Đọc truyện Cô Gái Mang Trái Tim Đá – Chương 25
Kuonrat Háo Danh biết rõ là không nên công khai đả kích Herwald khi bầu không khí thiện chí đang lên cao, nhưng hắn cũng không bỏ lỡ cơ hội thì thào với tất cả những ai chịu lắng nghe rằng thực sự đây là lần thứ hai quy định không thể phá vỡ của đoàn quân bị xem thường. “Không ai nhớ chuyện về tên cung thủ người Ý Benedetto à? Chúng ta đã để hắn trốn thoát mà không hề đem quân đi truy đuổi. Herwald một lần nữa lại phản bội chúng ta vì ông ta quá yếu đuối. Chúng ta còn để chuyện này tiếp diễn tới bao giờ nữa?”
Chỉ vài người chịu nghe. Hầu hết mọi người đều tán thành rằng sau bao nhiêu năm phục vụ, anh nên được phép chết bên cạnh Chúa, trong sự chăm sóc của các xơ ở Engelthal.
Khi Brandeis kết thúc câu chuyện, anh ta lấy tay vuốt khuôn mặt mệt mỏi của mình. Có lẽ tôi đã thấy một giọt nước mắt, nhưng cũng có thể chỉ là một giọt mồ hôi. Và đó là cách anh đến với tu viện. Đó là cách anh đến với tôi.
Câu chuyện của Brandeis làm tất cả mọi người trong phòng xúc động, cả những người đã nghe câu chuyện đó từ trước cũng vậy. Cuối cùng cha Sunder phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng, cất lời ca ngợi anh ta vì những hành động đúng đắn. Mẹ Christina nói rằng dù bà không thiện cảm với lính đánh thuê nhưng cũng đã nhận ngay ra tình anh em chân thật khi gặp các anh. Bà trấn an Brandeis một lần nữa rằng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể, và các xơ y tá cũng gật đầu đồng ý. Đây đều là những lời lẽ tốt đẹp, dĩ nhiên, nhưng mọi khuôn mặt trong phòng đều chung một vẻ tiếc thương. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng anh sẽ chết.
Tôi thì không. Tôi muốn lướt ngón tay mình lên những vết thương của anh; tôi muốn máu anh tưới lên người tôi. Nơi mọi người nhìn thấy một người đàn ông đang hấp hối, tôi chỉ thấy một con người đang chờ được tái sinh. Tôi nghĩ đến những vết thương của Chúa trong những giây phút đẹp nhất của Người.
Brandeis vươn thẳng người, theo đúng cách đàn ông hay làm khi nghĩ rằng làm thế sẽ cho họ nhiều sức mạnh hơn những gì họ đang thực sự sở hữu. Anh ta cúi đầu, nói phải giữ lời hứa của mình và quay trở lại đội quân. Anh ta tin tưởng vào khả năng của chúng tôi, anh ta nói, và vào sự tốt đẹp của Chúa. Đến bên cửa anh ta còn quay đầu lại nhìn anh lần cuối.
Sau khi Brandeis đi, tôi dành cả ngày lùng sục tất cả các cuốn sách trong phòng viết để tìm mọi thứ có thể giúp anh chữa trị. Nhưng dù nhiệm vụ có cấp thiết đến mức nào, tôi cũng không thể tập trung được. Tôi cố hình dung cảnh hai người trên chiến trường, nhưng không thể. Brandeis dường như quan tâm đến sinh mạng của anh tới nỗi không thể là một kẻ giết người, và nét bình thản trên khuôn mặt anh khi anh nằm trên bàn cứ luôn ám ảnh tôi. Lúc đó tôi không hề để ý, nhưng anh đã yếu lắm rồi. Khi ấy, dường như tôi có cảm giác là linh hồn anh đã rời khỏi thân xác rồi. Là một tu sĩ, tôi cảm thấy vô cùng rối bời. Tôi đã không thể tập trung suy xét để nhận ra rằng mình chưa hề hỏi Brandeis tại sao cái vùng hình chữ nhật trên ngực anh lại không bị bỏng, giữa những tổn thương khủng khiếp đã gây ra cho cả thân người anh như thế.
Sách của chúng tôi không hề có một tài liệu nào chỉ ra cách chữa những vết bỏng đáng sợ của anh. Không chút ánh sáng xuyên qua ô cửa sổ chiếu rọi một trang sách khả dĩ, cũng không một luồng gió thổi qua khung cửa sổ lật một cuốn sách đến trang thích hợp. Vào buổi tối, tôi thấy mình buộc phải quay trở lại bệnh xá, chỉ để thông báo cho các xơ y tá rằng tôi đã không tìm được bất cứ điều gì.
Quang cảnh khác biệt rõ rệt so với lúc trước. Tôi chưa từng thấy ai gào thét điên cuồng như anh. Những năm tháng yên lặng trong tu viện đã làm tôi không tưởng tượng nổi một con người có thể phát ra những tiếng động kinh dị đến vậy. Các nữ tu đều đang cố ghìm anh lại, nhưng đó quả là một cuộc chiến không cân sức. Xơ Elisabeth vui vẻ tột độ khi nhường vị trí của cô cho tôi. Người anh thấm đẫm chất dịch mỗi lúc một rịn ra nhiều hơn, đôi mắt anh đảo hết bên này sang bên kia như để tìm một con quỷ chỉ anh mới có thể nhìn thấy. Tôi đặt một bàn tay lên đầu anh để giúp anh trấn tĩnh, nhưng anh vẫn không ngừng quẫy đạp. Tôi vuốt tóc anh và nói những lời an ủi nhẹ nhàng trong khi những người khác đổ nước lên người anh. Mỗi gáo nước lạnh lại làm người anh giật nẩy lên. Tôi cũng lấy một bình nước và cố hết sức đổ xuống họng anh. Khi anh cuối cùng cũng chịu mở miệng ra đón lấy, trong một khoảnh khắc mắt anh đã chớp một cái rồi lại nhắm chặt.
Một phút yên lặng kỳ dị trôi qua, và tôi có thể thấy trong cách họ liếc nhìn nhau, tất cả mọi người đều chắc chắn rằng anh đã chết. Những cô y tá rụt rè tự cho phép bản thân ngồi xuống, quá mệt mỏi vì phải chăm sóc anh rồi.
Và rồi anh hổn hển bật dậy, mắt anh ngập tràn nỗi kinh sợ như thể anh đã thấy mọi thứ phải biết về cái chết. Anh lại bắt đầu gào thét, vì thế tôi tát vào mặt anh và cố làm anh tập trung, nhưng đôi mắt anh lại tiếp tục đảo tìm con quái vật lần nữa. Tôi dùng hết sức để giữ chặt anh và gí sát mặt vào anh, thét lên ầm ĩ. Khi cuối cùng anh cũng có thể tập trung nhìn tôi, nỗi sợ của anh dường như tan biến.
Ánh nhìn của anh cho thấy rõ anh đã nhận ra điều gì đó. Chúng ta chăm chú nhìn nhau. Tôi không biết bao nhiêu phút giây đã trôi qua. Anh cố nói gì đó, nhưng nhỏ nhẹ đến nỗi tôi nghĩ mình đang tưởng tượng ra giọng nói của anh. Tôi ghé sát tai vào miệng anh. Những nữ tu khác đã lùi lại mấy bước và không thể nghe anh thều thào vài từ.
“Trái tim của tôi… Bị khóa… Chìa khóa.”
Rồi anh nhắm mắt lại và chìm vào hôn mê.
Tôi không hiểu những từ anh nói có ý nghĩa gì, nhưng chẳng hiểu sao chúng đã củng cố niềm tin rằng tôi có sứ mệnh giúp anh. Một nữ tu không bao giờ được phép chấp nhận ý tưởng là trái tim của một con người đã bị khóa, đặc biệt khi đó là trái tim của một người đàn ông không lâu nữa sẽ đến ngưỡng cửa Thiên đường – hay, dù bản thân tôi cũng không muốn thừa nhận điều đó, Địa ngục. Người ta phải thấy rõ điểm đến cuối cùng của một người lính đánh thuê là Địa ngục.
Tôi ở bên anh suốt đêm và lau những chất dịch nhầy trên ngực anh, tôi cố gắng nhẹ nhàng hết sức, nhưng da thịt anh vẫn cứ giật lên dưới tay tôi. Dù quả là khó khi phải nhìn những vết thương của anh, tôi đã chắc chắn – lần đầu tiên trong đời – rằng Engelthal chính xác là nơi dành cho tôi. Sự thiếu ảo giác thần bí, thiếu khả năng giao tiếp với Chúa Thánh Thần Vĩnh Hằng, tất cả những điều này hoàn toàn không quan trọng.
Sáng hôm sau, trên lối quay về phòng, tôi đụng độ Gertrud. Bà hỏi, với một giọng ngọt ngào giả tạo, rằng khi nào “tôi có thể thu xếp thời gian chăm sóc kẻ giết người” để trở lại với nhiệm vụ phòng viết và tiếp tục công việc của Chúa. Tôi thông báo với bà rằng mẹ Christina đã đặc biệt giao trọng trách chăm sóc bệnh nhân bỏng cho tôi, và rằng đó là nhiệm vụ chính của tôi bấy giờ. Tôi cũng lỡ miệng nói rằng mẹ Christina nghĩ tôi có khả năng độc nhất vô nhị trong việc tìm kiếm bất cứ tài liệu cần thiết nào trong phòng viết. Tôi có thể thấy mặt Gertrud phừng phừng giận dữ, nhưng chỉ đúng trong một khoảnh khắc thôi.
Khi đã lấy lại bình tĩnh, Gertrud nói, “Mẹ Christina thật tốt bụng khi dành cả người lẫn của để cứu giúp một người đàn ông. Tuy nhiên, ta nghĩ con cũng nên thông minh một chút để nhớ rằng chỉ có Chúa mới cứu được người đàn ông này. Một đứa con hoang bị vứt ngoài cổng thì chẳng làm được cái gì đâu.”
Đây là những từ ngữ nặng nề nhất bà từng nói với tôi. Tôi đã bị sốc, nhưng cũng kịp bảo rằng bà nói rất đúng, dĩ nhiên rồi. Tuy thế, tôi cũng nói thêm rằng tôi nên xin phép đi đọc kinh tạ ơn rồi chợp mắt một chút, phòng trường hợp Chúa thực sự quyết định ban cho đứa con hoang như tôi khả năng giúp đỡ một người trong cơn hoạn nạn.
Lát sau khi tôi quay lại bệnh xá, tôi nhận thấy anh đã phải trải qua một quãng thời gian rất khó khăn khi tôi vắng mặt. Anh đang lắp bắp những từ vô nghĩa và trở mình dữ dội. Mẹ Christina và cha Sunder đang ở đó, thảo luận với y tá, nhưng không ai biết phải làm gì tiếp theo.
Không hề báo trước, anh giơ tay lên chỉ thẳng vào tôi. Tất cả những lời lẽ rối rắm của anh đã rơi đi đâu hết và anh dõng dạc nói to: “Người này.”
Tất cả mọi người đều sững sờ. Trừ vài từ chỉ mình tôi nghe thấy lúc trước, đây là lần đầu tiên anh nói chuyện. Một sự ngưng đọng kịch tính đến hoàn hảo bao trùm cả căn phòng trước khi anh nói thêm, “Tôi đã có ảo giác.”
Những nữ tu há hốc mồm còn mẹ Christina thì mấp máy cầu nguyện Chúa chỉ dẫn ngay lập tức. Một binh sĩ có ảo giác: Engelthal thực sự là một nơi linh thiêng và tuyệt vời biết bao! Nhưng tôi không tin điều đó. Anh mới ở trong tu viện được một thời gian ngắn, nhưng bằng cách nào đó anh đã biết được thứ duy nhất có ý nghĩa vào thời điểm này là thiên khải.
Mẹ Christina do dự bước thêm một bước nữa. “Anh đã thấy ảo giác nào?”
Anh lại chỉ tay vào tôi lần nữa và thì thầm, “Chúa nói rằng người này sẽ chữa lành cho tôi.”
Mẹ Christina bấu chặt lấy cánh tay của cha Sunder. “Anh chắc chứ?”
Anh nhẹ nhàng gật đầu và nhắm mắt lại, theo đúng cái cách những nữ tu vẫn làm để thể hiện họ đang trầm tư mặc tưởng đến mức nào.
Những xơ y tá siết chặt tay trong nỗi sợ hãi thần thánh và quỳ lạy với sự tôn kính vô bờ, cha Sunder và mẹ Christina thì rút vào một góc hội ý với nhau. Ngay sau đó, mẹ Christina đặt tay tôi vào tay bà. “Đây là một điều rất kỳ lạ, xơ Marianne, nhưng chúng ta phải tin những lời anh ấy nói. Chẳng phải ta vẫn luôn nói với con rằng mọi chuyện không đơn giản như vẻ bề ngoài hay sao?”
Có lẽ mẹ Christina, Chúa phù hộ bà, đang ngóng trông một chương mới trong biên niên sử về Engelthal của mình. Tôi là ai mà dám làm bà thất vọng chứ? Tôi gật đầu, như thể cái vỏ bọc một y sư được lựa chọn là gánh nặng đối với một nữ tu chẳng xuất chúng gì như tôi đây, nhưng đó cũng là trách nhiệm tôi phải gánh vác cho tu viện. Phía sau mẹ Christina, anh dường như lại rơi vào trạng thái bất tỉnh, nhưng môi anh nở một nụ cười.
Những nữ tu khác hầu như cho tôi toàn quyền quyết định cách chữa trị cho anh sau thiên khải của Chúa. Không nghi ngờ gì, họ không hề muốn những lỗi lầm trần tục của mình làm kinh động đến những phương thuốc của thánh thần. Tôi dùng nước sạch lau vết thương và thay băng cho anh, nhưng tôi cũng bắt tay vào việc cắt những phần thịt thối rữa của anh, một quy trình vấp phải sự phản đối của những người xung quanh cho tới khi tôi nhắc họ về ảo giác của anh. Có lẽ họ không có gan phản đối việc đó, hoặc có lẽ họ nghĩ mình không có quyền làm mạo phạm một cơ thể được Chúa tạo nên, dù sao, họ luôn luôn rời phòng mỗi khi tôi làm đến công đoạn ấy.
Vì sao tôi lại cho rằng việc cắt bỏ phần hoại tử là một hành động đúng đắn, tôi sẽ không bao giờ có thể biết được. Từ khi sinh ra đến giờ, tôi luôn tâm niệm làm người phải biết phân biệt tốt xấu, thế nên có lẽ tôi chỉ áp dụng ý tưởng này theo ý nghĩa trần tục nhất. Và lý do tại sao anh lại để tôi cắt da thịt mình, tôi cũng không rõ, nhưng anh thì biết. Anh gào lên, tỉnh rồi lại mê, nhưng không một lần bảo tôi dừng con dao lại. Tôi đã vô cùng sửng sốt trước lòng can đảm của anh.
Trong suốt tuần đầu tiên, anh luôn ở trong trạng thái mê sảng. Đến ngày thứ bảy, anh hạ sốt và cuối cùng cũng thức tỉnh đón chào thế giới. Tôi đang lau mồ hôi trán cho anh thì anh ngước nhìn tôi và bắt đầu cất tiếng hát yếu ớt.
Dû bist mỵn, ich bin dỵn:
des solt dû gewis sỵn;
dû bist beslozzen in mỵnem herzen,
verlorn ist daz slüzzelỵn:
dû muost och immer darinne sỵn.
Chẳng vấn đề gì, cái việc anh vừa ho vừa hát ấy. Đơn giản đó là tiếng ca cất lên từ cổ họng của một người đang dần bình phục, nó hay hơn mọi bài tụng ca Chúa mà tôi từng nghe các nữ tu cất giọng hát.
Tin anh tỉnh lại đã lan khắp Engelthal. “Bàn tay xơ Marianne thực sự đã làm nên điều kỳ diệu!” Tôi nghĩ rằng đó chỉ là những kiến thức thông thường, nhưng anh không thể nào tranh luận với những nữ tu đang hân hoan vui sướng được đâu. Thậm chí Gertrud và Agletrudis cũng thôi thầm thì vào tai mẹ Christina rằng tôi cần quay về làm nhiệm vụ tại phòng viết.