nó đây”. Cân nhắc một hồi lại
nghĩ: “Ờ mà việc gì ta phải đích thân động thủ, để nó ngoan ngoãn tự tận chả tiện hơn ư?”.
Trầm ngâm một hồi, ông chợt bảo: “Ngươi theo ta lại đây!” rồi quay bước. Lương Tiêu đành đi theo.
Lúc này trời đã sáng bạch, bốn bề quang đãng. Đến một gốc tùng đầu làng,
Công Dương Vũ xòe chưởng chặt lên thân cây, lá đổ xuống ràn rạt như
mưa. Nhà nho phất tay áo rộng. Hệt như bị hút, màn lá liền tụ thành một chuỗi chui vào tay áo ông.
Thu xong đám lá, Công Dương Vũ nói:
– Nếu ta tự tay giết ngươi thì khó tránh mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu.
Trên núi Thạch Công, ngươi và ta chưa cá cược xong, bây giờ tiếp tục
vậy.
Lương Tiêu nhướng mắt nhìn. Công Dương Vũ lại khua tay áo,
lá tùng bắn phụp phụp xuống nền đất xốp, mau chóng xếp thành một đồ
hình, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn.
Công Dương Vũ hỏi:
– Ngươi nhận ra chứ?
Lương Tiêu hơi đổi sắc mặt:
– Nhận ra, đây là Thiên địa huyền hoàng. Phải chăng hôm qua chính tiên sinh đã bày trận cho quân Tống?
Công Dương Vũ không trả lời thẳng, lấp lửng bảo:
– Lúc ấy ngươi khua môi múa mép, xổ ra những gì như là: “Trận pháp này
gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ
một cọng cỏ, tiến lui dễ dàng, không tài nào phá nổi”, nghe chừng cũng
có tí kiến thức. Bây giờ coi mỗi chẽ lá tùng là một quân sĩ, nếu ngươi
phá được trận này thì ta tha chết, nhược bằng thua thì tự chặt đầu là
hết nợ.
Lương Tiêu quan sát trận thế hồi lâu, đoạn lắc đầu:
– Đáng tiếc tôi không có bản lĩnh hút lá tùng, làm sao đấu với tiên sinh được?
– Khó gì, với tu vi hiện nay của ngươi, ta hướng dẫn qua loa là ngươi làm được ngay thôi.
Công Dương Vũ cho rằng Lương Tiêu khó thoát chết nên không giấu miếng, nhặt ngay một chiếc lá tùng giảng giải:
– Công phu này tên gọi Bích vi tiễn, coi lá tùng là tên, nội lực là cung, cứ thế bắn đi. – Thấy Lương Tiêu lộ vẻ ngơ ngác, ông sốt ruột. – Không
hiểu à? Ta hẵng hỏi ngươi, bắn cung thế nào?
Lương Tiêu thạo thuật kỵ xạ, nắm rõ đặc tính của cung tên, bèn đáp:
– Cánh cung cứng mạnh, dây cung mềm dai. Tay trái nắm cánh cung, tay phải bật dây cung là bắn được.
– Ừ, một cây cung gồm đủ cương nhu, còn nội lực có tách bạch cương và nhu không?
Lương Tiêu hiểu ra:
– Ý tiên sinh là dùng cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, lá tùng làm tên?
Công Dương Vũ gật đầu:
– Tiểu tử khốn kiếp, cũng không đến nỗi tối dạ!
Lương Tiêu đăm chiêu:
– Xem chừng công phu này tương tự Cung huyền kình của Tiêu Thiên Tuyệt.
Công Dương Vũ trợn trắng mắt, mắng ngay:
– Láo lếu, tương tự là thế nào? Hừ, Bích vi tiễn là Bích vi tiễn, hoàn
toàn không dây mơ rễ má gì với Cung huyền kình. – Nghĩ sao ông lại hừ
mũi. – Dẫu có đôi chút liên quan, Cung huyền kình cũng chỉ là loại bàng
môn tả đạo. Tiêu lão quái cho rằng thân mình là cung, còn ta cho rằng
khí cơ là cung, gần với đạo trời hơn, cảnh giới hai bên vô cùng chênh
lệch, khó lòng so sánh được. Lão Tử từng nói: “Đạo Trời như giương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù
vào”; lại răn: “Muốn đóng được phải mở trước”. Yếu lĩnh của Bích vi tiễn chính là ở đó, so với nó thì thứ công phu Cung huyền kình vứt đi kia
kém xa một vạn tám ngàn dặm.
Công Dương Vũ thóa mạ một hồi thì
vơi tức, bắt đầu giảng giải cặn kẽ cách hướng mạch, cách vận kình. Lương Tiêu vốn nắm bắt nhanh, lại có luồng nội lực gồm đủ âm nhu nhờ trận
chiến chân khí của hai đại cao thủ trên Hoa Sơn, nghe Công Dương Vũ
giảng xong, gã ngắt một nhánh lá tùng, vận năm thành cương kình và năm
thành nhu kình, cương kình căng ra, nhu kình kéo vào, khi hai luồng kình tương giao, chỉ nghe “sựt” một tiếng, nhánh lá tùng thụ lực bay lút
xuống bùn.
Công Dương Vũ hài lòng bảo:
– Thằng bé này dạy được đấy. Nhớ cho kỹ đây, ngoài cương trong nhu là xuất, ngoài nhu trong cương là nhập.
Lương Tiêu gật đầu, nắm tay đấm lên thân cây làm lá đổ rào rào, đoạn đẩy nhu
kình, hãm cương kình, chiêu thức trái hẳn lúc nãy, tư thế hệt như xoay
ngược cây cung, cánh vào trong, dây ra ngoài, đảo chiều bắn của mũi tên. Màn lá tùng bị chưởng lực của Lương Tiêu hấp hút, ào ạt bay về phía gã. Lương Tiêu chụp tay áo xuống, thu gọn số lá tùng.
Công Dương Vũ lộ vẻ ưu tư:
– Kể ra, nguyên lý này không hẳn chỉ giới hạn ở việc đả thương người bằng lá tùng. Mai sau, nếu nội lực ngươi đạt tới cảnh giới xuất thần nhập
hóa thì có thể tận dụng được cả lông tơ và bụi nhỏ kia đấy. Nhưng ngươi
mà may mắn đạt tới cảnh giới đó, chắc trên thế gian chẳng còn ai địch
nổi ngươi nữa.
Lương Tiêu nghe giọng ông có ý tiếc hận thì mỉm
cười buồn bã, chia kình làm cương và nhu bắn lá tùng ra khỏi tay áo,
cũng sắp thành một hình trận, tựa tròn mà không phải tròn, tựa vuông mà
không phải vuông.
Công Dương Vũ chớp mắt:
– Ngươi cũng dùng cái này?
– Thiên địa huyền hoàng là trận thế của các trận thế, không thể phá giải. Chẳng còn cách nào tốt hơn dĩ độc trị độc.
Công Dương Vũ cười nhạt:
– Kể ra cũng khá tinh tường.
Ông phẩy tay áo, lá tùng trên mặt đất như bị gió thổi, hai mươi tư khối
trong Huyền thiên tiểu trận bắt đầu vần chuyển. Lập xuân nổi đùng đoàng
tựa sấm, Vũ thủy như gió tạt mưa nghiêng, Xuân phân chia âm dương hai
nửa, Kinh trập quẫy động tựa giao long, Lập hạ cuốn ngốn ngấu như lửa,
Mang chủng tua tủa hệt lúa non, Tiểu thử – Đại thử liền một dãy, Sương
giáng mịt mù tựa tuyết bay, Tiểu tuyết – Đại tuyết đảo phải trái, Hàn lộ thoắt đọng rồi thoắt tan. Cứ thế, trận hình biến hóa theo bốn mùa, lúc dàn hàng ngang lúc xếp hàng dọc, tiến hành hợp công.
Lương Tiêu
cũng phất tay áo chạy trận Huyền thiên, nhưng phương vị có phần khác
biệt. Đông chí đối Hạ chí của Công Dương Vũ, Thu phân đối Xuân phân, Đại tuyết đối Tiểu thử, Xử thử đối Thanh minh, Hàn lộ đối Cốc vũ. Huyền
thiên ứng với sự thay đổi của hai mươi tư tiết khí, có âm dương tương
khắc tương sinh, trận pháp của Công Dương Vũ bị khắc chế, tức thì chạy
chậm hẳn lại.
Lương Tiêu lại phất tay áo, Thành thổ từ hướng tây
bắc, Ẩn thổ từ hướng đông bắc, Thần thổ từ hướng đông nam, Thao thổ từ
hướng tây nam… Chín khối của tiểu trận Hậu thổ lần lượt đánh ra từ các
phương vị khác nhau.
Công Dương Vũ nhẹ nhàng khoát tay áo rộng,
Huyền thiên trận tản ra hai cánh, chín khối Cửu Châu nổi lên ở giữa.
Theo đúng nguyên tắc hỏa phương nam khắc kim phương tây, mộc hướng đông
trấn thủy hướng bắc, ông dùng Thâm thổ chính nam đối phó Bính thổ hướng
tây, Tín thổ chính đông chống cự Thành thổ hướng bắc bên trận Lương
Tiêu. Bảy khối còn lại cũng bám sát vị trí tương khắc theo ngũ hành.
Trận thế của Công Dương Vũ mang hình hạc trắng xòe cánh, trông dáng
thanh thoát mà ẩn tàng sát cơ.
Lương Tiêu nhận ra đây là hình hạc tường, một trong chín biến của Thiên địa huyền hoàng trận, lập tức hô to:
– Hổ quỳ!
Nội kình của gã tới đâu, Hậu thổ tiểu trận thu vào tới đó, Huyền thiên tiểu trận nhô ra ngoài, hình dáng như mãnh hổ ngồi rình, làm đối trọng với
bạch hạc giang cánh. Công Dương Vũ biết rõ tấn công không được bao lâu
nữa, đấu được một lúc, trận thế cuốn vào trong, chuyển ra hình bí hí[3].
Bí hí là một trong chín con trai của rồng, dáng dấp giống con rùa, khi
trưởng thành thì thoát mai, hóa rồng mà đi. Hình trận này ẩn công trong
thủ, đường hướng biến hóa rất phong phú. Lương Tiêu tức thì dàn trận
theo hình phượng bay, dễ biến thủ thành công. Công Dương Vũ lập tức đổi
hình rồng vàng, hai trận Huyền thiên, Hậu thổ chốc chốc lại đảo vị trí,
thế như thần long biến ảo, khó định đầu đuôi. Lương Tiêu đối phó bằng
hình rùa đen, mặc rồng vàng xáp vào tấn công dữ dội đến đâu vẫn bất động như núi.
Trông bề ngoài, tưởng chừng hai bên tỉ thí nội lực
thông qua việc điều khiển lá tùng, nhưng thực chất họ đang đọ mưu đọ
trí. Chẳng mấy chốc, chín biến hình Thiên địa huyền hoàng đã dùng hết,
Công Dương Vũ và Lương Tiêu bèn phát triển thêm kiểu trận mới, hệt như
đánh cờ. Coi chín biến là dàn trận căn bản, trên nền tảng ấy họ lại tùy
cơ ứng biến, lần lượt đưa ra những ý tưởng mới. Bởi đây là thi đấu trận
pháp, hàm chứa đủ mọi nguyên lý về ngũ hành tương khắc, về bát quái cửu
cung nên phức tạp hơn hẳn nguyên lý đánh cờ thông thường.
Công
Dương Vũ càng đấu càng kinh hoàng: “Tiểu tử này còn ít tuổi mà kiến thức toán học đã sâu sắc quá! Ta nghiền ngẫm Thiên địa huyền hoàng đã bao
nhiêu năm mà không chiếm nổi ưu thế so với một kẻ mới vận hành lần đầu”. Thực tế Lương Tiêu cũng bóp đầu bóp trán, suy nghĩ đến rã rượi cả
người, không dám sơ ý mảy may. Thoạt tiên gã gắng gỏi cốt mong thoát
chết, nhưng càng lúc càng hứng thú, dần dần chú ý đến mặt học thuật của
trận thế, thậm chí còn thiết tha hơn cả mục đích cầu sinh.
Hai
người đều thông tuệ mẫn tiệp, xứng đáng là kỳ phùng địch thủ của nhau
trong trận đấu trí này. Lúc đầu họ chạy trận như gió táp mưa sa, nhưng
lần lần, mức căng thẳng càng cao thì tốc độ biến trận càng chậm. Cứ nhăn nhó suy nghĩ một lúc, họ lại quất tay áo, trao đổi một lượt biến hóa,
đến nước không khai triển được nữa thì dừng, lại chống má trầm tư cho
tới lúc một tia sáng khác lóe lên trong trí.
Giao đấu miệt mài
suốt hai canh giờ vẫn chưa phân thắng bại, thình lình ở mạn núi phía tây có tiếng ưng kêu lảnh lót, ngân nga mãi không dứt, Công Dương Vũ nhíu
mày vẻ sốt ruột.
Tiếng ưng vang vọng hồi lâu, không hề ngắt
quãng. Công Dương Vũ đứng bật dậy, giũ tay áo, hai chẽ lá tùng bắn véo
về phía Lương Tiêu. Gã này đang chìm đắm trong trận pháp, không đề phòng nên bị chẽ lá găm trúng hai huyệt Đản trung và Thần phong khiến thân
thể tê dại.
Công Dương Vũ cười khì khì:
– Lát nữa tỉ thí tiếp cũng không muộn, hai tên quỷ kia đấu đá đã lâu mà không biết kết quả thế nào, chúng ta đi xem cho vui.
Lương Tiêu bị xách chạy, gió rít vù vù bên tai, cảnh vật cứ ào đến trước mắt
rồi lại lùi tít ra sau. Công Dương Vũ nhảy cao hụp thấp, chỉ nháy mắt đã băng đi xa đến mấy chục dặm.
Đến một sườn núi, ông nhảy phóc lên một tảng đá to, cười bảo:
– Tới nơi rồi! – nói đoạn thả Lương Tiêu xuống.
Gã thiếu niên giương mắt nhìn. Cách chỗ họ khá xa có dãy núi xanh mờ giăng ngang chân trời, mây vờn sương phủ che kín vòm không. Cạnh đó là rặng
lau sậy, hoa lau rung rinh trắng như đọng tuyết. Bên rặng lau sậy có hai người, một vận đồ trắng một vận đồ đen, người áo đen chính là Tiêu
Thiên Tuyệt, người áo trắng tuổi ước ngũ tuần, nhân dạng khác hẳn dân
trung thổ, mũi cao mắt sâu, da trắng, mặt mày nhẵn nhụi, môi mỏng dính,
tóc bạc chải mượt cuộn thành búi to trên đỉnh đầu. Còn một người khác
ngồi gần chỗ hắn, mình bận quân phục Đại Nguyên, chiếc mũ lông chiên đã
bỏ ra, để lộ mái tóc đen đổ xõa xuống đến thắt lưng.
Tim Lương Tiêu đập thình thịch, nếu không bị điểm huyệt, chắc gã đã hét toáng lên.
Bởi vì tên lính Nguyên đó nào phải ai xa, chính là A Tuyết! Lạ một nỗi thân hình cô thẳng đuỗn khác thường, dáng ngồi cứng đờ như đá.
Người áo trắng ngậm ngang miệng một ống tiêu dài đỏ sẫm, tiếng ưng kêu phát ra từ chính ống tiêu này.
Trên không, bảy tám con chim ưng, diều hâu vừa rít lên dữ tợn vừa mổ cào cắn xé hai con kên kên, lông vũ rụng lả tả. Đôi kên kên dũng mãnh lạ
thường, mỗi lần mổ hoặc cào phát đều trúng một con diều hoặc ưng, hất nó rơi xuống đất. Lương Tiêu nhớ lại mẹ từng kể thuở nhỏ có nuôi một cặp
kên kên, chắc là hai con này đây.
Tùy theo nhịp tiêu bổng hoặc
trầm, từ những khe núi hang đá ở khắp bốn phương tám hướng lại có chim
ưng hoặc diều hâu lồng lộn bay tới, chỉ thoáng chốc đã tập hợp đến mấy
chục con, cùng xúm quanh đôi kên kên mà bươi cào xâu xé.
Lương Tiêu thầm kinh ngạc: “Không lẽ người này biết dùng âm thanh để điều khiển ưng cắt?”.
Đôi kên kên dần dần yếu thế, không địch nổi số đông, đầu và cánh bị mổ
trúng, lảo đảo chao nghiêng, rền rĩ thê thảm. Tiếng tiêu chợt ré lên,
bầy ưng diều liền xáp lại hai con kên kên lẻ loi, đồng loạt vươn mỏ giơ
vuốt tấn công. Máu tưới ra khắp nửa vòm trời, đôi kên kên đã bị xé bung
làm nhiều mảnh.
Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi giận dữ, hàng mày chữ bát nhíu thấp. Người áo trắng ngưng thổi tiêu, đắc ý nói:
– Tiêu lão quái, ngươi bảo cặp kên kên này vô địch tầng không mà? Bây giờ thua rồi đấy, còn gì để nói đây?
Dứt lời hắn cười ha hả, tiếng cười xen lẫn điệu rít rin rít lạ lùng.
Lương Tiêu nghe quen tai, sực nhớ: “Tràng cười quái dị hồi đêm chắc là của hắn”.
Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng đáp:
– Được, hiệp này coi như ta thua. Theo thỏa thuận, trước tiên chọi chim,
kế đến tỉ võ. Hạ Đà La, ngươi có giỏi thì lần này đừng trốn.
Người áo trắng cười khà khà, chẳng ừ chẳng không. Thấy Tiêu Thiên Tuyệt chực
xông tới, hắn vội đặt ống tiêu lên miệng, thổi một tràng lanh lảnh.
Như đáp lại, khắp trời vang vọng một bầu âm thanh hỗn tạp, hàng đàn ưng
diều sà xuống, nhất tề lao bổ vào Tiêu Thiên Tuyệt. Lương Tiêu khiếp
đảm: “Kẻ này có khả năng điều khiển chim ưng, chẳng rõ lai lịch hắn ra
sao?”.
Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, múa song chưởng lên đón bầy
chim. Rẹt một tiếng, tựa hồ bị một giàn đao kiếm vô hình phạt qua, đám
ưng, cắt, diều hâu gãy cánh cụt đầu rơi xuống lộp độp, những con còn
sống thì bay tán loạn, không dám áp sát Tiêu Thiên Tuyệt nữa.
Chỉ thoáng chốc, bầy ưng diều đông đúc đã bị đánh tan, chỉ sót một con chim ưng, nó kinh hoàng sải cánh chực bay, thình lình cùng tiếng gầm dữ dội, một con hổ đen từ vạt rừng bên cạnh phóng ra, tung mình chồm cao hơn
một trượng, vồ con chim kéo xuống, di mạnh nó trên mặt đất, xem chừng
không sống được nữa rồi.
Hạ Đà La cười rin rít:
– Thiên vật nhận của lão càng ngày càng sắc bén!
Tiêu Thiên Tuyệt trợn mắt:
– Đừng lải nhải nữa, đền mạng đôi kên kên cho ta.
Lão đảo người, nhoài tới gần ba trượng, Hạ Đà La không hề cử động mà thân
hình bỗng lướt ngang đi xa đến hai trượng, tránh khỏi phát chưởng của
Thiên Thiên Tuyệt:
– Bình tĩnh nào Tiêu lão quái, mở to mắt mà xem đây!
Hắn lại đặt ống tiêu ngang miệng, tiếp tục thổi. Lần này là âm điệu lách
cha lách chách, Lương Tiêu tự hỏi: “Tiếng chim gì nhỉ, nghe quen tai
lắm”.
Tiêu Thiên Tuyệt ngưng bước, cười nhạt:
– Được, lão phu gắng xem xem.
Lão đứng lại, quạt liền ba chưởng. Hạ Đà La tuy đang ở cách xa mấy trượng
mà cũng phải xê xích để né tránh, cuối cùng lui hẳn ra ngoài mười
trượng, mặt mày nhăn nhó, nhưng miệng vẫn thổi liên miên.
Chỉ
trong chớp mắt, bốn phương tám hướng rộ lên tiếng phụ họa ríu rít. Vòm
trời tối sầm. Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Trên không xuất hiện vô số chim sẻ, di chuyển rất nhanh về phía này như một đám mây dày màu gai xám.
“Ra là tiếng chim sẻ”, gã nghĩ.
Bầy sẻ dường nổi cơn điên, tràn
tới cực nhanh rồi đổ rào rào xuống Tiêu Thiên Tuyệt như giàn tên nhọn.
Tiêu Thiên Tuyệt tiếp tục phát chưởng. Chưởng phong tới đâu, xác sẻ rụng lộp độp tới đó, nhưng một đợt rơi xuống, đợt thứ hai đã đùn lên thay
thế, lớp nối lớp tấn công không màng sống chết.
Tiêu Thiên Tuyệt
thoạt đầu xuất chưởng còn ung dung thư thái, nhưng dần dần càng lúc càng nhanh, cuối cùng song chưởng lên xuống như chong chóng. Vậy mà đàn sẻ
vẫn dồn về nườm nượp, che rợp bầu trời, phủ dày mặt đất, y như thể toàn
bộ chim sẻ của dãy Hoàng Sơn đều tụ tập lại đây.
Khi đàn sẻ đã
quây kín trên không, Hạ Đà La dùng tiếng tiêu tách chúng làm hai tốp.
Một tốp bọc Tiêu Thiên Tuyệt bằng nhiều lớp như vỏ hành. Tốp kia xúm đến chỗ hổ đen, vươn mỏ mổ chí chát. Con hổ gầm thét giơ vuốt quất đuôi,
nhưng đàn sẻ quây kín đến nỗi nước cũng không lọt, con hổ che chắn được
đằng đầu thì đuôi lại sơ hở. Chẳng bao lâu, chỉ nghe một tiếng gầm khủng khiếp, hai mắt chảy máu, trong cơn kinh hoàng nó guồng chân chạy trốn.
Nhưng bầy sẻ truy đuổi kỳ cùng, chuyên nhắm những chỗ con vật không với
được vuốt tới mà mổ rỉa khiến máu thịt bắn tung tóe. Hổ đen phóng đi xa
đến hơn hai mươi trượng thì tiếng gầm rít dữ dội đã đổi ra rên rỉ thê
lương, bốn chân mềm nhũn, nó đổ vật ra đất.
Tiêu Thiên Tuyệt phổ
Thiên vật nhận vào song thủ, chưởng phong thường khi sắc bén là thế mà
gặp phải tình cảnh quái dị này cũng khó lòng phát huy uy lực. Se sẻ vốn
là loại nhỏ bé yếu đuối hạng nhất trong các loài chim, nhưng nhờ số
lượng đông đảo và tổ chức tấn công đồng loạt nên sức mạnh lại vượt xa
ưng diều. Tiêu Thiên Tuyệt quạt chết một lớp thì lớp khác sà đến, đánh
giết đến mức xác sẻ tích dày cả thước trên đất, còn con hổ đen đã bị đàn chim bươi vầy, rỉa sạch máu thịt, còn trơ khấc bộ xương trắng.
Lương Tiêu dày dạn và can đảm có thừa, đã từng thống lĩnh thiên quân vạn mã
phi ngựa quất roi tung hoành trên sa trường, vậy mà gặp cảnh này cũng
không khỏi ớn lạnh.
Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, quạt chưởng vù vù đánh thủng một lỗ hổng giữa lớp sẻ, đoạn tung mình lao vụt ra ngoài như một vầng mây đen, lướt thẳng về phía rặng lau sậy.
Lương Tiêu
theo dõi lộ khinh công của Tiêu Thiên Tuyệt với ánh mắt tán thưởng, đoán thầm: “Từ bụi lau sậy chắc lão sẽ nhảy xuống nước, muốn thoát bầy sẻ
quái gở kia thì quả thực đó là cách đơn giản nhất”.
Nhưng Tiêu
Thiên Tuyệt chỉ bay là là trên rặng lau rồi lướt ra xa hơn ba trăm bộ,
không xuống nước mà đáp lên bờ bên kia, một cành sậy màu xanh nhạt đã
nằm trong tay lão tự bao giờ.
Tiêu Thiên Tuyệt nhăn trán, ngắt bỏ hết lá nhánh, để lại một ống sậy thuôn thuôn, đoạn ngậm nó vào miệng
thổi u u. Tiếng sáo sậy vốn thê lương ai oán, lại được nội lực của Tiêu
Thiên Tuyệt thúc đẩy, âm thanh càng thêm thắt ruột thắt gan.
Kiến thức võ học của Lương Tiêu đã khác xa ngày xưa, vừa thấy khóe mắt cay
cay, gã rợn người hiểu ra, vội vàng dùng phép Nhập định và Tẩy tâm trong Tử phủ nguyên tông để tập trung tinh thần, loại bỏ tạp niệm, chống lại
tác động của tiếng sáo sậy.
Tiếng sáo vút lên, xen lẫn tiếng tiêu của Hạ Đà La. Bầy sẻ bị nhiễu âm thanh, không biết theo bên nào, đập
cánh soạt soạt bay rối rít quanh xác đồng loại, kêu lên ai oán rồi tản
dần đi, kết thúc trận đấu thấm đẫm máu tanh.
Lương Tiêu thở phù,
cảm thấy như học thêm được một điều, bụng bảo dạ: “Cách nhổ cỏ tận rễ
của Tiêu Thiên Tuyệt quả thực cao minh. Bầy sẻ bay đến vì tiếng tiêu,
phá được tiếng tiêu là tức khắc đập tan mọi mũi tấn công của chúng”.
Đàn sẻ đã biến mất nhưng Tiêu Thiên Tuyệt vẫn không buông sáo, thậm chí còn đẩy thêm nội lực vào ống sậy cho nhạc điệu tăng độ bi thiết, âm thanh
rầu rĩ vọng chân mây, bồi hồi quanh sơn cốc, nghe như lữ khách thở than
nỗi tha hương, thiếu phụ nỉ non đêm lẻ bóng. Hạ Đà La đổi liên tục các
loại tiếng chim, các cung biến điệu, từ yến oanh thỏ thẻ, vàng anh líu
lo cho chí hạc kêu não nuột, quạ gào inh tai.
Nhạc âm của hai bên đều vận dụng nội lực khiến người nghe điêu đứng bàng hoàng, rất khó
chống đỡ. Lương Tiêu phải dùng Tẩy tâm và Nhập định để trấn tĩnh mới
thoát được nguy hiểm. Đương tập trung tinh thần, chợt nghe tiếng sụt
sịt, gã thất kinh mở bừng mắt nhìn thì thấy A Tuyết nghẹn ngào vật vã
như hoa lê bị gió dập mưa vùi.
Nguyên là tiếng sáo của Tiêu Thiên Tuyệt quá đỗi thảm thiết, A Tuyết nghe mà kinh tâm động phách, huyết
khí dâng cao, không kiềm chế được nên bật khóc. Khổ nỗi còn bị điểm
huyệt nên khí lực không đủ, cô muốn khóc to nhưng đuối sức, đành chỉ
thút thít nấc nghẹn. Nỗi đau đớn bị khơi lên trong ngực do đó vô phương
giải tỏa, tích lại mỗi lúc một dày, mặt A Tuyết dần dần trắng bệch, hai
mắt lạc thần.
Lương Tiêu hiểu nếu cứ tiếp tục thế này, A Tuyết
nhất định sẽ đau thương quá độ mà chết. Gã muốn cứu viện nhưng thân thể
tê liệt, định xung khai huyệt đạo thì Bích vi tiễn quá ư lợi hại, gã thử mấy lần đều tốn công vô ích, đành tuyệt vọng nhìn A Tuyết gặp nạn.
Thình lình, Công Dương Vũ bỗng phá lên cười, tiếng cười chấn động rừng núi.
Đoạn ông xếp bằng ngồi xuống, nhuyễn kiếm Thanh Li đặt ngang đầu gối,
ngón co ngón búng gẩy trên thân kiếm làm phát ra âm thanh keng keng như
chặt đá chặt vàng.
Công Dương Vũ bảo:
– Tiêu lão quái, Khổng Tử dạy: nhạc buồn nhưng đừng nên bi lụy. Ngươi thổi sáo bát nháo như vậy nghe chẳng lọt tai chút nào.
Dứt lời, ông dùng kiếm thay đàn, vuốt lên thành âm chủy, vũ, miết xuống tạo âm cung, thương. Giai điệu uyển chuyển, chẳng những mượt mà như đàn gỗ
ngô đồng hay danh cầm cổ kim mà còn réo rắt hân hoan khiến nỗi buồn
thương dịu bớt. Ông cất giọng hòa theo khúc nhạc:
Ngoài đồng hoang có con chương,
Bên nhà có một cô nàng đương xuân.
Bạch mao chàng gói thịt phần,
Đem sang dụ dỗ tấm thân ngàn vàng.
Trong rừng bộc tốc mọc hoang,
Có con hươu chết nằm lang ngoài đồng,
Chàng đem ngả thịt gói xong,
Tặng cho người ngọc những mong kết tình.
“Khoan khoan chàng hãy kìm mình,
Đừng khua chó sủa, đừng rình rờ khăn!”
Bài Dã hữu tử khuân[4] này trích trong Kinh Thi, kể chuyện nàng con gái
đang tuổi xuân mơn mởn ở nơi đồng dã, có chàng trai lấy lá bạch mao gói
thịt con chương, con hươu đem tặng tán tỉnh. Ý thơ linh động, tươi tắn
hồn nhiên.
Công Dương Vũ hát xong, nhạc đệm thay đổi, ông lại chuyển sang bài khác:
Nàng rằng: gà gáy sáng kìa,
Chàng: ừ, trời cũng tờ mờ từ lâu.
Vậy chàng nên dậy cho mau,
Sao mai lấp lánh phương nào rồi kia.
Đeo cung rong ruổi đồng quê,
Bắn chim phù, nhạn mang về cho em.
Nhạn, phù chàng bắn, để xem,
Em làm vài món lại thêm rượu nồng
Thuận hòa tới lúc răng long,
Vui duyên cầm sắt, thỏa lòng thương yêu.
Đây là bài Nữ viết kê minh[5], cũng trích trong Kinh Thi, thuật lại chuyện
đôi nam nữ tự tình đêm hôm, ý ngọt ngào âu yếm, tình nồng nàn lả lơi.
Hai bài hát cất lên, lập tức pha loãng âm giai của sáo sậy. Nỗi đau đớn đè
trĩu ngực A Tuyết cũng vợi bớt, nhưng tự nhiên một cảm giác lạ lùng khác lại xâm chiếm hồn cô, khiến mặt cô đỏ ửng và đầu óc tràn ngập muôn
tưởng tượng xa xôi, tất cả đều xoay quanh hình ảnh Lương Tiêu.
Hạ Đà La ngưng thổi địch, cười rin rít:
– Thì ra Công Dương huynh cũng là người đồng hội đồng thuyền với chúng
ta. Kinh Thi còn có bài Thư cưu họa tiếng quan quan, Bên cồn sông vắng
hót vang vui vầy. Yêu kiều thục nữ thế này, Cùng chàng quân tử sánh tày
lứa đôi. Sái gia[6] trẻ trung mến người ngọc, thường ngày đều theo đuổi
cái đẹp đấy.
Hắn vốn chỉ lõm bõm về thơ Hán, tự nhiên gặp đúng
dịp để khoe khoang dấn vốn ít ỏi của mình thì lấy làm đắc ý lắm, cười
toe toét liếc về phía A Tuyết. Lương Tiêu khinh bỉ nghĩ: “Chí ít cũng
bốn năm chục tuổi đầu rồi mà còn tự xưng là trẻ trung mến người ngọc.
Trơ thế không biết!”.
Công Dương Vũ mỉm cười, lại hát:
Tân Đài tráng lệ, Hoàng Hà cuộn trôi,
Tưởng lấy được chàng xinh tươi,
Ngờ đâu gá nghĩa với người hom hem.
Tân Đài chất ngất, Hoàng Hà lao xao,
Tưởng sa xuống chốn thanh cao,
Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang.
Khấp khởi quăng lưới, vớt phải cóc già,
Tưởng thân gửi gã hào hoa,
Tân hôn đêm ấy hóa ra lão còng[7].
Hạ Đà La nghe ca từ dường như ngụ ý đả kích, nhưng không hiểu rõ lắm, đang cau mày ngẫm nghĩ thì Công Dương Vũ cười hỏi:
– Hạ xú xà, ngươi có hiểu Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang nghĩa là gì không?
Hạ Đà La cười đáp:
– Ngôn từ kín đáo sâu xa thế, sái gia lỗ mỗ Hán văn, thực không hiểu nổi.
Công Dương Vũ nháy mắt:
– Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang, nói
rộng ra là chê cười sự bất cân xứng, châm biếm những con cóc ghẻ không
tự lượng sức đòi ăn thịt thiên nga ấy mà.
Hạ Đà La sầm mặt:
– Huynh đài muốn chửi sái gia là cóc ghẻ?
Công Dương Vũ cười tươi:
– Ấy, chính thế! Lão phu chửi ngươi ba lần cóc ghẻ mà ngươi vẫn một mực không chịu hiểu, thực là nước đổ đầu vịt. Ha ha ha…
Hạ Đà La hầm hầm hừ một tiếng rõ to.
Trong lúc hai người đối đáp, tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt dần dần thay
đổi sắc độ, ai oán sầu thương giảm bớt, tăng thêm tình ý miên man. Công
Dương Vũ ngạc nhiên lắng nghe.
Tiêu Thiên Tuyệt đang thổi bài Kiêm gia, cũng thuộc Kinh Thi:
Bên sông sậy mọc xanh xanh
Móc vương trên lá rành rành tựa sương,
Người ta đêm nhớ ngày thương,
Ở bờ đối diện mà dường quá xa,
Ngược nguồn tìm lối ta qua,
Gặp đường trắc trở cùng là quanh co
Trở lui tìm lối hạ du,
Ngờ đâu người lại lửng lơ giữa dòng.
Khúc hát này kể chuyện một chàng trai từng trải muôn vàn vất vả để đeo đuổi
người mình yêu thương. Công Dương Vũ vốn có tâm bệnh nên rất đồng cảm
với tình cảnh nhân vật. Ông đã lặn lội cùng trời cuối đất để tìm Lâm Tuệ Tâm, chịu đựng nhiều khổ sở tới mức toàn bài Kiêm gia cũng không đủ
diễn tả một phần vạn nỗi khổ đó, càng ngẫm càng thương thân, đầu óc dần
dần chống chếnh mụ mẫm.
Tiêu Thiên Tuyệt thổi hết một lượt bài
Kiêm gia liền thổi lại lần nữa. Âm thanh đó vây bọc mọi giác quan của
Công Dương Vũ, bản đàn dưới những ngón tay ông cũng dần dần đổi theo
giai điệu Kiêm gia:
Rặng lau mọc kín bờ sông
Móc trong buổi sớm ròng ròng chưa khô,
Người ta thương nhớ mong chờ,
Thoáng trông hình bóng ở bờ bên kia,
Ngược nguồn chân lựa nẻo đi,
Gập ghềnh khúc khuỷu dễ gì tiến sang,
Trở lui tìm lối xuôi đàng,
Ngờ đâu người đã chuyển sang giữa cồn.
Công Dương Vũ dùng tiếng đàn đấu với Tiêu Thiên Tuyệt nhưng lại vô tình bị
cuốn theo giai điệu lung lạc của đối thủ, chỉ thoáng chốc, nhịp tim hòa
với nhịp đàn, đôi mắt dần dần rực lên cuồng nhiệt. Hạ Đà La nhận thấy có thể lợi dụng được, bèn nghĩ bụng: “Võ công tài trí kẻ này đều đáng gờm, không nhân đây trừ khử hắn thì còn đợi tới khi nào?”. Hắn lập tức ghé
ống tiêu lên miệng, thổi ra âm thanh của chim thư cưu.
Thư cưu là loài chim ái tình, trống mái quấn quýt bên nhau cả đời không lìa xa.
Tiếng tiêu của Hạ Đà La não nuột luyến láy, hệt như châm dầu vào lửa,
khiến uy lực từ cây sáo sậy tăng lên bội phần.
Công Dương Vũ nghe sáo sậy và tiếng chim đồng vọng, tâm trạng thoắt phấn khởi thoắt bi ai, thoắt vui vẻ thoắt âu sầu. Bỗng nhiên, trước mắt ông thấp thoáng hiện
ra hình ảnh Liễu Tình áo trắng chân trần, tóc xanh buông dài chấm đất
yêu kiều đứng giữa mây trời, mỉm cười tươi tắn.
Khí huyết bừng bừng, Công Dương Vũ trân trân dõi nhìn bằng cặp mắt ứa lệ, đôi tay cất cao, ông gọi:
– Tuệ Tâm, cơn cớ gì mà nàng trốn tránh ta, cơn cớ gì? Nàng có biết ta
tìm nàng khổ sở đến nhường nào không? Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp
đường trắc trở cùng là quanh co. Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường
trắc trở cùng là quanh co…
Ngày thường ông vẫn than sầu oán khổ,
nhưng tự trọng thân phận nên thủy chung chỉ giữ trong lòng, lúc này bị
tiếng sáo và tiếng tiêu thúc đẩy tâm tư nên thổ lộ cả ra, mà đã thổ lộ
là ào ạt như thác đổ, không sao kìm nén được nữa.
Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ mất hết tỉnh táo thì lo cuống, khốn nỗi hai chẽ lá tùng
găm cứng các huyệt đạo đã cản trở mọi cố gắng can thiệp của gã. Trong
lúc bối rối, một tia sáng thình lình lóe lên trong óc: “Ban nãy Công
Dương tiên sinh chẳng đã dạy ta Bích vi tiễn đó ư? Ngoài cương trong nhu là xuất, sao ta không lấy dùng thứ kình đó mà bắn mấy chiếc lá này
ra?”.
Vừa nghĩ dứt, gã đã dồn nội lực đến huyệt Đản trung, đặt
cương kình bên ngoài, nhu kình bên trong rồi bật cung, sau một tiếng
“phụt” nhẹ, nhánh lá tùng rời thân bay ra. Lương Tiêu hoan hỉ lặp lại
cùng cách thức, đẩy nốt cả chẽ lá tùng ở huyệt Thần phong đi.
Lúc này Công Dương Vũ đã mê man thần trí, hoa chân múa tay, lẩm nhẩm mãi
câu hát Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co, bắt đầu mấp mé bờ vực của sự điên loạn.
Lương Tiêu không kịp đắn đo nhiều, lập tức nhảy vọt tới hét vang, áp một chưởng lên huyệt Ngọc
chẩm của Công Dương Vũ, đổ chân khí vào Đốc mạch rồi dồn nó chạy tới
huyệt Đại chuy.
Pháp môn này bắt nguồn từ thiên Nhập định trong
Tử phủ nguyên tông. Thường khi bắt đầu tập nhập định, người tu đạo vẫn
còn rất nhiều tạp niệm, chỉ sơ sẩy một chút là sa vào tẩu hỏa nhập ma,
vì vậy bên cạnh phải có sư tôn hỗ trợ, gọi thần trí họ quay về. Tình
cảnh hiện tại của Công Dương Vũ cũng tương tự tẩu hỏa nhập ma nên cách
làm của Lương Tiêu công hiệu ngay tức khắc. Công Dương Vũ rùng mình, lập tức tỉnh táo lại.
Tiêu Thiên Tuyệt căm thù Công Dương Vũđến tận
xương tủy, định nhân cơ hội ngàn năm một thuở này mà dồn kình địch vào
cảnh chết vì loạn trí, nào ngờ đến thời khắc quyết định lại bị Lương
Tiêu phá ngang. Nhìn đôi đồng tử của Công Dương Vũ trở nên linh động,
Tiêu Thiên Tuyệt hiểu rằng thế là xôi hỏng bỏng không, trong lòng tức
giận vô cùng, lão gắng đẩy sức vào tiếng sáo, nhằm lúc Công Dương Vũ
chưa thật tỉnh táo thì tấn công để ông trở tay không kịp. Hạ Đà La cùng
chung ý nghĩ, tiếng tiêu càng thêm riết róng.
Công Dương Vũ vừa
tỉnh đã gặp ngay hai mặt giáp kích, thầm than nguy hiểm, lập tức tập
trung tinh thần phòng thủ. Ông xếp bằng ngồi xuống, tay trái gẩy nhuyễn
kiếm tấu thật nhanh giai điệu Phong vũ thuộc Kinh Thi hầu chống lại
tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt, tay phải gỡ bầu rượu sơn đỏ ở thắt
lưng, đập nó cồm cộp lên mặt đá theo âm cung và thương tạo tiếng cú mèo
kêu để chống đỡ nhạc tiêu của Hạ Đà La. Hiềm nỗi tâm lực ông đã tiêu hao quá độ trong lúc thất thần vừa rồi, chưa kịp điều hòa hơi thở lại phải
đối phó cùng lúc với hai địch thủ nên nhọc sức vô cùng. Chỉ thoáng chốc, đỉnh đầu Công Dương Vũ bốc khói trắng nghi ngút, sau vài tích tắc, bầu
rượu bửa đôi, lại thêm một lát, đầu ngón tay lướt qua lưỡi kiếm đứt da
bật máu.
Lương Tiêu bèn tung mình lại gần Hạ Đà La, quạt chưởng
tấn công. Hạ Đà La thấy gã còn quá trẻ mà chưởng phong đã quá đỗi sắc
bén thì ngạc nhiên hết sức, nhưng đang đấu đến thời khắc then chốt, hắn
không muốn phân tâm đỡ đòn, bèn nhích đi xa hơn một trượng.
Lương Tiêu phát chưởng hụt mà cũng không trông thấy động tác di chuyển của Hạ Đà La nên vô cùng kinh sợ. Gã xoay bật người, lướt sang chỗ A Tuyết ôm
choàng lấy cô. A Tuyết mừng mừng tủi tủi, đôi mắt đẹp long lanh lệ. Hạ
Đà La không tiện di chuyển về, nhưng bộ dạng đằng đằng sát khí, hầm hầm
giương mắt nhìn.
Trận đấu giữa Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La mỗi lúc một nguy hiểm. Lương Tiêu xé áo bịt hai tai A Tuyết
lại, đoạn vỗ ba chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu vẫn điềm nhiên
ngồi yên, đợi chưởng phong của Lương Tiêu tới gần, áo lão bỗng phồng lên rồi xẹp xuống, đón và từ từ hóa giải luồng kình.
Lương Tiêu phát hoảng, muốn tiến lên giao đấu, song không nỡ bỏ A Tuyết một mình. Gã
thầm nghĩ nếu không ngăn cản Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La thì Công Dương Vũ chắc chắn sẽ thất bại. Đang bối rối, gã chợt nghe thấy tiếng chuông
boong boong vọng tới, âm thanh đầy đặn và vang vọng khắp khe khắp núi,
liền đó là một giọng oang oang:
– Hai đánh một, trơ tráo quá thể…
Cùng với lời nói, tiếng chuông vẫn ngân nga, nhịp buông điểm đúng khoảng lặng giữa những nốt chuyển của cây sáo sậy.
Tiêu Thiên Tuyệt bất ngờ, suýt bị tiếng chuông làm lạc nhịp, đành buông Công Dương Vũ, thúc nội lực vào tiếng sáo để đương cự tiếng chuông.
Công Dương Vũ nhớ lại tình cảnh khốn đốn vừa rồi, hai mắt trợn tròn, trỏ tay nói lớn:
– Hạ xú xà! Lúc trước không tính, bây giờ hai ta đơn đả độc đấu lần nữa.
Ông trút hết mọi căm giận với Hạ Đà La xuống Thanh Li kiếm, dùng nó thay đàn tấu bài Ân vũ:
Mau thay oai vũ nhà Ân,
Hưng binh chém Sở khí gần Đẩu, Ngưu…
Cảm nhận rõ rệt luồng sát khí rờn rợn bốc tận chân mây, Hạ Đà La không dám
trễ nải, cũng dùng tiếng hót của muôn loài chim để đáp trả.
Bỗng
đâu lại một tràng cười dài. Lương Tiêu dõi mắt nhìn ra. Từ cuối khúc
quanh của sơn đạo, Cửu Như đang rảo bước chạy tới, vai vác quả chuông
đồng cũ mòn, nhỏ bằng một nửa chiếc chuông đại ở chùa Hàn Sơn. Lão giơ
gậy gõ liên hồi lên tang chuông làm phát ra tiếng boong boong ầm ĩ.
Nhận ra Lương Tiêu, nhà sư cười vang:
– Nhóc con, đã lâu không gặp!
Lương Tiêu ôm quyền đáp:
– Đại sư vẫn phong độ như xưa, thật đáng mừng!
Cửu Như cười ha hả:
– Tiểu tử dẻo mồm! Đợi bần tăng xong việc, chúng ta sẽ đánh chén một bữa
thỏa thuê, uống hẳn ba trăm chung rượu! – Không đợi Lương Tiêu đáp lời,
lão đã đưa mắt nhìn sang Hạ Đà La, cười bảo. – Hạ xú xà, bần tăng gặp
người quen cũ, mải kể lể hàn huyên nên đến muộn. Ha ha, ngươi tưởng ta
không nhớ đấy à?
Lão vừa nói vừa đập vù cây gậy xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.
Gậy đập thẳng xuống, động tác không có gì đặc biệt, song Hạ Đà La xem chừng rất úy kỵ, lùi tránh đến hơn một trượng. Hắn nhét ống tiêu vào trong
tay áo, mỉa mai:
– Đồ lừa trọc, ngươi cứ muốn bám nhằng nhẵng đánh chí chết thế ư?
Cửu Như cười khì khì:
– Ta chỉ đánh chí chết thôi, còn bám nhằng nhẵng là cung cách của con rắn bẩn tính nhà ngươi. Người ta bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, dắt trâu
phải xỏ lỗ mũi. Ha ha, đáng tiếc Hạ xú xà không phải đạo sĩ, bằng không
bần tăng cũng tìm một sợi thừng xỏ lỗ mũi ngươi dắt đi.
Trong lúc chọc ghẹo, nhà sư vẫn múa tít cây gậy.
Hạ Đà La lắc mình lùi xa ra, trợn mắt mắng:
– Đồ lừa trọc, trời đất tuy rộng lớn nhưng không có gì thoát khỏi hai từ
“lý lẽ”. Sái gia chưa từng trêu cợt ngươi lần nào, vậy mà năm xưa ngươi
ráo riết đuổi đánh ta khỏi trung nguyên. Cứ cho là bỏ qua chuyện quá khứ đi, hôm nay ta mới trở lại, tại sao ngươi cũng dai dẳng bám theo suốt
mấy ngàn dặm qua?
“Thịch” một tiếng, Cửu Như dộng mạnh cái chuông xuống, cắm phập cây gậy gỗ trắc bên cạnh, cười nhạt:
– Ngươi đủ trơ trẽn để nhắc đến lý lẽ à? Ngươi đột nhập trung nguyên, tàn sát hơn ba trăm mạng, cưỡng bức hơn sáu mươi dân nữ. Chẳng từ một việc
ác nào, chết trăm lần chưa đủ đền tội.
Hạ Đà La nóng nảy cắt ngang:
– Lũ dân đen đó sinh ra là để sái gia luyện công, giết vài ba đứa đã ăn
thua gì! Còn đám đàn bà con gái kia, được sái gia biệt đãi là phúc phận
của chúng nó, vừa khoái lạc vô bờ vừa bảo toàn tính mạng, nhất cử lưỡng
tiện đến thế là nhất rồi!
Cửu Như quắc mắt, chạy quanh Hạ Đà La hai vòng, phỉ nhổ:
– Con rắn đốn mạt, ta quất nát đít ngươi!
Lão khua gậy lên, Hạ Đà La uốn mình tránh, lạnh lùng đáp:
– Đã thế, hôm nay có ngươi thì không có ta.
Hắn rút trên vai ra một thứ binh khí khuôn dạng kỳ lạ, tay cầm ở giữa, từ
đó xòe ra bốn phía bốn mũi dao cong lưỡi liềm dài chừng một thước hắt
ánh lạnh băng, trông tổng thế giống hình chữ卐.
Thứ binh khí này tên là Bát Nhã phong, sắc bén tuyệt luân, lối phát chiêu rất kỳ dị, Cửu Như bật cười:
– Ăn cắp ở đâu ra đấy? – đoạn tay phải múa gậy vun vút, tay trái cất chuông, miệng quát to. – Chết này!
Cái chuông kêu “hù” một tiếng, chụp xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.
Bát Nhã phong lóe lên sắc lạnh, chém đứt đôi chuông đồng. Cửu Như cười ha
hả, xoáy tít cây gậy như chim xuyên rừng cây, lao qua giữa hai mảnh
chuông đồng, đập thẳng xuống ngực đối thủ. Hạ Đà La uốn mình tránh, động tác mềm dẻo như người không xương, binh khí quay vù vù hệt như một vầng trăng sáng lăng về phía Cửu Như.
Công Dương Vũ bình sinh tự phụ, thấy Cửu Như ra tay thì cũng ngừng gẩy kiếm tấn công Hạ Đà La.
Ông đưa mắt sang Tiêu Thiên Tuyệt, cười khà khà:
– Hạ xú xà có hòa thượng tiếp đón rồi, chúng ta cũng nên dứt khoát một lần cho xong.
Tiêu Thiên Tuyệt ngừng thổi sáo sậy, lạnh lùng đáp:
– Đúng ý lão phu.
Chữ “phu” vừa buông, tay áo Công Dương Vũ đã bay phần phật, lưỡi nhuyễn kiếm bắn tới trước mặt Tiêu Thiên Tuyệt.
Tiêu Thiên Tuyệt hơi đảo người, song chưởng thoắt biến đao biến kiếm, biến
giáo biến thương, trong khoảnh khắc mà hoán đổi chiêu thức của bảy tám
loại binh khí khác nhau để chặn thế kiếm dữ dội như cuồng phong của Công Dương Vũ. Nhà nho càng đánh càng sảng khoái, cất tiếng hú dài, đường
kiếm phóng khoáng như gió thổi hoa rơi, lồng lộng như trăng soi mặt
sóng, thoát khỏi mọi gò bó của ý thức, nghiêng dần về hướng tự nhiên
tiềm thức.
Tiêu Thiên Tuyệt thấy khó mà chống đỡ được bằng tay
không, bèn lấy sáo sậy ra khỏi tay áo. Thiên vật nhận của lão vốn là nội kình, yếu lĩnh ở chỗ “vạn vật trong trời đất đều là binh khí của ta”,
hễ phổ nó vào chưởng, quyền thì da thịt rắn đanh như đao, chùy; phổ nó
vào giấy, cỏ thì các đồ vật ấy cứng sắc như cưa, kiếm, không gì không
chém được. Vì vậy mà ống sáo tuy chỉ là một đoạn lau sậy dài năm tấc,
nhưng khi nằm trong các ngón tay Tiêu Thiên Tuyệt, nó trở nên khí thế và mạnh mẽ không thua bất cứ một loại khí giới nào.
Cuộc tỉ thí
giữa bốn đại cao thủ hôm nay là một dịp hiếm có, cả đời cũng khó gặp một lần. Lương Tiêu theo dõi đến hoa cả mắt: xem cặp Cửu Như – Hạ Đà La thì lại bỏ lỡ Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt, nhìn Công Dương Vũ – Tiêu
Thiên Tuyệt thì lại không bao quát được Hạ Đà La và Cửu Như.
Bốn
đấu thủ ra chiêu càng lúc càng dữ dội. Trong một tích tắc tránh đòn, Hạ
Đà La chợt nhận ra Công Dương Vũ đang đứng đâu lưng với mình, liền sinh
ác tâm, bèn tận dụng khoảnh khắc né chiêu Cửu Như mà khua Bát Nhã phong
đâm lén nhà nho.
Công Dương Vũ trở lui kiếm chắn đỡ. Tiêu Thiên
Tuyệt tự phụ thân phận, không muốn liên thủ với Hạ Đà La bèn ngừng tấn
công. Chợt Cửu Như cười to:
– Tiêu lão quái, ba mươi năm cách mặt, bần tăng tưởng ngươi đi ngủ với giun với dế rồi kia đấy! – Dứt lời, lão múa gậy đánh tới.
Tiêu Thiên Tuyệt giơ ống sáo gạt gậy ra, hoàn trả một chưởng, lạnh lùng đáp:
– Tên sư trọc nhà ngươi sống đến hôm nay kể cũng hiếm có nhỉ!
Cửu Như xoay gậy quét ngang đập thẳng, đâm trái hất phải, hai bên giao đấu không khoan nhượng.
Chẳng bao lâu, Tiêu Thiên Tuyệt xoay sang đấu với Hạ Đà La, Cửu Như thành ra
đấu với Công Dương Vũ. Thuở xưa bốn người đã từng chạm trán, nay tái ngộ sau ngần ấy năm, ai cũng muốn xem đối phương tinh tiến bao nhiêu, vì
vậy cứ lát lát lại đổi đấu thủ, chú ý thăm dò căn cơ của nhau.
Lương Tiêu theo dõi một cách say sưa, bất giác tự hỏi: “Trong số này, rốt cục ai là người lợi hại nhất nhỉ?”. Gã đang băn khoăn, chợt nghe Cửu Như
cười bảo:
– Lão đồ gàn, ngươi khác với Tiêu lão quái và Hạ xú xà, bần tăng vốn chẳng muốn cho ngươi một bài học làm gì, khổ nỗi ngoại
hiệu của ngươi lại phạm vào điều đại kỵ của bần tăng.
Công Dương Vũ cau mày:
– Ngoại hiệu nào?
Cửu Như cười:
– Có kẻ tán dương ngươi là thiên hạ đệ nhất kiếm, chữ “kiếm” thì thôi
không nói, nhưng bốn chữ “thiên hạ đệ nhất” khiến bần tăng chướng tai
không chịu nổi.
Công Dương Vũ nhổ phì phì:
– Ba hoa khoác lác, làm như ngươi là thiên hạ đệ nhất không bằng!
Cửu Như bật ngón tay cái trái, cười hì hì:
– Quả nhiên là dân đọc sách, hiểu nhanh hơn hẳn người thường. Bần tăng
không chỉ là thiên hạ đệ nhất mà thiên thượng cũng là đệ nhất luôn đấy!
Trước thái độ dương dương tự đắc và giọng điệu huênh hoang của nhà sư, Công Dương Vũ vừa bực mình vừa tức cười, mắng rằng:
– Chả trách người ta gọi ngươi là lừa trọc, mặt dày hơn cả da lừa!
Ông ta được Cửu Như giải vây, lòng vốn cảm kích vô cùng, trước sau xuất thủ vẫn nương nhẹ, đến lúc này bị Cửu Như nói khích mới nảy thói háo thắng, tung hết chiêu thức ra giao đấu.
Hai người đều dùng binh khí màu đen, lúc tạm ngưng trông như rắn đen quấn cành khô, lúc tấn công dữ dội thì như rồng đen cưỡi mây. Cửu Như càng đấu càng hứng khởi, hò hét vang lừng.
Nhà sư đang hò la, chợt mé ngoài núi có người thét vào:
– Lão lừa trọc đấy phải không?
Tiếng thét tựa sấm rền, vang dội khắp dãy núi. Cửu Như hơi biến sắc, buột miệng gắt:
– Ừ, chính cha ngươi đây!
Người nọ cười ha hả:
– Lại đây lại đây, chúng ta tái đấu ba trăm hiệp nữa.
Cửu Như nhăn nhó sỉ vả:
– Đấu cái con khỉ, bần tăng còn có việc hệ trọng phải làm, không rỗi mà
chơi với ngươi. – Lão bỏ mặc Công Dương Vũ, quất gậy đánh vút, nện thẳng xuống đầu Hạ Đà La.
Trong số bốn người thì thì Hạ Đà La có kém
sút hơn chút đỉnh, đơn đả độc đấu may ra chống đỡ được chừng sáu trăm
chiêu, nhưng cứ thay đối thủ liên tục, chiêu số biến đổi quá nhiều khiến hắn khó thích ứng. Lúc này hắn đang tập trung tinh thần đón đỡ, chắn
chỗ này lại hở chỗ kia, bị Cửu Như nện liền hai gậy phải luống cuống
giật lui.
Chợt Cửu Như gầm lên như sấm:
– Trúng!
Một gậy của lão bay tới, nện trúng vai trái Hạ Đà La. Tên này đau thấu
xương cốt, lập tức quay mình chạy trốn. Cửu Như bám sát không rời. Bên
chạy bên đuổi, chớp mắt đã phóng lên tới sống núi.
Đột nhiên, một người phi thân ra chặn đường Cửu Như, miệng cười hì hì:
– Lão lừa trọc, đánh nào, đấu nào!
Kẻ đó vừa nói vừa luôn tay luôn chân đấm đá, chiêu thức tinh diệu vô cùng, Cửu Như bản lĩnh là vậy mà cũng phải dừng bước.
Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đều ngạc nhiên. Họ vừa tỉ thí với Cửu Như, biết rõ nhà sư lợi hại đến mức nào, nay thấy lão bị một người tay không vung quyền bức lui, chẳng ai hiểu ra sao nữa. Cả hai quan sát võ công
của người mới đến, mặc dù kiến thức rất rộng mà đều thắc mắc trước đường lối võ công và lai lịch chủ nhân.
Sau khi xáp vào giao đấu chớp
nhoáng chừng hai mươi hiệp, Cửu Như quật một gậy đẩy lui người nọ, tung
mình nhảy vọt qua sống núi.
Đối thủ bị bỏ rơi kêu oai oái:
– Chạy đi đâu? Đánh nữa, đánh nữa nào…
Vừa gọi, y vừa nhào một vòng theo Cửu Như, mất tăm dưới mé bên kia. Công
Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt thấy người nọ nói năng cử chỉ đều kỳ cục mà võ công cao cường nhường ấy thì đều hết sức tò mò, không ai bảo ai,
cùng thi triển khinh công bám sát đằng sau.
Chạy được mấy bước, Công Dương Vũ chợt dừng chân, quay lại trừng mắt với Lương Tiêu:
– Tiểu tử họ Lương, hôm nay lão phu nhận ơn cứu viện của ngươi mà còn hạ
thủ giết ngươi thì thật không phải. Nhưng nếu ngươi vẫn tiếp tay cho bọn Thát thì dù mang tiếng bất nghĩa, trước sau gì lão phu cũng lấy mạng
ngươi.
Lương Tiêu thoáng trầm ngâm, đoạn vòng tay đáp:
– Xin tiên sinh yên lòng, từ nay về sau, Lương Tiêu quyết không làm tổn hại đến một dân lành nào của Đại Tống nữa.
Công Dương Vũ cau mày ngắm gã từ đầu xuống chân, đoạn gật đầu, chạy như gió cuốn theo hướng Tiêu Thiên Tuyệt.
Lương Tiêu nhìn theo bóng hai người, lòng chộn rộn muôn ý nghĩ. Lát sau
ngoảnh lại A Tuyết, thấy hai má cô đỏ hồng, đôi mắt long lanh, hàng mi
dài còn ngân ngấn lệ, gã bèn bắt mạch thử xem.
Nhận ra hai mạch
Nhâm, Đốc đều tắc, Lương Tiêu vận nội lực khai thông, nhưng vô hiệu. Gã
thi triển Bích vi tiễn, cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, ngưng khí làm tên, đẩy nội lực vào cơ thể cô gái. A Tuyết nghe lồng ngực nhẹ nhõm hẳn đi, buột miệng kêu:
– Ca ca, muội nhớ huynh chết đi được!
Lương Tiêu định đả thông Đan điền cho A Tuyết, nghe vậy mắng át:
– Mở miệng ra là chết với sống, gở kinh lên được!
A Tuyết đỏ mặt, cúi đầu vò vò chéo áo. Lương Tiêu hỏi:
– Tại sao muội lại ở đây?
Mắt A Tuyết hoe đỏ:
– Nghe… Hồ Lão Vạn kể huynh đuổi theo Công Dương tiên sinh và Tiêu Thiên
Tuyệt, muội lo quá, liền quất ngựa rời thành đi tìm huynh.
Lương Tiêu phát cáu:
– Hồ Lão Vạn, cái đồ lắm mồm! Về rồi ta sẽ cho mấy cái bạt tai!
A Tuyết cuống quýt nài:
– Ca ca đừng đánh hắn. Hắn mà không nói, chẳng phải muội càng lo lắng hơn ư?
Lương Tiêu lườm cô:
– Lo lắng thì có tác dụng gì? Vậy tại sao muội rơi vào tay người áo
trắng? Hắn… hắn có ức hiếp muội không? – Họng nghẹn lại, gã vội lấp
liếm. – Thôi, nếu không tiện trả lời, coi như ta chưa hỏi, quên câu ấy
đi!
A Tuyết lắc đầu:
– Muội không rõ nguyên nhân khiến hắn bắt muội, chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao đã bị đưa đến đây rồi.
Chuyện cũng chẳng có gì bất tiện, để muội kể hết cho huynh nghe.
Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Muội khờ của ta, chắc đã bị hắn phạm đến thân rồi,
vậy mà cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa!”. Gã gắng nén nỗi đau lòng, dịu dàng bảo. – Muội kể những chi tiết bình thường ấy, chỗ nào không
vui thì tránh đi. Từ rày về sau cũng đừng bận tâm nghĩ ngợi, coi như
chưa từng xảy ra chuyện gì là được.
A Tuyết ngạc nhiên:
–
Coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là sao? Muội nhớ rõ cả mà. Lúc đó
muội phóng ngựa ra ngoài thành, chưa xác định được là nên đi hướng nào,
đang sấp ngửa chạy chợt cảm thấy mình ngựa trĩu xuống tựa hồ có người
ngồi lên phía sau lưng.
Lương Tiêu buột hỏi:
– Người áo trắng phải không?
– Vâng. Muội ngoái đầu nhìn thì chẳng thấy một ai, nhưng vừa quay đầu đi
thì có luồng hơi phà vào tai muội tê tê buồn buồn thế nào ấy. – Kể tới
đây cô cảm thấy hổ thẹn, khuôn mặt đỏ bừng.
Lương Tiêu cau mày, ngập ngừng hỏi:
– Sau đó thì sao?
– Sau đó, muội thò chưởng ra sau đẩy hắn, không ngờ đẩy hụt, khi thu
chưởng về thì hắn lại thở khì vào tai muội, vừa thở vừa thì thào: “Tiểu
cô nương biết võ công à, hay quá nhỉ”. Muội phát hoảng, không nhịn được
bèn hỏi: “Ta mặc đồ nam mà, vì sao ngươi biết ta là tiểu cô nương?”. Hắn cười hì hì: “Sái gia tinh mắt lắm, ruồi bay qua còn phân biệt được con
đực hay con cái nữa là! Ở trung nguyên này, sái gia chưa từng gặp ai vừa xinh xắn vừa biết võ công như cô nương”. Nghe cái giọng thơn thớt nói
cười ấy, không hiểu sao muội cảm thấy rất nhột nhạt, bèn đuổi: “Ngươi
đừng ngồi sau lưng ta nữa, kẻo nặng quá ngựa nó không chịu nổi đâu.
Ngươi mà không xuống là ta đánh đó”. Hắn cười: “Được, cô đánh đi, đánh
trúng là ta xuống liền”, dứt lời liền với tay lên sờ soạng mặt muội.
Kể tới đây, A Tuyết cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc chín. Lương Tiêu nặng nhọc lắc đầu:
– Thế là đủ, ta không muốn nghe nữa.
A Tuyết nhíu mày:
– Sự việc sau đó lạ lùng lắm, huynh bỏ ngang là tiếc đấy. – Không để
Lương Tiêu kịp lên tiếng, cô tiếp tục. – Khi ấy muội bực lắm, bèn ngoảnh đầu lại đẩy, nhưng không thấy hắn đâu, vừa xoay mình đi thì hắn đã phà
hơi vào tai muội, còn lảm nhảm nhiều câu kỳ cục, muội không hiểu lắm.
Nhưng câu này thì dễ hiểu, hắn khen muội ưa nhìn… Theo huynh hắn có nói
thật không? So với Liễu cô nương, với chủ nhân hay Lăng thư thư, Băng
thư thư thì muội không bén gót ai cả.
Lương Tiêu nhìn khuôn mặt khả ái trắng trẻo, thở dài bảo:
– Thôi thôi, không kể nữa, chúng ta về đi!
A Tuyết thắc mắc:
– Sao cơ? Sắp tới vô khối sự lạ, muội chưa nói xong mà.
Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Để con bé kể ra hết rồi khóc thỏa thuê một bữa thì có khi tốt hơn”. Gã bèn nghiến răng bảo:
– Được, muội thong thả kể tiếp đi, ta nghe.
A Tuyết tiếp:
– Vâng, đúng lúc muội không xua đuổi được hắn, đang lo cuống cuồng thì
sau lưng bỗng vang lên tiếng chuông coong coong y hệt tiếng chuông của
ông sư vừa rồi ấy. Người áo trắng “hừm” một tiếng rồi rủa: “Đồ lừa trọc
chết đâm chết chém, tổ sư con… bà ngươi”. – A Tuyết ngừng lời, ngượng
nghịu thanh minh. – Câu này là tên áo trắng chửi, muội chỉ thuật lại
thôi.
Lương Tiêu nín lặng. A Tuyết ngắc ngứ nói:
– Hắn lầm bầm mạ lị vài ba câu nữa rồi đột nhiên điểm huyệt muội, cười hì hì bảo: “Tiểu cô nương, ta mượn tạm con ngựa”, đoạn giằng dây cương, ra roi
phóng điên cuồng. Chạy hồi lâu hắn mới dừng lại nghỉ, kéo muội xuống
giải huyệt. Bấy giờ muội mới nhìn rõ hắn, lo rằng lỡ việc đi tìm huynh,
muội sợ hãi òa khóc. Người nọ vỗ về: “Nín nín, chúng ta tìm một chỗ êm
ái, sái gia sẽ khiến cô vui thích”. Muội đáp: “Không tìm thấy ca ca thì
chẳng có gì khiến ta vui cả”. Người nọ cười: “Ca với chả cốc, lát nữa cô sẽ sướng mê tơi, rối rít gọi ta là ca ca ấy”. Muội nghe kiểu nói năng
kỳ cục đâm bực, bèn bảo: “Còn lâu ta mới gọi ngươi là ca ca, trên đời
này ta chỉ có một ca ca mà thôi”. Người nọ vẫn nhơn nhơn: “Lát nữa cô
nương sẽ chẳng tự chủ được đâu, trông xinh xắn thế kia, lại là xử nữ,
lại biết võ công, làm cái đệm cho ta luyện đan thì còn gì thích hợp
bằng. – A Tuyết nhíu đôi mày thanh, hỏi. – Ca ca, đệm luyện đan là cái
gì?
Lương Tiêu cũng không hiểu lắm, bèn nói át đi:
– Là cái cũng chẳng hay ho gì.
– Muội cũng ngờ ngợ rằng đấy chẳng phải những lời lẽ tử tế. Người nọ vừa
lải nhải vừa nhìn muội với ánh mắt kỳ lạ rồi đứng bật dậy, kéo muội chạy vào rừng. Muội vùng vẫy mà không thoát được, đang lo quýnh, chợt lại
nghe tiếng chuông ngân. Tên áo trắng sững sờ tức giận: “Tiên sư con lừa
trọc, toàn làm người ta nhấp nhổm”, đoạn rủa xả vô khối lời lẽ thô tục.
Hừm, muội phát ngượng miệng, cách quãng đoạn này nhé ca ca?
Lương Tiêu theo dõi câu chuyện mà tim giật thột từng hồi, lúc này nghe vậy bèn bảo:
– Không chỉ cách quãng mà còn nên quên sạch những lời ấy đi.
A Tuyết gật đầu:
– Vâng. Hắn vừa chửi rủa vừa lôi muội lên ngựa phi nước đại. Mỗi lần dừng lại, nghe thấy tiếng chuông vọng tới là hắn nổi điên, mà cũng như sợ
hãi, vì hễ nghe tiếng chuông là lại quất ngựa chạy ngay.
Lương
Tiêu thở phào nghĩ bụng: “Có Cửu Như đại sư đuổi theo phía sau, Hạ Đà La dù bắt được A Tuyết cũng không tiện giở trò. Đại sư luôn tay gõ chuông
chắc cũng để khắc chế tiếng tiêu của hắn”.
A Tuyết tiếp tục:
– Chạy như thế suốt một ngày trời, cuối cùng con ngựa kiệt sức khuỵu
xuống. Người đó bỏ ngựa lại, kéo muội đi bộ. Được một thôi đường, muội
gặp một toán lính Nguyên đi ngược chiều. Thấy muội vận quân phục Đại
Nguyên, họ bèn nhao nhao la lối, bắt tên áo trắng buông tha muội. Tên
này khủng khỉnh cười, thình lình điểm huyệt muội rồi tung mình tới
trước, giáng quyền lia lịa, mỗi quyền phóng ra là một người ngã xuống.
A Tuyết kể tới đây, khuôn mặt ảm đạm. Lương Tiêu nghĩ bụng: “Thì ra đám
lính Nguyên mất mạng vì muốn cứu A Tuyết, ta chôn cất họ kể cũng như báo đáp được một phần”. Biết câu chuyện đang đến hồi căng thẳng, gã giục:
– Sau đó thì sao?
– Sau đó còn sáu binh sĩ sống sót, họ rất sợ hãi, ném vũ khí đi mà ra sức chạy trốn, nhưng bị kẻ kia tóm trở lại dồn vào làng. Trong làng vắng
ngơ vắng ngắt, hắn bắt sáu người chặt củi nhóm lửa, vo gạo thổi cơm. Ăn
xong, hắn ra lệnh cho họ xếp hàng một rồi vung quyền đấm, sáu người
không động đậy gì cả. Hắn chạy quanh họ một vòng, cười ré lên tựa như
cao hứng lắm.
Lương Tiêu ngẫm nghĩ: “Bao giờ Tiêu Thiên Tuyệt mới xuất hiện đây?”.
– Cười xong, kẻ đó bảo muội: “Tốt rồi, bây giờ lão hòa thượng cũng bị ta
cắt đuôi, không còn ai quấy nhiễu giấc mộng đêm lành của chúng ta nữa…”. Hắn hau háu nhìn làm muội sợ chết khiếp. Muội vùng chạy, nhưng bị hắn
tóm được tay áo. Đúng lúc ấy, trên mái nhà chợt có tiếng người nói: “Lão đồ gàn, chuyện của chúng ta phải gác lại đã”. Người khác nói: “Hay hớm
chưa, khéo không mất cả chì lẫn chài, lão phu không muốn ngươi chết dưới tay kẻ khác đâu”. Người đầu tiên hừ mũi: “Nói thối đếch chịu được!”.
Nhận ra giọng Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh, muội vừa ngạc
nhiên vừa mừng rỡ, ngạc nhiên vì tình cờ gặp họ, vui mừng vì nghĩ họ đã ở đây thì tức là ca ca cũng ở gần đây. Còn người nọ nghe tiếng biến sắc
mặt, đoạn cười phá lên: “Lão quái vật, lão đồ gàn, các ngươi đều là tông sư một phái, cơn cớ gì nấp nom thò thụt, lẵng nhẵng bám theo sái gia
như vậy?”. Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng nói: “Lẵng nhẵng đâu mà lẵng
nhẵng? Chẳng qua lão phu muốn xem ngươi tiến bộ đến mức nào nên cất công đi thêm mấy chục dặm mà thôi. Hừ, ngươi lại còn dắt theo cả nữ nhân,
chắc chê trận đòn năm xưa ở phủ Khai Phong chưa đủ độ chứ gì?”.
– Ái chà! – Lương Tiêu kêu lên. – Khoan đã, muội nói là phủ Khai Phong à?
– Vâng, muội nhớ là ông ấy bảo phủ Khai Phong.
Lương Tiêu vỡ lẽ: “Thì ra là hắn. Hừ, Hồ Lão Vạn, cái đồ xuẩn ngốc, rõ ràng
là Hạ Đà La lại nhớ trẹo thành Hoạt Lạc Đà mấy chả Tử Lạc Đà”.
A Tuyết tiếp tục:
– Tên áo trắng bảo: “Được lắm, Tiêu lão quái! Thôi thì ngươi và lão đồ
gàn cùng lên một lượt đi, sái gia chẳng sợ đâu”. Tiêu Thiên Tuyệt hừ
mũi: “Khỏi khích tướng, mình lão phu là đủ lấy mạng chó của ngươi rồi”.
Nói đoạn ông ta nhảy xuống khỏi mái nhà, phát chưởng chém liền. Người áo trắng đón đỡ, cười bảo: “Chúng ta đọ cước lực trước”. Nói xong hắn túm
lấy muội, guồng chân chạy vào trong núi, Tiêu Thiên Tuyệt liền đuổi
theo. Người nọ chạy lòng vòng hồi lâu, chợt dừng lại: “Tiêu lão quái,
sái gia mang theo một người, chạy mất sức quá. Bây giờ giao đấu thể nào
ngươi chẳng chiếm ưu thế”. Tiêu Thiên Tuyệt bèn gợi ý: “Được, tạm nghỉ
chừng thời gian cạn một chén trà rồi hẵng đấu tiếp”. Người nọ tỏ vẻ chán chường: “Tẻ nhạt quá, hay nhân lúc nghỉ thì tỉ thí kiểu khác vậy. Nghe
đồn lão quái có hai con kên kên hung hãn vô cùng, đúng không?”. Tiêu
Thiên Tuyệt hỏi thế thì sao, người nọ bèn nói: “Ta cũng có mấy con chim
ưng, hay hai bên chọi chim rồi đọ võ công sau?”. Tiêu Thiên Tuyệt cố
nhiên là nhận lời, tên kia bèn lấy ra một ống tiêu đỏ sẫm như máu, bắt
đầu thổi…
Nghe tới đây, Lương Tiêu ngắt lời:
– Đoạn sau ta chứng kiến cả rồi.
Gã xúc động trong lòng, nghĩ thầm chuyến này A Tuyết còn giữ được sự trinh bạch đều là nhờ Cửu Như và Tiêu Thiên Tuyệt. Cửu Như đã đành, nhưng
Tiêu Thiên Tuyệt cũng ra tay trợ giúp thì thực khiến gã bối rối không
biết nên nghĩ sao cho phải.
Hai huynh muội ngồi lặng nhìn nhau hồi lâu. Cuối cùng Lương Tiêu chậm rãi bảo:
– Về thôi!
– Huynh không đuổi theo Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh nữa à?
Lương Tiêu lắc đầu:
– Ta không bỏ muội ở đây được.
Nói đoạn gã quay đi, A Tuyết ngẩn ngơ một lúc, chợt níu tay gã kêu:
– Ca ca!
– Sao?
Lương Tiêu ngoảnh lại. A Tuyết rưng rưng lệ, run rẩy nói:
– Huynh hãy hứa, bất kể thế nào cũng không bỏ rơi muội. Suốt một đêm một
ngày nay, cứ nghĩ không còn được gặp huynh nữa, A Tuyết… chỉ muốn chết
đi cho rảnh. – Cô nấc nghẹn, nước mắt thánh thót tuôn rơi.
Lương Tiêu ngẩn người, giơ tay vuốt gọn mái tóc cô gái, thở dài bảo:
– Nha đầu ngốc nghếch, sau này dù đi đâu, ta cũng sẽ đưa muội theo, không để muội phải lo lắng nữa.
A Tuyết nghe vậy là thỏa nguyện, bỗng nhận ra đầu ngón tay Lương Tiêu
lướt đến đâu, da thịt mình tê dại đến đấy, tim cứ đập thình thịch.
Lương Tiêu dắt tay A Tuyết chực đi, chợt nghe “Ha!” một tiếng. Từ sống núi
phía sau có một người chạy vòng xuống, áo trắng tóc bạc, chính là Hạ Đà
La.
Số là hắn lợi dụng lúc Cửu Như bị người lạ mặt nào đó lẽo đẽo bám theo, bèn ẩn thân vào bụi cây, đợi bốn cao thủ đi khuất cả mới thò
mặt ra. Hắn tự nhủ nếu bọn Cửu Như muốn truy đuổi mình thì thể nào cũng
tiến lên phía trước, thực tế mình chạy lộn lại, nhất định sẽ khiến ba kẻ ấy trượt mục tiêu. Nghĩ sao làm vậy, hắn mò về đường cũ, tình cờ chạm
trán Lương Tiêu và A Tuyết.
Hắn liếc Lương Tiêu, cười rin rít:
– Ca ca cô đấy phải à? Nghe cô gọi thân thiết quá, sái gia phát ghen lên. Hay cô cũng nhận cả sái gia làm ca ca có được không?
Gặp phải cường địch, trí óc Lương Tiêu bắt đầu hoạt động rất nhanh để tìm
cách đối phó. A Tuyết có gã bên cạnh nên can đảm hơn lên, mai mỉa đáp
trả:
– Già đầu rồi mà còn đòi làm ca ca ta, tóc ngươi bạc trắng thế kia, làm bá bá ta có khi còn thừa tuổi đấy!
Hạ Đà La sầm mặt, nhép nhép môi, cười khan:
– Ngươi chẳng hiểu cái cóc khô gì, sái gia ta tóc bạc sớm, đâu phải là
già. Ha ha, cô không muốn ta làm ca ca thì nhất định ta phải làm.
A Tuyết bĩu môi:
– Ta thèm vào, trên đời này ta chỉ có một ca ca.
Hạ Đà La dịu nét mặt, cười ha hả:
– Càng dễ xử, ta giết phăng tên ca ca này của cô, thế là cô chỉ còn một ca ca là ta đây thôi.
A Tuyết nghe bắt bẻ, nhất thời không đối đáp lại được. Hạ Đà La cứ nhếch
mép cười nhìn Lương Tiêu, tựa hồ cân nhắc xem nên bắt đầu ra tay thế
nào. Lương Tiêu bỗng nhướng mắt cười to:
– Cửu Như đại sư, người đến đúng lúc quá!
Hạ Đà La bị Cửu Như truy đuổi suốt ngàn dặm, vốn đã hết sức cảnh giác, hệt như con chim phải cung sợ làn cây cong, nghe Lương Tiêu nói thế lập tức ngoảnh phắt đầu nhìn ra, nhưng chẳng thấy bóng dáng ai cả. Hắn biết bị
mắc lừa bèn ngoảnh ngay lại. Bấy giờ Lương Tiêu đã ôm A Tuyết chạy như
bay đến một ngọn núi.
Hạ Đà La tức tối, nhưng vẫn cười rin rít:
– Đệ đệ cũng biết ghẹo người đấy nhỉ? – Đoạn lắc mình, chỉ hai nhịp nhấp
nhô là đã tới gần Lương Tiêu khoảng mười trượng. – Tiểu cô nương muốn ca ca cô chết kiểu gì đây? Chết toàn thây hay bằm nát? Nếu cô không chạy,
ta sẽ để hắn được nguyên vẹn về với ông bà tổ tiên.
A Tuyết sợ quá, răng đánh cầm cập, không thốt nên lời.
Lương Tiêu vụt đổi hướng, chạy tọt vào một vạt rừng rậm, gọi to:
– Công Dương tiên sinh!
Hạ Đà La cười rú:
– Hảo đệ đệ lại lừa ca ca rồi! Lát nữa sái gia sẽ cứa lưỡi đệ, xem nó dài tới chừng nào…
Hắn vừa trêu chọc vừa chạy theo vào rừng.
Chợt có tiếng gió sắc lạnh rít tới gần. Hạ Đà La lướt vội lại sau, vỗ song
chưởng ra, chỉ thấy mấy vật bé xíu cắm phụp phụp xuống đất, hắn nhóng
mắt nhìn kỹ, nhận ra đó là mấy chẽ lá tùng xanh mướt.
Hạ Đà La
phát hoảng: “Bích vi tiễn của lão Cùng Nho? Rõ ràng hắn chạy cùng đường
Tiêu lão quái, sao chỉ chớp mắt đã vòng về đây được rồi? Phải chăng hắn
hận ta mấy lần ám hại nên cố ý sai thằng nhóc này ra dụ ta vào đây báo
thù”. Nghĩ mà toát mồ hôi hột, Hạ Đà La bèn hộc tốc chạy trở ra, cười
khành khạch:
– Giấu đầu hở đuôi thật chẳng xứng mặt hảo hán. Lão đồ gàn, có gan thì ra đây đấu ba trăm hiệp với sái gia.
Đợi một lát vẫn không thấy mảy may động tĩnh, Hạ Đà La rất đỗi ngờ vực, lại thét:
– Cùng Nho!
Nhưng vạt rừng vẫn lặng ngắt. Ngẫm lại, Hạ Đà La cảm thấy mấy mũi Bích vi
tiễn chứa kình đạo rất thường, khác hẳn thủ pháp xuất quỷ nhập thần,
nhanh đến chóng mặt của Công Dương Vũ.
Hắn bàng hoàng sực hiểu
mình lại mắc lừa lần nữa, liền vươn cổ hú dài, chạy ào vào rừng, đuổi
theo dấu vết Lương Tiêu. Phóng một mạch đến hơn ba trăm dặm, hắn nghểnh
đầu nhìn thì thấy Lương Tiêu cõng A Tuyết bám dây leo trèo lên một ngọn
núi cao gần đấy.
Hạ Đà La cười rú rít:
– Thú quá thú quá, đệ đệ thực giảo hoạt lươn lẹo.
Lương Tiêu nghe tiếng cười, luôn miệng kêu khổ. Sau khi dùng mưu đẩy lui Hạ
Đà La, gã thầm nhủ đi đường bằng nhất định không thoát nổi hạng già đời
lăn lộn giang hồ như tên xú xà kia, nhác trông có một cái hang trên sườn núi, gã bèn áp dụng cách thức hành quân địa hình bò lên đó, thầm nhủ
khi Hạ Đà La phát hiện ra bị lừa và đuổi theo chắc cũng chỉ biết đường
đi loanh quanh ven chân núi thôi.
Nào ngờ tình hình biến đổi khác thường, người tính không bằng trời tính, Hạ Đà La đã đuổi đến nơi.
Lương Tiêu đang ở lưng chừng núi, khác nào cưỡi trên hổ, không xuống
được nữa, chỉ còn cách gắng gượng tiến bước.
Càng lên cao, thế
núi càng cheo leo hiểm hóc, rất nhiều chỗ chỉ có một hốc nông choèn hoặc một mỏm đá cạn để đặt mũi chân. Nghe tiếng cười rin rít chói tai, Lương Tiêu cúi đầu nhìn xuống, Hạ Đà La đạp bước phi hành, đã gần đến cái
hang nơi sườn núi.
A Tuyết cuống cuồng kêu:
– Ca ca, hắn đuổi tới nơi rồi!
Lương Tiêu suy tính rất nhanh, chợt giơ kiếm lên chém đứt dây leo bên dưới.
A Tuyết đang lấy làm lạ, chợt nghe tiếng kêu tức giận của Hạ Đà La bèn
ngoái cổ xuống nhìn, mắt bỗng hoa lên. Lúc này, hai huynh muội đã tới
chỗ cao đến trăm trượng, rừng rú đất đá dưới kia đều bé như con kiến. Hạ Đà La đang dừng ở sườn núi, tay phải bám mỏm đá, hai chân cử động ngùng ngoằng, đẩy người trườn lên. A Tuyết ngạc nhiên:
– Huynh nhìn bộ dạng leo núi của hắn kìa!
Lương Tiêu ngó theo, cũng rất lấy làm thắc mắc.
Số là Lương Tiêu chặt đứt dây leo, Hạ Đà La mất chỗ vịn, chỉ còn cách vận
dụng công phu để trèo lên, không ngờ mới trèo thêm được mấy trượng thì
cánh tay trái bỗng rã rời đau nhói, hắn sực nhớ lúc nãy bị Cửu Như quật
gậy vào vai. Cửu Như có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, một gậy đó đủ đánh nát đá tan vàng, Hạ Đà La thi triển nội công độc môn hầu khử bớt kình lực,
nhưng vẫn bị thương vào xương cốt, bây giờ phải ra công trèo lên vách đá hiểm trở, vết thương tái phát, đau đớn vô cùng. Không làm sao khác
được, hắn đành dùng hai chân và một tay leo lên.
Ba người leo cao dần, gió chướng quay cuồng xô đẩy, tở tóc tai họ rối tung. Mỗi nhịp
dướn giúp Lương Tiêu tiến thêm vài trượng. Qua đến đâu, gã chặt sạch dây mây và tùng bách đến đấy, không chừa một chỗ bám víu nào cho Hạ Đà La. A Tuyết nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy cảnh vật bên dưới càng lúc càng bé,
tim đập thon thót, cô hãi hùng không dám liếc mắt xuống nữa, nhưng khi
ngẩng mặt lên trên thì càng bàng hoàng khiếp sợ.
Bên trên họ là
vách đá sừng sững trơ lì, hệt như bị lưỡi tầm sét vạt thẳng một mảng,
ngoài mấy nhành tùng trơ trọi thì không còn chỗ nào để tỳ tay đặt chân. A Tuyết ngấm ngầm than khổ: “Lỡ sơ sảy thì hai ta sẽ lộn cổ xuống tan
thây chứ còn gì?”. Đang kinh hoảng quá độ, cô bỗng sực nghĩ: nếu rơi
xuống, coi như được chết bên Lương Tiêu, vĩnh viễn không chia lìa nữa.
Vừa nghĩ thế, bao nhiêu thảng thốt trong lòng bỗng chớm quyện ý vị ngọt
ngào, cô áp đầu lên vai Lương Tiêu, nghe rõ nhịp tim gã truyền tới dập
dồn. A Tuyết như chìm đắm trong cơn mơ mộng, bất luận mây núi tùng bách
gì đều bỗng biến thành xa vời hư ảo.
Lương Tiêu không rỗi hơi mà
bận tâm xem cô gái đang nghĩ gì. Gã chỉ một lòng một dạ tìm kế thoát
hiểm nên tập trung tối đa sức lực cố gắng leo cao, thậm chí hai lòng tay đã trầy hết da, rướm máu, trét lên đá, lên dây leo mà gã cũng không cảm thấy.
Hạ Đà La không tài nào áp sát được, lại thiếu mất sức một
cánh tay nên càng thêm chật vật. Hắn bò một lúc, ngước mắt nhìn thì thấy mấy trăm trượng trên kia nhẵn trơ, hệt như một mặt gương, lại thấy bóng Lương Tiêu mỗi lúc một xa, hệt như nhòa vào mây trời, hắn tức bầm gan
tím ruột: “Tiểu tử này là khỉ vượn thành tinh chắc? Làm sao mà trèo
nhanh như vậy?”. Lại cảm thấy cánh tay trái đau nhức lên từng hồi, xối
vào tận óc, thầm biết nếu không tĩnh dưỡng thì sẽ để lại di chứng, mai
sau không thể phát huy hết uy lực của võ công, dẫu bắt được Lương Tiêu
đi nữa thì lợi bất cập hại, hắn bèn tính toán: “Sái gia hẵng tạm náu nơi sườn núi, đợi trị thương xong lên bắt chúng nó cũng chưa muộn”.
Hai canh giờ nữa trôi qua, cuối cùng Lương Tiêu cũng trèo tới đỉnh, tứ chi
rời rã, liền ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc như trâu. A Tuyết lấy khăn tay ra thấm mồ hôi cho gã, đoạn đưa mắt nhìn quanh. Đỉnh núi rộng không quá mười trượng, địa thế tương đối bằng phẳng, chính giữa có một cây
tùng cổ thụ, cành lá uốn éo mềm mại, dáng dấp thanh thoát, tán tỏa bóng
rợp đến nửa đỉnh, dưới gốc cây có một tảng đá lõm tích đầy nước, nước
trong leo lẻo nhìn tới tận đáy, rêu mọc xanh rì.
Lương Tiêu không kịp ngó nghiêng, lập tức vươn đầu ngó xuống, dưới thấp Hạ Đà La đang
dùng một tay hai chân nhúc nhắc trườn lui. Lương Tiêu thoạt tiên kinh
ngạc, rồi sực đoán ra nguyên cớ, gã yên yên dạ, bảo A Tuyết:
– Tên ác ôn kia tạm thời chưa lên đây, chúng ta theo mặt sau lần xuống thôi.
Gã kéo A Tuyết vòng sang mặt bên kia, nhưng thất vọng tràn trề, bởi ba bề
núi đều là vách đá cheo leo, khúc khuỷu gập ghềnh hơn hẳn mặt trước,
thậm chí so với chúng thì lối hai người vừa lên có thể coi là đường lớn
bằng phẳng thênh thang.
Lương Tiêu ngao ngán ngồi bịch xuống, A Tuyết cũng lặng lẽ ngồi kế bên.
Hai người trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu chợt bảo:
– Phải lột vỏ cây bện dây mà xuống.
A Tuyết bảo:
– Ca ca mệt quá rồi, nghỉ một chốc nữa cũng được.
– Chỉ sợ thời gian không đợi chờ, vết thương ở vai tên kia mà bình phục thì hắn lên đây không khó khăn gì đâu.
A Tuyết cũng vô kế khả thi, đành gật đầu.
Sau chuyến tránh nạn chật vật, hai người đều mệt rũ, bèn tựa gốc cây tùng
thiếp đi. Một lát sau, Lương Tiêu choàng tỉnh trước, cảm thấy gió chướng căm căm từ phía đông cuộn tới, lạnh cắt da cắt thịt, gã bất giác so vai rụt cổ, nhìn xuống thì thấy A Tuyết vẫn chưa tỉnh, người co quắp, áng
chừng rét lắm. Lương Tiêu cởi áo đắp lên mình cô rồi ngồi quay lưng ra
đầu gió.
Gã ngắm người con gái, thấy hàng mày thanh nhíu khẽ như
vương sầu, bất giác xót xa trong dạ: “Từ ngày theo ta đến nay, muội
thường phải lo lắng sợ hãi, chẳng mấy khi được yên ổn…”.
Lương
Tiêu đang tự oán trách, chợt nghe A Tuyết gọi khẽ “ca ca”, gã cúi xuống
nhìn kỹ, thấy hai mắt cô vẫn nhắm nghiền, chắc là nói mớ. Lương Tiêu
thương xót vô cùng, lại thấy khóe mắt cô ứa lệ, đôi môi bặm bặm, lẩm
nhẩm:
– Trăng cong gợi hàng mi, Khi nào đầy ai biết, Hồng đậu
chẳng dám nhìn, Sợ mắt nàng hoen ướt. Tần ngần bổ quả đào, hạt tựa tim
da diết. Hai đóa hồng chia xa, rồi sẽ thôi ly biệt…
Giọng A Tuyết tuy nhỏ nhưng rất rõ, từng lời từng chữ đều gõ mạnh vào trái tim Lương
Tiêu. Mấy năm trước ở Thiên Viên Địa Phương, khi đọc bài tiểu lệnh này
lần đầu, gã vẫn chưa thấm thía ý vị ai sầu ẩn sâu trong từ ngữ, đến nay, sau bao nhiêu trải nghiệm và thời gian, cuối cùng gã cũng thẩm thấu
được đôi chút. Khi chia xa người thương, lòng nhung nhớ khiến ta nhìn
đâu cũng thấy bóng hình nàng, chẳng dám ngắm trăng, ngại trăng cong gợi
nhớ hàng mi dày, chẳng dám ăn hồng đậu, ngại nhớ đôi mắt nhòa lệ ướt,
chẳng dám bổ đào, ngại trông thấy nhân hạt giống trái tim thổn thức. A
Tuyết theo hầu Hàn Ngưng Tử đã lâu, hẳn nghe ngâm bài từ nhiều lần đến
mức ghi sâu vào tâm khảm, bình thời không nói, đến khi mơ ngủ mới thốt
ra.
Có lẽ cô đang nằm mộng thấy chuyện gì thương tâm lắm, lẩm
nhẩm xong bài từ thì nước mắt đã vòng quanh. Lương Tiêu ngắm A Tuyết,
một nỗi ăn năn bỗng nghẹn đầy lồng ngực. Gã bẩm sinh nhạy bén, làm gì
không nhận ra tâm tư của người con gái, chỉ hiềm bấy nay không sao quên
lãng được hình bóng Liễu Oanh Oanh nên nửa như vô tình nửa như cố ý né
tránh tình cảm của A Tuyết. Bây giờ ngẫm lại, mối si mê của thiếu nữ
ngây ngô này đối với gã chẳng khác nào dây trầu không cuốn thân cau, dẫu khô vàng úa héo cũng quyết không xa lìa.
Lương Tiêu nghĩ: “Ta
đánh Tống là sai, lưu luyến Liễu Oanh Oanh có lẽ cũng sai nốt. Cô ta vừa gặp Vân Thù đã xiêu lòng, cớ gì ta phải bịn rịn mãi không quên?”. Nghĩ
tới đây, cái bóng xanh thướt tha trong đáy tim gã bỗng nhòa đi, Lương
Tiêu cúi đầu ngắm A Tuyết, lòng chớm rung động.
Khi A Tuyết mở
bừng mắt thì gặp ngay cái nhìn thiết tha của Lương Tiêu. Cô không hiểu
vừa xảy ra chuyện gì, chỉ biết mặt mình nóng lên, và tim đập hồi hộp
trước ánh mắt ấy. Thoáng thấy khóe mắt gã dường vương ngấn lệ, cô hốt
hoảng hỏi:
– Huynh khóc đấy à?
Lương Tiêu cau mày:
– Hỏi ngốc, ta khóc hồi nào? Chính muội khóc ấy.
A Tuyết giật mình hồi tưởng những cơn mộng mị, đoạn ngượng ngùng nói lảng đi:
– A, còn phải bện dây nữa đúng không?
Lương Tiêu sực nhớ, kêu lên:
– Trời ạ, ta quên béng đi mất!
Hai người lập tức tước vỏ cây bện thừng. Cây tùng lâu đời, vỏ và cành rắn
đanh, may mà Ảo Nguyên kiếm khá sắc mới róc được. Tuy vậy công việc tiến triển khá chậm chạp, đến tận chập tối, họ mới tết được đoạn dài chừng
một trượng. Hai người bận rộn làm đến tận đêm khuya rồi díp mắt ngủ
thiếp đi.
Gần sáng, chợt nghe có tiếng chí chóe huyên náo từ vách đá cao hơn vọng xuống, Lương Tiêu và A Tuyết bàng hoàng choàng tỉnh,
ngước mắt nhìn, thảy đều biến sắc. Vô số chim sẻ đang ràn rạt bay xuống, xoay tít mù như cơn lốc trên tán cây tùng.
Tiếng cười tựa kim khí của Hạ Đà La lan đi trong không khí, vọng tới chỗ họ:
– Hảo đệ đệ, hảo muội muội, các ngươi xuống núi cho mau! Kẻo ta phát hiệu lệnh thì các ngươi sẽ thành bữa điểm tâm cho đàn sẻ đó đấy, ha ha…
Giọng hắn không to, nhưng sử dụng thủ pháp thiên lý truyền âm nên nghe rất
rõ, Lương Tiêu bủn rủn cả người, vận đủ nội lực cười lớn:
– Ai làm món điểm tâm cho ai còn chưa chắc đâu!
Hạ Đà La loáng thoáng nghe thấy, thầm nhủ không hiển lộ uy phong thì khó
mà đàn áp được hai kẻ cứng cổ này, bèn thổi điệu nhạc chim. Đàn sẻ theo
hiệu vỗ cánh soạt soạt lao bổ xuống gốc cây.
Lương Tiêu ra dấu
cho A Tuyết xích lại gần mình rồi vo nắm đấm nện vào thân cây tùng,
quyền kình tới đâu, lá rụng rào rào tới đó. Lương Tiêu vỗ ra hai chưởng, chưởng trước là cương kình, chưởng sau là nhu kình, hệt như cánh cung
vô hình đón lấy màn lá tùng làm tên mà bắn ra ào ạt.
Đàn sẻ bị
tiếng tiêu của Hạ Đà La sai khiến, mất hết cả thần trí, chỉ biết sấn sổ
lao vào, không biết né tránh. Ngay tức khắc, loạt đầu tiên bị lá tùng
bắn xuyên thân, rơi lộp bộp xuống đất, những con còn sống vẫn liều lĩnh
công kích. Lương Tiêu đành liên tục bắn lá tùng, chỉ một lát sau, xác sẻ đã chất dày đỉnh núi.
Hạ Đà La những tưởng Lương Tiêu và A Tuyết sẽ chết khiếp vì đàn sẻ và mau chóng van xin đầu hàng, nào ngờ tấu nhạc vi vút hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, hắn chột dạ nhớ ra một
chuyện, lập tức ngừng thổi, thét to lên rằng:
– Tiểu tử kia, ngươi biết dùng Bích vi tiễn phải không?
Lương Tiêu cười vọng xuống:
– Kể cũng không đần lắm nhỉ!
Hạ Đà La tức tối vô cùng. Bích vi tiễn chính là khắc tinh của trận pháp
chim sẻ, ai mà ngờ Lương Tiêu đã luyện được. Hắn càng nghĩ càng đằng
đằng sát khí.
Lương Tiêu đẩy lui được đàn sẻ, lại cấp tốc bện dây thừng, tiếc nỗi vỏ cây quá ngắn, nhiều lắm cũng chỉ được chừng mười
trượng, huống hồ cũng không bền và dai đến mức gánh được thể trọng của
hai người. Lương Tiêu cúi nhìn bốn phía, ngẫm nghĩ nếu chỉ có một thân
một mình thì gã đã mạo hiểm trèo xuống, nhưng cách ấy không thực hiện
được khi mang theo A Tuyết. Xuống núi thường khó hơn lên núi, gã bóp
trán, lòng đầy ưu phiền.
Giữa trưa hôm sau, Hạ Đà La bỗng lại
thổi tiêu, điều động đàn sẻ đến bay vần quanh đỉnh núi. Hắn đoán được dự tính của Lương Tiêu nên bày trận sẻ để phong tỏa hết mọi đường xuống.
Nếu Lương Tiêu ngồi yên trên đỉnh núi thì còn dùng được Bích vi tiễn để
phá trận, nhưng nếu gã tụt xuống theo vách núi thì bầy sẻ sẽ tập kích,
bản lĩnh gã cao cường đến đâu cũng chỉ còn nước ngã lộn cổ. Kế bện dây
leo hạ sơn vậy là không thể thực hiện được.
A Tuyết chỉ cần ở bên Lương Tiêu là đã hân hoan, chẳng hề bận tâm tìm cách thoát thân. Thấy
sẻ chất đầy đỉnh núi, cô bèn nhặt một ít làm lông, dùng nước trong hõm
đá rửa sạch, lại gom cành khô đánh đá nhóm lửa, xiên mười mấy con lên
quay thơm lừng.
Khi sẻ chín, cô đưa cho Lương Tiêu một xiên.
Lương Tiêu nếm thử, thấy thịt mềm vừa, lại thoang thoảng mùi gỗ tùng,
bất giác tán thưởng:
– Khéo tay lắm.
A Tuyết rạng rỡ mặt mày, nếm thử một con:
– Không ngờ thịt sẻ ngon thế. Nhưng các thư thư nói, ăn thịt sẻ, khi cầm bút sẽ run tay. – Nói đoạn lại dàu dàu.
Lương Tiêu cười xòa:
– Miễn là muội chế biến thì dẫu toàn thân run bần bật, ta vẫn ăn sạch bách như thường.
A Tuyết cúi mặt, hai má thấp thoáng lúm đồng tiền:
– Vậy sau này muội sẽ thường xuyên quay sẻ cho huynh ăn.
Lương Tiêu thở dài:
– Không cần đến mức “thường xuyên”, chẳng qua hôm nay hoàn cảnh bắt buộc thôi.
Quay lại tình hình khó khăn trước mắt, Lương Tiêu nhăn nhó phiền não. Hồi
tưởng cảnh Công Dương Vũ dùng diều thoát hiểm trên núi Thạch Công, gã
thở dài nghĩ: “Đáng tiếc ở đây không dùng được cách ấy”.
Lương
Tiêu buồn bã, niềm hứng khởi của A Tuyết cũng xẹp xuống. Cô ngây dại
nhìn ra ngoài vực núi, ngắm bầy chim đang bay quần quanh rất tự do tự
tại, trầm ngâm nói:
– Nếu chúng ta biến được thành chim thì hay biết mấy, dẫu cao dẫu xa đến đâu cũng có thể bay tới nơi.
Lương Tiêu nghe vậy, sực nảy ra một ý, nghiền ngẫm hồi lâu, gã vỗ tay cười lớn:
– Muội nói phải lắm, vậy chúng ta sẽ biến thành chim bay đi xa, để tên ác ôn kia không tài nào đuổi kịp nữa.
A Tuyết giương mắt nhìn gã đầy thắc mắc, Lương Tiêu mỉm cười:
– Muội còn nhớ con chim tre ta làm trước đây không?
A Tuyết nhìn gã cười cũng vui lây, gật đầu:
– Muội nhớ, chỉ cần xiết dây cót thật chặt là bay được, đáng tiếc chuyến này ra đi vội vội vàng vàng nên không kịp mang theo.
Lương Tiêu cười lớn:
– Không sao, ta sẽ làm một con to hơn để nó chở mình xuống núi.
Gã liếc mắt sang cây tùng già, ước lượng:
– Cây này là đủ gỗ dùng đây. – nói đoạn tuốt kiếm, ngắm nghía hồi lâu rồi ngậm ngùi. – Ảo Nguyên ơi Ảo Nguyên, mi vốn là một thứ binh khí lợi
hại, đáng tiếc chủ nhân vô năng, đành để mi tủi phận làm rìu bổ củi. –
Chợt thấy A Tuyết chắp tay sì sụp lạy cây tùng, gã ngạc nhiên hỏi. –
Muội làm gì vậy?
– Muội đang nói với cây rằng: đại thụ ơi đại
thụ, ngươi ăn sâu bám rễ ở đây suốt mấy trăm mấy ngàn năm, đáng tiếc
huynh muội ta phải tìm đường sống nên đành hi sinh ngươi vậy. Ngươi có
linh thiêng thì làm chứng, sau này nhất định ta sẽ thắp hương tế bái
ngươi, cầu cho ngươi phiêu diêu về miền cực lạc.
Lương Tiêu sắp
bật cười, chợt nhìn lại dáng vẻ cô đơn của cây tùng, bỗng không cười
được nữa, tự nhủ: “Cỏ cây còn đáng thương huống hồ dân chúng thiên hạ,
ta công thành phá lũy, tàn sát bao người còn ra thể thống gì?”.
Gã càng nghĩ càng buồn rầu, gắng trấn định tâm tư để vẽ sơ đồ chặt cây.
Nhờ tiếp xúc với toán học phương tây, kiến thức về thuật cơ quan của gã
càng thêm phong phú, so với con chim tre chế tạo dạo nào thì con chim gỗ tùng tinh xảo hơn nhiều. Lương Tiêu miệt mài thi công, đêm xuống cũng
đốt lửa để làm, không hề ngơi nghỉ.
Sáng tinh mơ ngày thứ tư, gã
đã hoàn thành con chim gỗ, hình dáng như chim ưng, tổng sải cánh dài cỡ
ba trượng, chiều dài dọc thân là hai trượng năm thước, dưới bụng có lắp
vòng xiết, đầu đuôi và hai cánh gắn bốn chiếc chong chóng, nối truyền
động với hai tay quay ở mé trên. Phần đế đặt bánh xe tròn, dưới bánh xe
đặt hai trục trượt làm đà cất cánh.
Chim gỗ tuy đã làm xong,
nhưng hướng gió chưa ổn định nên không tiện cất cánh ngay, Lương Tiêu
càng thêm chán nản. Tự cổ chí kim chưa ai bay bằng chim gỗ, chẳng may sơ suất, gã rơi xuống đất tan xương nát thịt đã đành, nhưng nếu A Tuyết có mệnh hệ gì thì dẫu xuống suối vàng gã cũng không nguôi hối hận.
Hạ Đà La ban ngày khóa kín mọi đường xuống núi, ban đêm thì chui vào hang
vận công dưỡng thương. Nội công Bà La Môn của hắn cực kỳ thâm hậu, không cần thuốc thang mà đến đêm hôm thứ ba, vết thương ở vai đã khỏi. Ghét
nỗi ban đêm trèo núi nhiều rủi ro nên hắn tạm nén lòng đợi trời sáng
lại.
Mấy hôm nay, hắn đã hỏi thăm vài cư dân trong vùng, biết
được ngọn núi này tên là Thiên Đô, với nghĩa “thiên tiên đô hội”, là
ngọn hiểm trở bậc nhất trong bảy mươi hai ngọn của rặng Hoàng Sơn, từ
xưa đến nay rất ít người leo được lên tới đỉnh. Hạ Đà La nghe kể nổi
lòng hiếu thắng. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hắn đã lập tức rời sơn động,
nội lực sung mãn, chân tay lành lặn, do đó cũng phấn chấn tinh thần, tay bám chân đạp, trèo băng băng lên vách núi.
A Tuyết giữ nhiệm vụ
cảnh giới, không may sương mù và mây phủ che lấp tầm mắt nên cô không
phát giác ra Hạ Đà La từ đầu, đến khi báo động được cho Lương Tiêu thì
Hạ Đà La chỉ còn cách đỉnh hơn hai mươi trượng và vẫn nhảy như bay dọc
vách đá. Gã thầm rủa: “Lão tặc đi nhanh thật!”.
Gió vừa lệch về
hướng tây bắc, tuy vẫn chưa thích hợp lắm để cất cánh nhưng cũng chỉ còn cách thử mà thôi, Lương Tiêu bèn đỡ A Tuyết ngồi lên con chim, vặn tay
quay, bốn chiếc chong chóng bắt đầu chạy ro ro, khuấy mù bụi đất trên
đỉnh núi.
Lương Tiêu vung kiếm chặt đứt dây buộc ở đằng đuôi. Con chim trượt lọc rọc theo trục gỗ. Đến lúc thoát khỏi đầu mút, thay vì
lượn lên khoảng không, nó bổ nhào xuống núi.
[1] Shiva Kundalini.
[2] Tức Yoga.
[3] Theo thuyết Long sinh cửu tử, rồng có chín con trai, ngoài bí hí ra còn tù ngưu, nhai xế, trào phong, bồ lao, toan nghê, bệ ngạn, phụ tí, ly
hốt.
[4] Ngoài đồng hoang có con chương chết.
[5] Nàng rằng gà gáy.
[6] Lối tự xưng của đàn ông vùng Quan Tây thời Tống, Nguyên.
[7] Bài Tân Đài, thuộc Kinh Thi. Vệ Tuyên Công vốn đa dâm hiếu sắc, muốn
cướp vợ của con trai nên dựng Tân Đài bên bờ Hoàng Hà để thực hiện ý
định ấy.