Cô Gái Đùa Với Lửa

Chương 11


Đọc truyện Cô Gái Đùa Với Lửa – Chương 11

Thứ Tư, 23 tháng Ba

Thứ Năm trước Phục sinh, 24 tháng Ba

Những phương trình vớ vẩn mà không có đáp án nào tồn tại cho chúng được gọi là trò vô lý.

(a+b)(a-b) = a^2 – b^2 + 1

lomkvist cầm bút đỏ khoanh vào lề bản thảo của Svensson một vòng tròn trong có một dấu hỏi rồi viết “chú thích chân trang”. Anh muốn Svensson cấp nguồn tư liệu ở đây.

Là thứ Tư, tối trước thứ Năm Phục sinh, muốn gì ít nhiều Millennium cũng đóng cửa vì tuần lễ Phục sinh. Nilsson ra nước ngoài, Karim lên núi với chồng. Cortez đến vài giờ để giải quyết các tin gọi qua điện thoại nhưng Blomkvist đã cho anh ta về vì chả có ai gọi mà anh thì sẽ ở đây. Cười hí hửng, Cortez lên đường đi gặp bạn gái mới.

Svensson ở quanh quẩn đây. Blomkvist ngồi một mình trong tòa soạn đọc kỹ tập bản thảo. Quyển sách sẽ có mười hai chương và dài 288 trang. Svensson đã nộp chín trong số mười hai chương và Blomkvist thì đang xét từng chữ, rồi đưa trả lại bản sao đã đọc kỹ với những ghi chú yêu cầu giải thích thêm và gợi ý những chỗ cần viết lại.

Svensson là một người viết có tài. Phần lớn việc xét duyệt của Blomkvist được ghi vào bên lề tập bản thảo. Trong các tuần khi mà tập bản thảo dầy lên ở trên bàn làm việc của anh, họ chỉ không đồng ý với nhau về một đoạn văn, Blomkvist muốn bỏ nó nhưng Svensson sống chết đòi giữ lại. Và anh đã giữ được.

Tóm lại, Millennium có một quyển sách xuất sắc sẽ được gửi rất sớm đến nhà in.

Không nghi ngờ gì là nó sẽ nổi đình đám trên các báo. Svensson đã vạch mặt không thương xót đám chăn dắt gái, anh kể câu chuyện theo cách mà ai cũng có thể hiểu được là ở ngay trong bản thân chế độ đang có một cái gì đó không ổn. Phần này của quyển sách cho thấy tài năng của anh ở cả tư cách nhà văn lẫn tư cách nhà triết học xã hội. Việc nghiên cứu điều tra của anh đã dựng nên khung cốt của quyển sách. Đó là tác phẩm báo chí thuộc vào loại sẽ bị nằm vào trong bảng danh sách các giống loài lâm nguy.

Blomkvist biết rằng Svensson là một nhà báo tự đòi hỏi cao, rất ít để hở sườn. Anh không dùng lối tu từ đao to búa lớn điển hình của quá nhiều báo đạo biến các bài viết trở thành những lời lẽ vô vị huênh hoang. Vượt ra khỏi một bản tường trình, quyển sách của anh là một lời tuyên chiến. Blomkvist tự mỉm cười với mình. Svensson trẻ hơn anh chừng mười lăm tuổi nhưng anh nhận ra niềm đam mê anh từng có khi anh giương ngọn giáo lên chống lại các phóng viên tài chính hạng hai và đưa ra một quyển sách gây xôn xao dư luận. Một số phòng họp báo đã không xóa tội xóa nợ cho anh.

Với quyển sách của Svensson, vấn đề là phải kín kẽ chắc chắn. Một phóng viên dám theo đến cùng như thế này thì hoặc phải bảo vệ được trăm phần trăm bài báo của mình hoặc kiềm chế lại không đăng. Ngay lúc này Svensson đã bảo vệ được 98 phần trăm, vẫn còn một ít điểm yếu cần gia công thêm và ở một hay hai điều khẳng định anh chưa đưa ra được tư liệu thích đáng.

5 rưỡi chiều, Blomkvist mở ngăn kéo bàn làm việc lấy một điếu thuốc lá. Berger đã ban hành quy chế cấm hoàn toàn thuốc lá ở tòa soạn nhưng anh là người duy nhất và cũng chả còn ai khác sẽ ở tòa soạn vào cuối tuần này. Anh làm thêm bốn chục phút rồi thu dọn các trang viết và đặt cái chương anh đã làm lên khay nhận bài vở của Berger để cho chị đọc. Svensson đã hứa sáng mai gửi bản viết cuối cùng của ba chương còn lại qua email, như vậy Blomkvist có cơ hội đọc kỹ nó trong hai ngày cuối tuần. Đã định thứ Ba sau Phục sinh khi họ làm xong bản thảo cuối cùng của quyển sách và các bài báo cho Millennium thì sẽ có một cuộc họp những người phụ trách tòa soạn. Sau đó chỉ còn lại việc trình bày minh họa, chuyện nhức đầu của một mình Malm, rồi nó sẽ được đi đến nhà in. Blomkvist đã không tìm kiếm những giá chào hàng của các nhà in khác; anh tin tưởng công việc của Hallvigs Reklam ở Morgongava. Họ đã in quyển sách của anh về vụ Wennerstrom và đã cho anh một giá hời cùng dịch vụ hàng đầu.

Blomkvist xem đồng hồ rồi quyết định tự thưởng cho mình được xa hoa hút một điếu thuốc nữa. Anh ngồi ở cửa sổ nhìn xuống Gorgatan. Anh đưa lưỡi vào chỗ môi bị rách. Nó đang bắt đầu lành. Anh đã nghĩ cả nghìn lần về thực chất câu chuyện xảy ra ở bên ngoài tòa cao ốc của Salander sáng Chủ nhật.

Tất cả những gì anh biết chắc chắn là Salander còn sống và đã quay về Stockholm.

Từ đấy hàng ngày anh cố tìm cách gặp cô. Anh đã gửi email đến địa chỉ cô dùng hơn năm trước. Anh đảo khắp Lundagatan. Anh đã bắt đầu thất vọng.

Biển tên ở trên cửa nay là “Salander – Wu”. Có 230 người tên Wu trong danh sách cử tri và khoảng 140 người trong số đó sống ở Stockholm, không ai ở Lundagatan.

Blomkvist không biết liệu cô đã có bạn trai chưa hay cô cho thuê căn hộ rồi. Không ai ra mở khi anh gõ cửa.

Cuối cùng anh ra lại bàn làm việc, viết cho cô một bức thư hiền lành theo kiểu cổ:

Chào Sally,

Tôi không biết năm ngoái chuyện gì đã xảy ra nhưng nay thì ngay đến một đứa óc bã đậu như tôi cũng nhận thấy ra là cô đã cắt đứt hết mọi tiếp xúc. Cô chơi bời với ai là cô tự quyết định, tôi không có ý chõ vào. Tôi chỉ muốn bảo cô rằng tôi vẫn nghĩ đến cô như một người bạn, rằng tôi nhớ thời gian ở bên cô và thích được uống một tách cà phê với cô – nếu cô thích như thế.

Tôi không biết cô đã vướng phải rắc rối nào nhưng vụ đánh đuổi ở Lundagatan là đáng báo động. Nếu cần giúp đỡ cô có thể gọi tôi bất cứ lúc nào. Tôi chịu ơn cô lớn, cô biết đấy.

Thêm, tôi có cái túi khoác của cô. Khi nào muốn lấy, cứ việc cho tôi biết. Nếu cô không muốn gặp tôi thì cho tôi một địa chỉ để tôi gửi nó qua bưu điện. Tôi hứa không làm phiền cô vì cô đã cho thấy đủ rõ ràng rằng cô không muốn có bất cứ liên hệ nào với tôi cả.

Mikael

Như đã lường trước, anh không được một hồi âm nào.

Sáng sau vụ đánh đuổi, khi về nhà, anh đã mở cái túi khoác, đổ các thứ ở bên trong lên bàn bếp. Có một chiếc ví với một thẻ căn cước, khoảng 600 curon, 200 đôla Mỹ, và một thẻ đi xe tháng. Có một gói Marlboro Nhẹ, ba bật lửa Bic, một hộp thuốc chữa đau họng hình thoi, một gói giấy khăn lau, một bàn chải răng, thuốc đánh răng, ba chiếc băng vệ sinh ở trong một túi bên, một hộp bao cao su chưa bóc với miếng dán đề giá tiền cho thấy nó đã được bán ở sân bay Gatwick, một sổ tay đóng gáy với dụng cụ đo tính màu đen, năm bút bi, một bình xịt Mace, một túi con đựng son môi và đồ trang điểm, một radio FM chạy pin với một tai nghe nhưng không có pin và tờ báo Aftonbladet thứ Bảy.

Vật làm cho anh ngạc nhiên nhất là một cái búa, dễ dàng đút vào ngăn túi bên ngoài. Nhưng bị tấn công quá đột ngột cô đã không kịp dùng đến nó hay lọ xịt Mace. Rõ ràng cô đã dùng chùm chìa khóa làm một quả đấm sắt – vẫn có vết máu và da trên các chìa.

Có sáu chiếc chìa móc vào vòng. Ba cái là chìa điển hình dùng cho cửa nhà ở – cửa chính, cửa căn hộ và cho khóa vòng. Nhưng không chìa nào hợp với cửa của tòa nhà ở Lundagatan.

Blomkvist mở quyển sổ tay đọc hết từng trang một. Anh nhận ra chữ viết gọn ghẽ của cô và ngay lập tức thấy đây không phải là cuốn nhật ký riêng tư của một cô gái. Ba phần các trang sổ tay chi chít những cái nom như những ghi chép toán học. Ở đầu trang thứ nhất là một phương trình mà ngay Blomkvist cũng nhận ra:

(x^3 + y^3 = z^3)

Blomkvist không bao giờ gặp rắc rối trong môn toán. Anh rời trường phổ thông với điểm số cao nhất về toán, điều dĩ nhiên không có ý nói anh là một nhà toán học mà chỉ là nói anh có thể tiếp thu nội dung giáo trình của nhà trường. Nhưng sổ tay của Salander có những công thức thuộc loại mà Blomkvist chưa từng hiểu cũng như rồi cũng sẽ không thể hiểu. Một phương trình nằm vắt ngang cả hai trang liền và chấm hết với những thứ bị giập xóa và sửa. Anh cũng không thể nói chúng là các công thức toán thực sự hay là các bài toán, nhưng do anh hiểu cái sự quái của Salander nên anh cho rằng các phương trình này là thật và chắc chắn có mang một ý nghĩa bí kíp nào đó.

Anh lật đi lật lại nhiều lần quyển sổ tay. Mà chẳng khác nào anh bập phải một quyển sổ tay dày đặc chữ Trung Quốc. Nhưng anh nắm được điều chính yếu của cái việc cô đang cố làm. Cô đã bị định lý Fermat mê hoặc, một bài toán đố mà anh cũng chỉ là nghe nói đến mà thôi. Anh buông một tiếng thở dài đánh sượt.

Trang cuối cùng của quyển sổ có một số ghi chú rất cụt lủn và khó hiểu, những cái tuyệt đối không có gì liên quan đến toán học, nhưng muốn gì nom vẫn giống như một công thức:

(Khổng lồ Tóc vàng + Magge) = NEB

Nó được gạch dưới và khoanh tròn, và chả có ý nghĩa gì với anh. Ở dưới cùng trang là một số điện thoại và tên một công ty cho thuê xe hơi ở Elskilstuna, Auto – Expert.

Blomkvist dập điếu thuốc, mặc jacket vào, đặt tín hiệu báo động trong tòa soạn rồi đi bộ ra bến xe buýt cuối cùng ở Slussen, lên xe đi đến khu sinh sống riêng của đám thanh niên yuppie ở Staket, gần Lannersta. Blomkvist được cô em gái Annika Blomkvist Giannini mời ăn tối, hôm nay là sinh nhật lần thứ bốn mươi hai của cô.

Berger bắt đầu lễ Phục Sinh dài ngày bằng một cuốc đi rảo cẳng ba cây số hùng hục và đầy lo lắng rồi kết thúc ở một bến tàu chạy hơi nước ở Salssjobaden. Lười đúng giờ tới nhà thể dục, chị đã cảm thấy người cứng đơ và không được khỏe. Chị đi bộ về nhà. Chồng chị lên lớp ở Viện bảo tàng Hiện đại, ít nhất cũng phải tới 8 giờ mới về. Chị nghĩ sẽ mở một chai vang ngon, vặn tắm hơi lên rồi mồi chài anh. Như thế ít nhất cũng sẽ làm cho chị thôi nghĩ đến cái vấn đề nó đang quấy rối chị.

Một tuần trước chị đã ăn trưa với vị Tổng giám đốc của công ty truyền thông lớn nhất Thụy Điển. Đang dùng món salad, ông hết sức nghiêm túc đưa ra thẳng thừng ý ông định tuyển chị về làm Tổng biên tập của tờ báo hàng ngày lớn nhất của công ty, tờ Svenska Morgon – Posten. Ban lãnh đạo đã bàn mấy khả năng nhưng chúng tôi tán thành rằng chị sẽ là một tài sản lớn của tờ báo. Chị là người mà chúng tôi mong muốn. Kèm với lời mời làm là một khoản lương nó làm cho thu nhập của chị ở Millennium nom hóa ra hài hước.

Như tiếng sét nổ giữa trời xanh, lời mời đã khiến cho chị im lặng không nói. Tại sao lại là mình?

Ông Tổng giám đốc đã nói mập mờ hơi là lạ, nhưng dần dà ý tứ đã rõ ra là chị có tên tuổi, được kính trọng và là một biên tập viên mà tài năng thì đã được chứng nhận. Cách chị kéo Millennium ra khỏi bãi cát lún hai năm trước đã gây ấn tượng với họ. Tờ Svenska Morgon – Posten cũng cần có được sức sống mới bằng cách ấy. Một khí quyển của những người già nua ở tờ báo đang khiến cho số lượng người đặt mua báo giảm xuống liên tục. Berger là một nhà báo quyền uy. Chị có mục tiêu. Để cho một phụ nữ và một người bảo vệ quyền lợi phụ nữ phụ trách một trong những thiết chế báo thủ nhất và chuyên bị đàn ông thống trị này là một ý tưởng khiêu khích và táo bạo. Mọi người đều tán thành. Những người đáng kể tới đều đứng về một bên.

– Nhưng tôi lại không chia sẻ các quan điểm chính trị cơ bản của tờ báo.

– Thì có ai bảo sao? Chị cũng không phải là một người đối lập nói đốp chát. Chị sẽ là bà chủ – chứ không phải là máy nói của các vị quan chức – trang xã luận sẽ tự lo liệu lấy cho nó.

Nói điều này, ông đã kiệm lời, nhưng đó cũng là một vấn đề thuộc về đẳng cấp. Berger có xuất thân không chê vào đâu được.

Chị bảo ông là lời mời chắc chắn hấp dẫn chị nhưng chị chưa thể trả lời ông ngay. Chị cần phải suy nghĩ kỹ. Nhưng họ đồng ý rằng chị nên cho họ biết sớm quyết định chứ đừng để muộn. Ông Tổng giám đốc nói nếu tiền lương mà ông nêu ra là lý do để cho chị do dự thì chắc chắn là chị có tư thế để bàn tới một con số cao hơn. Một khoản tiền thưởng lớn đến độ ngạc nhiên cũng sẽ được tính đến. Đã đến lúc chị bắt đầu nghĩ đến kế hoạch về hưu rồi đó.

Sinh nhật lần thứ bốn mươi tư của chị sắp tới. Chị đã học nghề với tư cách thực tập viên và nhân viên tạm thời. Chị đã lắp ráp nên Millennium rồi bằng thành tích của bản thân mà trở thành Tổng biên tập của nó. Giây phút chị phải cầm điện thoại lên để nói là nhận hay không đang tới nhanh mà chị vẫn không biết sẽ nói thế nào. Tuần trước chị đã xem xét đến thời hạn và bàn chuyện này với Blomkvist nhưng chị không có đủ nghị lực. Thay vì vậy, chị lại giấu anh lời mời này, và chị thấy nhói đau vì có lỗi.

Có vài bất lợi rõ. Một câu vâng sẽ làm tan vỡ quan hệ đối tác với Blomkvist. Anh sẽ không bao giờ theo chị đến Svenska Morgon – Posten, dù chị hay họ có thể cho anh một công việc thơm tho thế nào. Hiện nay anh đang không cần tiền và anh đang được thung dung viết tiếp các bài báo ra trò.

Berger rất thích làm Tổng biên tập tờ Millennium. Nó đã cho chị một vị trí trong thế giới báo chí, cái vị trí mà chị hầu như coi mình là không xứng. Chị không là người sản xuất tin. Việc này không phải sở trường của chị – chị tự xem mình là một cây viết xoàng. Nhưng chị là số dách về phát thanh hay truyền hình và trên hết chị là một biên tập viên xuất sắc. Cạnh đó, chị thích công việc thực tế của xuất bản, nó là điều kiện tiên quyết cho chức vụ Tổng biên tập của tờ Millenium.

Dẫu sao chị cũng bị cám dỗ. Không phải vì tiền lương mà sự thật là công việc đó có nghĩa chị sẽ nghiễm nhiên trở thành một trong những tác nhân của ngành truyền thông Thụy Điển đang thành công ghê gớm. Đây là lời mời chỉ gặp có một lần ở trong đời mà thôi, ông Tổng giám đốc đã nói.

Ở đâu đó quãng gần Grand Hotel ở Saltsjobaden, chị nhận ra chị sẽ không thể từ chối lời mời này. Và chị nhún vai khi nghĩ tới việc sẽ phải nói với Blomkvist.


Bữa tối ở nhà Giannini luôn luôn hỗn loạn ở mức chịu được. Annika có hai con: Monica mười ba và Jennie lên mười. Enrico, chồng chị, đầu ngành của một công ty sinh kỹ học quốc tế vùng Scandinavia đã nuôi Antonio, đứa con trai mười sáu tuổi có với người vợ đầu. Cùng ăn có Antonia, mẹ của Enrico, em anh Pietro, em dâu anh Eva – Lotta cùng Pietro và Nicola, hai đứa con của chị. Cộng Marcella, em gái của Enrico và bốn đứa con của chị sống loanh quanh cùng xóm. Angelina, dì của Enrico, bị gia đình coi như điên đặc hay là cực kỳ hóa rồ vào những ngày tốt lành, cũng được mời đến với ông bạn trai mới của bà.

Dễ dàng nhận ra cái sự rối loạn bên bàn ăn đầy ú. Chuyện trò diễn ra huyên náo với tiếng Ý và tiếng Scandinavia pha trộn đôi khi cùng lúc. Tình hình càng đáng rầu do bà dì Angelina bỏ cả buổi tối ra nói ầm ầm lên – cho ai cũng nghe thấy – rằng tại sao ông anh của Annika cứ vẫn không vợ. Angelina cũng đề nghị một số giải pháp thích hợp cho vấn đề của anh ở trong đám con gái của các bạn bè bà. Bực mình, cuối cùng Blomkvist nói rõ rằng lấy vợ thì anh hạnh phúc nhưng không may thay, người mà anh yêu lại đã có chồng mất rồi. Như vậy mới làm cho Angelina im được một lúc.

7 rưỡi, di động của Blomkvist reo. Anh tưởng đã cắt máy và suýt nữa lỡ mất cuộc gọi khi anh moi máy ở túi trong áo jacket ra, chiếc áo đã có ai treo lên mắc mũ áo ở gian sảnh. Svensson gọi.

– Tôi có phá ngang mất chuyện gì không?

– Không có gì đặc biệt. Tôi ăn tối với em gái và một trung đội những người của gia tộc chồng cô ấy. Chuyện gì thế?

– Hai chuyện. Tôi cố túm lấy Christer nhưng anh ấy không trả lời.

– Cậu ấy đang ở nhà hát với tay bạn trai.

– Chán thật. Tôi đã hứa sáng mai gặp anh ấy ở tòa soạn cùng với ảnh và đồ họa cho quyển sách. Christer sẽ xem trong những ngày cuối tuần nhưng thình lình Mia lại quyết định nhân lễ Phục sinh đi thăm bố mẹ cô ấy ở Dalarna và đưa các vị xem luận án của cô ấy. Chúng tôi sẽ đi sớm mai và một số ảnh tôi không gửi email được. Tôi có thể gửi chúng đến anh tối nay không?

– Có thể… nhưng xem nào, tôi đang ở mãi tận ngoài Lannersta cơ. Tôi còn ở đây một lúc nữa nhưng sau đây sẽ về thành phố. Con đường tôi đi không xa Enskede chỗ anh lắm. Tôi có thể xẹt qua lấy cho. Quanh quẩn 11 giờ được chứ?

– Thế thì nhất. Việc thứ hai… tôi nghĩ anh sẽ không thích cái này.

– Phun ra đi.

– Tôi dớ được một cái mà tôi nghĩ tốt nhất nên kiểm tra trước khi đưa quyển sách đi nhà in.

– OK. Cái gì thế?

– Zala viết là Z.

– A, Zala tên cướp. Đứa mà mọi người có vẻ khiếp sợ và không ai muốn dây đến.

– Nó đấy. Một hai ngày trước đây tôi lại đã vập phải nó. Tôi tin là nó hiện đang sống ở Thụy Điển và nó chắc là nằm trong danh sách đám ma cô chăn dắt gái ở chương bảy.

– Dag, ba tuần nữa đưa sách đến nhà in rồi, anh không thể lại bắt đầu đào bới được đâu.

– Tôi biết nhưng cái này hơi đặc biệt một tí. Tôi đã nói chuyện với một người cảnh sát từng nhặt được một tin gì đó về Zala. Tuần sau bỏ hai ba ngày ra kiểm tra thêm về hắn thì tôi nghĩ muốn gì cũng sẽ ra chuyện đấy.

– Tại sao lại là hắn? Những loại dòi bọ đó ở trong sách của anh đã có đủ hết rồi mà.

– Thằng này dòi bọ cỡ Thế vận hội đấy. Không ai biết thực sự nó là thế nào. Linh tính bảo rằng chúng ta bỏ một lúc ra tìm nó là đáng đấy.

– Đừng có đem hạ giá linh tính của anh đi. – Blomkvist nói. – Nhưng nói thật ra thì… chúng ta không thể lùi hạn được. Đã đặt chỗ ở nhà in và quyển sách lại phải ra cùng lúc với số Millennium có chủ đề.

– Tôi biết. – Svensson nói, giọng nghe cụt hứng.

– Tôi sẽ gọi anh sau. – Blomkvist nói.

Johansson vừa pha cà phê đổ vào phích thì chuông cửa reo. Đúng vào trước 9 giờ tối. Ở gần cửa hơn, lại nghĩ có thể là Blomkvist đến sớm trước hẹn, Svensson mở cửa không nhòm qua lỗ quan sát. Không phải Blomkvist. Svensson đối diện với một cô gái như búp bê, thấp, cỡ ở vào cuối tuổi mười mấy.

– Tôi muốn gặp Dag Svensson và Mia Johansson. – Cô gái nói.

– Tôi là Dag Svensson đây.

– Tôi muốn được nói chuyện với cả hai người.

Svensson bất giác xem đồng hồ. Johansson tò mò đã vào gian sảnh đứng ở đằng sau bạn trai cô.

– Đến thăm thế này thì có hơi bị muộn. – Svensson nói.

– Tôi muốn nói đến quyển sách anh dự định xuất bản ở Millennium.

Svensson và Johansson nhìn nhau.

– Thế cô là ai?

– Tôi quan tâm đến vấn đề này. Tôi có thể vào được không hay là ta nói chuyện ở ngoài hành lang?

Svensson do dự một thoáng giây. Cô gái hoàn toàn xa lạ, giờ đến thăm kỳ quặc nhưng xem vẻ cô không đủ sức gây hại nên anh mở cửa. Anh chỉ cho cô bàn trong phòng khách.

– Cô có muốn uống cà phê không? – Johansson nói.

– Trước hết cô nên giới thiệu cô là ai đã. – Svensson nói.

– Vâng, tôi xin, à, ý tôi là nói cà phê. Tôi là Lisbeth Salander.

Johansson nhún vai mở phích. Chuẩn bị đón Blomkvist cô đã bày cốc tách cà phê ra.

– Điều gì khiến cô biết chúng tôi đang in sách ở Millennium? – Svensson nói.

Anh bỗng hết sức nghi ngờ nhưng cô gái lờ anh mà quay sang Johansson. Cô nheo mặt, và đó có thể là một nụ cười khó hiểu.

– Luận án lý thú đấy. – Cô nói.

Johansson nom có vẻ choáng.

– Sao cô lại biết được luận án của tôi chứ?

– Tôi tình cờ vớ được một bản sao. – Cô gái nói bí ẩn.

Svensson càng khó chịu.

– Thôi, bây giờ đúng là cô phải nói rõ với tôi cô là ai và cô muốn gì?

Cô gái nhìn vào mắt anh. Anh chợt nhận thấy con ngươi mắt cô sẫm màu đến mức mắt cô nom đen lay láy lên trong ánh sáng này.

Và có lẽ anh đã đánh giá thấp tuổi cô.

– Tôi muốn biết tại sao anh lại la cà khắp nơi đặt các câu hỏi về Zala, Alexander Zala.


– Salander nói. – Và trước hết tôi muốn biết chính xác anh đã biết được những gì về hắn.

Alexander Zala, Svensson giật mình nghĩ. Anh không biết tên hắn.

Cô gái nâng tách cà phê lên nhấp một ngụm, mắt vẫn không rời mắt anh. Mắt cô không có chút ấm áp nào. Anh bỗng thấy vơ vẩn bồn chồn.

Không như Blomkvist và những người đứng tuổi ở bữa ăn liên hoan (và mặc dù đây là mừng sinh nhật chị), Annika Giannini chỉ uống bia nhẹ, không đụng đến vang và rượu aquavit trong khi ăn. Cho nên 10 rưỡi chị vẫn tỉnh như sáo. Do chỗ coi anh mình là một tay ngốc đặc cán táu ở một số phương diện, chị hào hiệp nhận đưa xe anh về và ghé qua Enskede. Chị đã có ý đưa anh ra bến xe bus ở Varmdovagen, như vậy vào thành phố sẽ không phải lái xe xa nhiều hơn như thế này.

– Sao anh không mua xe cho mình? – Chị nói trong khi thắt dây an toàn.

– Vì không như em, anh đi bộ đến chỗ làm việc được và cả năm anh mới cần đến xe một lần. Ngoài ra, sau khi chồng em bắt đầu cho uống rượu mạnh của Skane thì muốn gì anh cũng không thể nào lái xe được.

– Anh ấy đang thành ra người Thụy Điển. Mười năm trước thì chay trường.

Trên đường đi họ chuyện trò như mọi anh em thường vẫn chuyện trò. Ngoài một bà cô đằng nội sống dai bền, hai bà dì đằng ngoại sống kém dai bền hơn, hai anh em họ xa và một anh họ xa nữa, Blomkvist và Annika chỉ có nhau là gia đình. Khoảng cách ba tuổi nghĩa là ở cuối cái tuổi mười mấy họ không có nhiều chuyện đồng cảm đồng tình. Nhưng lớn lên họ đã trở nên thân thiết hơn.

Annika học luật, Blomkvist cho rằng cô em có nhiều tài hơn anh. Cô thuận buồm xuôi gió qua hết đại học, qua mấy năm ở các tòa án quận rồi trở thành trợ lý của một trong những luật sư tên tuổi nhất ở Thụy Điển. Rồi chị bắt đầu tách ra làm riêng. Annika chuyên về luật gia đình, điều đang dần dần phát triển thành về các quyền bình đẳng. Chị trở thành người bênh vực phụ nữ bị lạm dụng, viết một quyển sách về đề tài này và trở thành một cái tên được kính trọng. Để làm hay hơn chuyện đó, chị đã dính líu về chính trị với đảng Xã hội Dân chủ, điều đẩy Blomkvist tới chỗ trêu chị là người của bộ máy nhà quan. Bản thân Blomkvist thì từ lâu đã quyết định anh không thể vừa là đảng viên mà lại vẫn giữ được uy tín của nghề báo. Anh không tự giác bỏ phiếu bầu cử bao giờ, trong các trường hợp cảm thấy bị buộc tuyệt đối phải bỏ phiếu thì anh không hề nói ra anh đã bầu ai, kể cả với Berger.

– Anh nay làm ăn sao? – Annika hỏi trong khi họ băng qua Skurubron.

– Làm ăn tốt.

– Vậy thì vấn đề là gì?

– Vấn đề nào?

– Mikael, em biết anh mà, cả tối nay đầu óc anh để ở đâu.

Blomkvist ngồi im một lúc.

– Chuyện này phức tạp. Hiện anh đang có hai vấn đề. Một về một cô gái anh gặp hai năm trước, cô ấy giúp anh trong vụ Wennerstrom, thế rồi chẳng một lời biến mất khỏi đời anh. Hơn một năm nay anh không hề thấy bóng dáng cô ấy, trừ tuần vừa rồi.

Anh kể cô nghe vụ đánh đuổi ở Lundagatan.

– Anh có báo cáo với cảnh sát không?

– Không.

– Sao không?

– Cô ấy đã thành tật giữ chuyện riêng kín như bưng rồi ấy mà. Cô ấy là người bị hành hung. Cô ấy sẽ phải báo cáo.

Trong danh sách những ưu tiên của Salander, điều Blomkvist chờ đợi không nằm ở chỗ cao.

– Cứ cứng đầu cứng cổ mãi thôi này. – Annika nói, vỗ nhè nhẹ vào má Blomkvist. – Còn vấn đề thứ hai?

– Bọn anh đang làm một chuyện ở Millennium mà chắc rồi sẽ thành tít lớn. Cả tối anh ngồi nghĩ có nên hỏi ý kiến em không. Với cương vị một luật sư, ý anh là vậy.

Annika ngạc nhiên liếc anh.

– Hỏi ý em? – Chị kêu lên. – Thế này là một sự mới mẻ đây.

– Chuyện là về buôn bán và bạo lực với phụ nữ. Em giải quyết tệ bạo hành với phụ nữ và em là luật sư. Chắc là em không xử lý các vụ về tự do báo chí rồi nhưng anh sẽ thực sự biết ơn nếu em đọc kỹ được cho anh một bản thảo trước khi nó đi nhà in. Có các bài báo cho tạp chí và một quyển sách, cho nên cũng không phải đọc nhiều.

Annika im lặng khi rẽ xuống con đường công nghiệp Hammarby và qua cửa cống Sickla. Cô vòng vào các phố khuất ở bên trong song song với Nynasvagen cho tới khi có thể rẽ lên Enskedevagen.

– Mikael, anh biết không, cả đời chỉ có một lần em thật sự điên lên vì anh.

– Có thế ư? – Anh nói, ngạc nhiên.

– Đó là khi anh bị Wennerstrom đưa ra tòa rồi vào tù vì vu khống. Em tức anh điên lên đến nỗi tưởng như sắp nổ tung ra.

– Tại sao? Anh chỉ làm cho mình anh thành đứa ngố thôi chứ.

– Trước đó anh đã nhiều lần làm cho anh thành đứa ngố rồi. Nhưng lần ấy anh cần một luật sư mà cái người duy nhất anh không ngó đến là em. Anh đã ngồi nói chả đâu ra đâu ở tòa án lẫn trên tivi. Em đã tưởng em chết đến nơi rồi cơ đấy.

– Chuyện này có những hoàn cảnh đặc biệt. Chả có việc nào em làm được đâu.

– Đúng, nhưng mãi tới sau này, khi Millenium đứng vững trở lại và đánh đổ Wennerstrom, em mới hiểu. Còn trước đó em thất vọng ghê gớm về anh.

– Chúng ta không có cách nào thắng được vụ đó.

– Anh không hiểu ý em, ông anh ơi. Em hiểu đó là một vụ không có hy vọng. Em đã đọc biên bản xét xử. Ý em là anh đã không tìm em và yêu cầu em giúp. Đại khái như này, cô em, anh cần một luật sư. Em không đến tòa dạo ấy là vì thế đó.

Blomkvist nghĩ lại chuyện đó.

– Anh xin lỗi, anh chấp nhận ý em. Lẽ ra anh nên làm thế.

– Đúng, anh đã nên như thế.

Blomkvist nghĩ lại chuyện đó.

– Năm ấy anh chả làm gì. Anh không thể gặp mặt ai để nói chuyện được cả. Anh chỉ muốn nằm xuống rồi chết đi.

– Điều mà anh đã không làm, đúng như vậy.

– Tha lỗi cho anh.

Annika Giannini toét miệng cười với anh.

– Hay đấy, một lời xin lỗi muộn màng hai năm. OK. Em sẽ hân hạnh đọc kỹ tất cả. Anh có đang gấp không?

– Gấp. Bọn anh phải in sớm. Rẽ trái ở đây.


Annika đỗ xe bên kia đường đối lại với tòa nhà mà Svensson và Johansson sống trên đường Bjorneborgsvagen.

– Chỉ một phút thôi. – Blomkvist nói rồi rảo bước qua phố đến bấm mã khóa cửa.

Vừa bước vào trong anh thấy ngay là có chuyện. Nghe thấy tiếng người bị kích động vọng lên ở lòng giếng cầu thang, anh chạy ba tầng lầu lên nhà. Chưa tới sàn nhà họ, anh đã nhận thấy tất cả mọi người ở xung quanh căn hộ của họ đang bị chấn động. Năm người hàng xóm đang đứng ở hành lang. Cửa căn hộ khép hờ.

– Có chuyện gì thế? – Blomkvist nói, tò mò nhiều hơn là lo ngại.

Họ đều im lặng trừng trừng nhìn anh. Ba phụ nữ, hai đàn ông, vẻ đều ở tuổi bảy chục. Một trong số phụ nữ mặc áo ngủ.

– Nghe như có tiếng súng nổ. – Một ông mặc một áo khoác màu nâu nói, ông có vẻ tỉnh táo.

– Súng nổ?

– Đích thị. Đã có tiếng súng nổ ở trong căn hộ cách đây chừng một phút. Cửa mở đấy.

Khi vào nhà, Blomkvist đẩy mọi người ra, đi đến bấm chuông cửa.

– Dag? Mia?

Không trả lời.

Thình lình anh thấy cơn lạnh toát chạy dọc theo cổ anh xuống. Anh nhận ra cái mùi: thuốc súng. Rồi anh đến gần cửa phòng khách. Điều đầu tiên anh trông thấy là, Chúa ơi, Svesson nằm phủ phục trong một vũng máu ở bên những chiếc ghế phòng ăn cách anh một mét.

Blomkvist nhào đến. Cùng lúc anh lấy di động bấm gọi dịch vụ cấp cứu 112. Họ trả lời lập tức.

– Tôi là Mikael Blomkvist. Tôi cần xe cứu thương và cảnh sát.

Anh cho địa chỉ.

– Liên quan đến gì vậy?

– Một người đàn ông. Anh ta hình như bị bắn vào đầu và đang hôn mê.

Blomkvist cúi xuống thử tìm mạch ở cổ Svensson. Rồi anh thấy một lỗ to tướng ở đằng sau đầu Svensson và nhận ra chắc anh đã giẫm vào óc của Svensson. Anh từ từ rụt tay về. Nay chả còn xe cứu thương nào trên thế giới cứu nổi được Svensson nữa rồi.

Lúc ấy anh để ý thấy những mảnh vỡ của một trong các tách cà phê mà Johansson thừa hưởng của bà, những cái tách cô rất sợ bị vỡ. Anh vội đứng phắt dậy nhìn quanh.

– Mia. – Anh hét to.

Ông hàng xóm mặc áo khoác nâu đã vào trong gian sảnh ở sau anh.

Blomkvist quay sang cửa phòng khách, giơ cao tay lên.

– Dừng lại ở đấy. – Anh nói. – Quay ra lại cầu thang.

Ông hàng xóm thoạt nom có vẻ muốn phản đối nhưng nghe lệnh. Blomkvist đứng im chừng mười lăm giây. Rồi anh vòng qua vũng máu, thận trọng bước qua xác Svensson đi sang phòng ngủ.

Johansson nằm ngửa ở trên sàn, cạnh chân giường. Không không không nhân danh Chúa. Cô bị bắn vào mặt. Viên đạn đi vào bên dưới quai hàm gần tai trái cô. Đi ra ở thái dương cô, nó tạo thành một vết thương to bằng quả cam và hốc mắt phải của cô sâu hoắm toang hoác. Máu cô chảy ra còn nhiều hơn máu Svensson. Sức mạnh của viên đạn lớn đến mức bức tường trên đầu giường cách xa ba mét cũng đầy những vết máu tung tóe.

Blomkvist nhận ra tay mình đang cứng khư nắm chiếc di động vẫn mở liên hệ với đường dây của trung tâm cấp cứu cũng như anh đang nín thở. Anh hít không khí vào phổi và giơ di động lên.

– Chúng tôi cần cảnh sát. Có hai người bị bắn. Tôi nghĩ họ đã chết. Xin nhanh lên cho.

Anh nghe thấy tiếng trung tâm cấp cứu nói nhưng không rõ được lời. Anh cảm thấy tai anh có chuyện. Xung quanh anh im lặng hoàn toàn. Cố nói gì, anh cũng không nghe thấy ngay cả tiếng của mình. Anh buông di động trở ra ngoài căn hộ. Ra đến chiếu giữa anh nhận thấy toàn thân anh run rẩy và tim đập mạnh phát đau. Không nói năng anh len ra khỏi đám hàng xóm, bàng hoàng đi đến cầu thang ngồi xuống. Xa xa anh nghe thấy hàng xóm hỏi anh. Chuyện gì xảy ra thế? Họ có bị thương không? Chuyện gì thế vậy? Tiếng của họ như từ trong hầm ngầm vọng ra.

Blomkvist thấy mình mụ mị. Anh biết anh đang bị sốc. Anh gục đầu xuống đầu gối. Rồi anh bắt đầu nghĩ. Lạy Chúa, họ đã bị giết. Họ vừa bị bắn chỉ mới đây một ít thôi. Đứa giết họ khéo còn ở trong căn hộ… không, mình sẽ phải nhìn thấy nó. Căn hộ chỉ rộng có năm mươi lăm mét vuông. Anh không giữ nổi cho khỏi run. Svensson nằm phủ phục, Blomkvist không nhìn thấy được mặt anh ấy nhưng hình ảnh mặt Johansson vỡ toang thì không thể xóa đi khỏi võng mạc anh.

Thình lình tai anh lại nghe được tựa như có ai vừa vặn nút tăng âm lượng. Anh đứng vội lên, nhìn ông hàng xóm mặc áo khoác nâu.

– Ông. – Anh nói. – Ở lại bảo đảm cho không ai vào nhà. Cảnh sát và xe cứu thương đang đến. Tôi xuống đó đưa họ lên.

Blomkvist xuống ba bậc một. Ở tầng trệt anh liếc vào cầu thang gian hầm rượu và đứng sững. Anh đi một bước đến hầm rượu. Giữa chừng cầu thang đi xuống, nằm rõ ở trước mắt là một khẩu súng lục. Blomkvist nghĩ nó nom giống một khẩu Colt – 45, loại vũ khí đã được dùng để ám sát Olof Palmer.

Anh nén ý định nhặt khẩu súng mà ra cửa trước tòa nhà đứng ở ngoài trời đêm. Mãi tới khi nghe tiếng còi xe hơi, anh mới nhớ ra em gái vẫn đang chờ mình. Anh đi qua phố.

Annika mở miệng toan nói một cái gì nhiếc ông anh chậm chạp. Rồi chị trông thấy thần sắc anh.

– Em có trông thấy ai trong khi chờ ở đây không?

Blomkvist hỏi. Giọng anh khản và không tự nhiên.

– Không. Người thế nào? Chuyện gì xảy ra thế?

Blomkvist im một tí trong khi nhìn quanh tứ phía. Mọi sự đều vẫn yên tĩnh ở đường phố. Anh thò tay vào túi jacket lấy ra bao thuốc nhàu nát còn lại một điếu. Khi châm thuốc anh nghe thấy tiếng còi hú đến gần. Anh xem đồng hồ. 11 giờ 17 phút đêm.

– Đêm nay sẽ dài đây. – Anh nói không nhìn chị trong khi chiếc xe cảnh sát quẹo rẽ vào phố.

Những người đến đầu tiên là các sĩ quan Magnusson và Ohlsson. Nynasvagen có chuyện họ đã đến đó nhưng hóa ra lại là báo động lầm. Một xe nhân viên cùng với chánh thanh tra hiện trường Oswald Martensson đã đến theo hai sĩ quan trên. Chánh thanh tra đang ở Skanstull thì tổng đài phát lời gọi tới tất cả các xe cảnh sát ở trong vùng. Đến gần như cùng lúc từ các hướng khác nhau, họ trông thấy một người đàn ông mặc jean và jacket sẫm màu đứng ở giữa đường giơ tay báo hiệu dừng lại. Cùng lúc một phụ nữ ra khỏi chiếc xe đỗ ở cách người đàn ông vài mét.

Cả ba người cảnh sát chờ một vài giây. Tổng đài báo có hai người đã bị bắn và một người đang cầm một cái gì ở tay trái. Phải mất vài giây để yên chí đó là một điện thoại di động. Cùng lúc họ ra khỏi xe, chỉnh lại thắt lưng. Martensson đảm nhiệm việc chỉ huy.

– Anh là người gọi báo về vụ nổ súng phải không?

Người đàn ông gật đầu. Anh ta xem vẻ run tệ run hại. Anh ta hút thuốc và tay anh lẩy bẩy khi đưa điếu thuốc lên miệng.

– Tên anh là gì?

– Mikael Blomkvist. Hai người bị bắn ở trong cao ốc này vừa mới đây thôi. Tên của họ là Dag Svensson và Mia Johansson. Trên tầng bốn. Hàng xóm của họ đang đứng ở ngoài cửa.

– Lạy Chúa. – Người đàn bà nói.

– Chị là ai? – Martensson hỏi Annika.

– Annika Giannini. Tôi là em gái anh ấy. – Chị nói và chỉ vào Blomkvist.

– Hai người sống ở đây?

– Không. – Blomkvist nói. – Tôi đến thăm hai người vừa bị bắn. Ăn liên hoan xong, em gái tôi cho tôi đi nhờ xe.

– Anh bảo có hai người bị bắn. Anh có trông thấy chuyện gì xảy ra không?

– Không, tôi chỉ phát hiện thấy họ.

– Chúng ta hãy lên đó xem. – Martensson nói.

– Khoan. – Blomkvist nói. – Theo hàng xóm thì súng nổ trước khi tôi đến chỉ chừng một hai phút. Tôi bấm gọi trong vòng một phút cho 112 báo đến đây. Từ lúc ấy chưa tới năm phút trôi qua. Nghĩa là người giết họ chắc còn ở trong khu vực.

– Vậy anh có thể tả được hắn chứ?

– Chúng tôi không trông thấy ai hết. Có thể một bà con hàng xóm đã nhìn thấy cái gì đó.


Martensson ra hiệu cho Magnusson, ông này liền giơ bộ đàm lên thấp giọng nói vào đó. Ông ta quay sang Blomkvist.

– Anh có thể chỉ đường cho chúng tôi không?

Sau khi họ đã vào bên trong cổng chính của tòa nhà, Blomkvist dừng lại chỉ vào cầu thang xuống hầm rượu. Martensson cúi xuống nhìn khẩu súng. Ông đi xuống hết cầu thang hầm rượu thử mở cửa. Khóa.

– Ohlsson, ở đây và chú ý trông cái này. – Martensson nói.

Đám hàng xóm ở bên ngoài căn hộ đã thưa đi. Hai người về nhà mình nhưng người mặc áo khoác nâu vẫn đứng tại trận. Ông có vẻ nhẹ người đi khi trông thấy các sĩ quan mặc đồng phục.

– Tôi không có cho ai vào cả. – Ông nói.

– Thế tốt. – Blomkvist và Martensson cùng nói.

– Hình như có vết máu ở các bậc thang. – Sĩ quan Magnusson nói.

Mọi người nhìn vào các vết chân. Blomkvist nhìn vào đôi giầy lười Ý của mình, anh nói:

– Các vết chân này có lẽ là từ giầy tôi. Tôi đã ở bên trong căn hộ. Có kha khá máu chảy.

Martensson nhìn Blomkvist, vẻ xem xét. Ông lấy một cây bút ẩn cửa căn hộ mở ra và thấy nhiều dấu chân máu.

– Ở bên phải. Dag Svensson trong phòng khách và Mia Johansson trong buồng ngủ.

Martensson kiểm tra nhanh căn nhà rồi chỉ ít lúc sau đã trở ra. Ông gọi bộ đàm yêu cầu yểm trợ của sĩ quan trực hình sự. Ông nói xong thì toán cứu thương đến. Martensson ngăn họ lại khi họ đi vào.

– Hai nạn nhân. Như tôi thấy thì họ hết hy vọng rồi. Một người trong các anh có thể nhòm xem mà không làm rối hiện trường vụ án lên không?

Để xác nhận điều này thì không mất lâu la gì. Một bác sĩ quyết định sẽ không đem hai cái xác về bệnh viện để hồi sinh. Họ vô phương cứu chữa rồi. Thình lình thấy quặn ruột, Blomkvist quay sang Martensson:

– Tôi ra ngoài. Tôi cần không khí.

– Không may là tôi không thể để anh ra ngoài được.

– Tôi chỉ ra ngồi ở cổng bên ngoài cửa chính.

– Tôi có thể xem thẻ căn cước của anh không, xin phiền.

Blomkvist lấy ví ra để nó vào tay Martensson. Rồi lẳng lặng ra ngồi ở cổng bên tòa cao ốc, Annika và sĩ quan Ohlsson vẫn đang chờ ở đấy. Chị ngồi xuống cạnh anh.

– Mikael, xảy ra chuyện gì thế?

– Hai người mà anh rất yêu, đã bị ám sát. Dag Svensson và Mia Johansson. Bản thảo mà anh muốn em đọc là của anh ấy đấy.

Annika biết nay không phải là lúc dồn hỏi anh. Chị quàng vai ôm lấy anh. Nhiều xe cảnh sát nữa đến. Một nhóm con con những người sống về đêm tò mò dừng lại ở hè bên kia đường. Blomkvist nhìn họ trong khi cảnh sát bắt đầu dựng một rào cấm. Một cuộc điều tra án mạng vừa mới bắt đầu.

Lúc hai anh em Blomkvist được phép ra ngoài thì đã quá 3 giờ sáng. Họ ngồi một giờ ở trong xe Annika bên ngoài tòa cao ốc ở Enskede chờ công tố viên trực đến mở đầu giai đoạn tiền điều tra. Rồi do Blomkvist là bạn thân của hai nạn nhân và là người đã tìm ra họ cũng như điện thoại gọi cấp cứu cho nên họ được yêu cầu, như họ nói, đi theo cảnh sát đến Kungsholmen để dự cuộc điều tra.

Chờ ở đấy một lúc lâu rồi họ được nữ thanh tra Nyberg ở đồn cảnh sát hỏi. Chị thanh tra cảnh sát tóc vàng nhạt và nom như mười mấy tuổi.

Mình đang già đi, Blomkvist nghĩ.

Lúc 2 rưỡi anh đã uống cà phê của căng tin cảnh sát, nhiều quá đến nỗi hoàn toàn tỉnh táo và cảm thấy không thoải mái. Anh phải bỏ dở cuộc phỏng vấn để vào toa lét, ở đây anh mệt ghê gớm. Anh luôn thấy hình ảnh khuôn mặt Johansson bồng bềnh ở trên đầu mình. Anh uống ba chén nước, rửa mặt nhiều lần rồi mới quay lại cuộc phỏng vấn. Anh cố tĩnh tâm lại để trả lời mọi câu hỏi của thanh tra Nyberg.

– Dag Svensson và Mia Johansson có kẻ thù không?

– Không, theo tôi biết.

– Họ có bị đe dọa gì không?

– Nếu có thì tôi cũng không biết là đe dọa gì.

– Anh có thể tả quan hệ của họ như thế nào được không?

– Mọi vẻ bên ngoài đều cho thấy họ yêu nhau. Dag bảo tôi họ đang định có con sau khi Mia nhận bằng tiến sĩ.

– Họ có dùng ma túy không?

– Tôi không biết chắc, nhưng tôi nghĩ là không, và nếu có thì cũng không quá một điếu cần sa ở một bữa tiệc khi họ ăn mừng một cái gì.

– Lý do gì khiến anh đến nhà họ muộn thế?

Blomkvist nói rõ công việc cuối cùng làm cho một quyển sách nhưng không cho biết đề tài quyển sách.

– Anh có thấy đêm hôm khuya khoắt mà gọi người đến nhà là chuyện bình thường không?

– Lần đầu tiên mới có chuyện này.

– Sao anh quen biết họ?

– Qua công việc.

Câu hỏi đặt ra liên tục khi họ cố dựng lên khung thời gian.

Tiếng súng đã được cả tòa cao ốc nghe thấy. Nó bắn cách nhau không tới năm giây. Hóa ra ông già bảy mươi mặc áo khoác nâu lại là một một thiếu tá pháo binh bờ biển về hưu, hàng xóm gần nhất của họ. Ông đang xem tivi. Sau phát súng thứ hai ông ra lòng giếng cầu thang. Ông bị đau hông cho nên đứng lên phải cần thì giờ. Ông đánh giá mất chừng ba chục giây để ông ra tới chiếu giữa. Cả ông lẫn các hàng xóm khác đều không nhìn thấy ai hết.

Theo hàng xóm, phát súng thứ hai nổ chưa đầy hai phút thì Blomkvist đến.

Nhận rằng anh và Annika đã mất chừng nửa phút để nhìn quanh đường phố trong khi chị tìm tòa nhà và đậu xe còn anh nói anh sẽ quay lại ngay rồi chạy qua đường và lên gác, vậy thì đã có một khoảng cách từ ba mươi đến bốn chục giây. Trong thời gian đó tên giết người đã rời căn hộ, xuống ba tầng cầu thang – vất vũ khí trên đường – rời tòa cao ốc và biến đi trước khi Annika rẽ xe vào phố.

Trong một lúc lơ mơ, Blomkvist nhận thấy thanh tra Nyberg đang vờn với cái khả năng anh là tên giết người, anh chỉ chạy xuống một tầng cầu thang rồi chờ bà con hàng xóm tụ tập thì quay lại nói mình mới đến hiện trường. Nhưng anh có một chứng cứ ngoại phạm ở cô em gái. Tất cả buổi tối, kể cả cuộc nói chuyện điện thoại với Svensson đều có thể được một tá thành viên gia đình Giannini xác nhận.

Cuối cùng Annika phải vào cuộc. Blomkvist đã cho cảnh sát mọi sự giúp đỡ hợp lệ và có thể hiểu được. Rõ ràng anh mệt và đang không được ổn. Chị nói với chị thanh tra rằng mình không chỉ là em mà còn là luật sư của Blomkvist nữa. Đã đến lúc kết thúc chuyện này mà để anh ấy về.

Ra đến đường phố, hai anh em đứng lại một lúc ở cạnh xe của Annika.

– Về nhà ngủ lấy một chút đi nha.

Blomkvist lắc đầu.

– Anh phải đến chỗ Erika. – Anh nói. – Cô ấy cũng biết họ. Anh không thể gọi bảo cô ấy và cũng không muốn cô ấy thức dậy nghe chuyện này qua tin tivi.

Annika ngập ngừng nhưng biết anh mình đúng.

– Được, thì đến Saltsjobaden. – Chị nói.

– Em đưa anh đi được không?

– Em gái là để làm cái gì khác nữa đây chứ hả?

– Nếu em cho anh đi ké đến Nacka anh sẽ đi taxi đi hay chờ xe bus.

– Nói quàng. Nhảy lên xe để em lái đi nào.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.