Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 22
CHƯƠNG 19: SOLOMON GIẢI CỨU
Ít ai trông thấy cái hình hài đen sải bước trên đường – diện mạo lộng lẫy của một lão người lạ thật chẳng ý nghĩa gì với những sinh vật sống về đêm đang cuống quít tìm lối chạy trốn. Vòng ngọc lục bảo sáng loe lóe trên cổ lão, tấm áo chùng vàng rực đổ xuống như một thác nước, cái áo chẽn màu đen đính ngọc trai và bộ tóc thì dát vàng.
Từ trên nóc nhà số 9, những cặp mắt sáng trưng của ba con mèo xuyên qua màn sương, dõi theo bước tiến của lão thầy bùa. Khi lão đi hết con đường, lũ mèo leo xuống đất và bắt đầu đi theo. Không lâu sau lão linh cảm thấy sự hiện diện của chúng, liền quay phắt lại, rít lên một tiếng mà hẳn sẽ làm đông máu bất cứ con mèo nào. Nhưng những con mèo lửa không phải là mèo bình thường. chúng có trái tim và khối óc của loài báo. Ngay khi lão thầy bùa trở về lộ trình của lão, chúng lại bám theo, ẩn trong bóng tối nhưng không bao giờ đánh mất dấu con mồi.
Không lâu sau đã rõ rằng lão thầy bùa đang nhắm hướng đi tới Học viện Bloor. Lũ mèo nhìn lão đi lên những bậc thang giữa hai tòa tháp, băng qua mảnh sân gạch dẫn tới lối vào. Chạy vượt qua dãy cầu thang, đi men theo hông tòa nhà, tới một bức tường đá cao vút thì lũ mèo nhảy phóc lên, nổi rõ ba dáng hình sáng rực trong màn đêm. Chúng đi dọc theo bờ tường, nhìn xuống sân chơi dày đặc sương mù ở bên dưới và ngó ra cánh rừng đằng xa xa, nơi có cổng vòm đỏ uy nghi dẫn vô khu lâu đài đổ nát.
Một chuyển động trên vòm cây mùa đông trơ trụi khiến chúng cảnh giác. Chúng đi sát lại gần nhau hơn, tựa hồ như mỗi con mèo đều biết rằng những giác quan của mình sẽ nhanh nhạy hơn lên khi ở gần các con khác. Trước tiên chúng trông thấy bà ngựa trắng, sau đó trông thấy kỵ sĩ của bà: một hiệp sĩ đội mũ giáp bạc, từng vòng sắt trên bộ áo giáp của ngài lấp lóe trong ánh sáng lù mù của mặt trăng bị sương mù che khuất. Cả ba tiếng rừ đồng loạt ngân lên trong cổ họng ba con mèo. Chúng nhảy xuống đất và chạy tới bên cạnh bà ngựa trắng.
Không ai thèm chờ ai trả lời cho tiếng gõ cửa của mình, lão thầy bùa quơ những ngón tay đeo đầy nhẫn ngọc và nhẫn vàng ra giật lấy tay nắm cửa bằng đồng. Rồi vặn mạnh một cú, lão dứt phăng ổ khóa, gây ra một trận mưa dằm gỗ trút rào rào.
Cánh cửa đôi nặng nề mở ra loảng xoảng và lão thầy bùa bước vô tiền sảnh.
Một gã đàn ông to xác mặc pyjama len kẻ ô vuông hoảng vía nằm mọp xuống nền nhà trước mặt lão thầy bùa, run bắn. “Thần đang… ra…, thưa chúa tể… bá tước Harken,” hắn láp ngáp. “Xin thứ lỗi… thần không biết…”
“Đứng lên, Weedon”. Bá tước Harken đá một cú vô be sườn của tấm thân nằm sóng xoài dưới sàn, khiến nó giãy nảy lên một cái.
Gã Weedon bủn rủn đứng lên. Hắn không làm sao bắt mình đứng cho thẳng được, cứ cúi gập thắt lưng, giống như một tư thế cúi chào luộm thuộm. “Chúng thần đã không biết,” hắn lắp bắp, “mặc dù bà Tilpin luôn dặn chúng thần phải chuẩn bị sẵn sàng”.
“Bọn chúng đâu?” Bá tước chất vấn.
“Ở chái phía Tây, thưa chúa tể, đang ngủ.”
“Không ngủ lâu được nữa,” lão thầy bùa rít. “Đưa ta tới đó”.
Gã Weedon hơi thẳng người lên một phân và đi chập chững qua cánh cửa chái phía Tây. Hắn giữ cửa cho lão thầy bùa, và lúc bá tước lướt ngang qua, tấm áo thụng vàng quất sượt vô bàn tay hắn, cào rách những khớp đốt ngón tay. Gã Weedon cố kìm nén một tiếng kêu đau đớn rồi cung cúc đi theo sau bá tước.
“Để thần đánh thức họ dậy, thưa chúa tể của thần,” gã sai vặt lầm bầm. “Xin thứ lỗi cho thần, nhưng trời đã quá nửa đêm rồi. Cần phải một lúc mới triệu tập được họ.”
“Nhấn chuông. Đánh cồng đánh chiêng lên!” Lão bá tước ra lệnh. “Chắc chắn phải có cồng.” Lão bắt đầu leo cầu thang lên lầu một.
“Dạ, thật sự là có,” gã Weedon nịnh nọt, chân nam đá chân xiêu đi theo tấm áo chùng dát vàng sắc bén.
Chiếc cồng khổng lồ bằng đồng treo trong một khung gỗ sồi bên ngoài thư phòng của ông hiệu trưởng. Một cái dùi đầu tròn bọc da để bên dưới nó. Trước nay gã Weedon chưa bao giờ phải đánh chiếc cồng này. Có lẽ tại hắn không dám. Thực ra, hắn chỉ nghe tiếng cồng duy nhất một lần, khi Manfred, trong một cơn nổi tam bành tuổi dậy thì, đã nện cái cồng thẳng cánh đến mức đầu dùi bị tét ra làm đôi. Âm thanh dội óc. Vang đi tới từng ngóc ngách của tòa nhà và phải mất mười lăm phút mới lắng đi. Cái dùi đã được sửa lại, và Manfred bị cấm đụng tới món đồ đó bất kỳ lần nào nữa.
Lão thầy bùa khoái chí xem xét chiếc cồng, tuyên bố là nó thích hợp tuyệt đối cho mục đích của lão. “Để tự ta làm”, lão bảo, xoa hai bàn tay vào nhau một cách đắc ý. Nâng cái dùi lên, lão vồng cánh tay dát vàng ra sau và dộng vô cái cồng một lực kinh khủng đến nỗi màng nhĩ bên trái của gã Weedon bị đục thủng vĩnh viễn.
Tiếng cồng rung động cả toàn nhà, lan xuống tới tận dãy phòng của bà bếp trưởng ở dưới lòng đất. Và đối với bà bếp trưởng, âm thanh đó như báo hiệu sự cáo chung của một kỷ nguyên. Bao nhiêu năm nay bà đã giữ thế cân bằng cho Học viện Bloor. Bà tự xem mình là viên đá nam châm của tòa nhà, dõi cặp mắt bảo vệ lên từng đứa trẻ được ban phép thuật, và làm bất kỳ những gì có thể để đảm bảo cho phe của bọn sử dụng thủ đoạn thâm hiểm không chế ngự được bọn kia: lũ trẻ từ chối để cho gia đình Bloor dắt mũi.
Bà bếp trưởng biết không ai giữa khuya thế này mà dám đánh cái cồng đồ sộ ấy. Linh tính mách bảo bà rằng Cái bóng xứ Badlock lại đột nhập vô thành phố. Và lần này rất khó mà trục xuất được lão. Lần này lão đã cài sẵn lực lượng theo đuôi ở trong thành phố. Thậm chí ngay cả lúc bà bếp trưởng đang ngồi sốt ruột suy tính phải làm gì, cũng có những đội quân từ quá khứ đang sống dậy.
“Sao ta vẫn còn ngồi đây?” Bà bếp trưởng lẩm bẩm một mình. Bà lôi chiếc va-li từ trong tủ âm tường ra và bắt đầu gói ghém đồ đạc.
Trên mặt đất ở cánh phía Tây, một nhóm người pha tạp đã tập hợp trong thư phòng của ông hiệu trưởng. Bọn họ hết thảy đều đứng, ngoại trừ lão thầy bùa ngồi sau bàn viết của ông hiệu trưởng, và mụ Titania Tilpin đã ngất xỉu khi trông thấy bóng dáng lão bá tước tổ tiên của mụ. Tiến sĩ Bloor mặc áo ngủ đàn ông vải tuýt mà chắc hẳn nếu ở trên sân gôn thì trông rất dị hợm. Manfred xuất hiện trong bộ pyjama lụa màu tím, trước sự bất bình ra mặt của cha hắn, và lão Ezekiel đội nón chụp đầu màu đỏ, vốn chỉ chụp ban đêm, áo jacket kẻ ô vuông và một cái áo ngủ ngắn cũn cỡn (thêm một sự mất mặt nữa đối với tiến sĩ Bloor). Titania, nằm sóng sượt bên cánh cửa, mặc kimono màu đen, trong khi Joshua, với bộ đồ xanh lá cây thường nhật của nó đang cố lay cho mẹ nó tỉnh lại, bằng cách vỗ vỗ vào má mụ ta.
“Thằng ngu,” bá tước Harken nói. “Vậy không ăn thua.”
“Weedon, lấy một ít nước,” tiến sĩ Bloor ra lệnh.
Ôm chặt lấy bên tai trái, gã Weedon loạng choạng đi ra.
“May phước là gã vẫn còn một tai nghe được,” Manfred nói, cười khục khục tự thưởng thức câu nói đùa của mình.
Không ai cười hùa theo. Đây là giờ phút trọng đại và Manfred càng mau chóng hiểu ra càng tốt. Tất cả mọi người chờ lão thầy bùa nói, trong khi lão bá tước chờ gã Weedon trở lại. Cuối cùng tên gác cổng cũng thò mặt trở vô, với một bình nước và bà vợ, choàng khăn tím trên vai cũng hàng đống lô cuốn tóc trên đầu.
“Đặt vô mặt nó,” lão thầy bùa ra lệnh, chỉ vô Titania.
“Đặt?” Gã Weedon ngơ ngác, giơ cao cái bình như định đặt nó lên mặt mụ Tilpin.
“Rót nước!” Lão thầy bùa gầm rống.
“Rót? Tuân lệnh.” Gã Weedon nghiêng cái bình để cho một dòng nước tóe xuống mặt Titania.
Mụ ngồi dậy, đớp không khí. “Ta chết đuối!” Mụ thét.
“Không phải”, bá tước nói. “Tỉnh lại coi!”
“Tâu chúa tể, phải là ngài không!” Níu chặt lấy con trai, Titania gồng mình đứng lên. “Thần biết là ngài đến mà, nhưng tấm gương bị bể, và…”
“Ta đến bằng lối khác,” bá tước Harken nói, với một cái nhếch miệng kín đáo.
“Hãy kể cho chúng tôi thế nào,” lão Ezekiel nài nỉ. “Chúng tôi mong muốn được biết.”
“Bằng thằng bé,” bá tước thờ ơ nói. “Charlie Bone. Ta biết nó sẽ trở lại xứ Badlock. Cháu gái ta rất mê nó. Con bé đã cố gắng liên lạc với thằng bé qua bức tranh, nhưng thằng này lại dùng tấm gương.”
“Tấm gương?” Titania thét lên. “Gương thần Amoret? Nhưng nó bể rồi.”
“Giờ đã hết bể. Ta cho phép thằng bé đến, ta thậm chí còn xem nó dùng bộ đồ lố bịch để cứu bạn nó, Billy, rồi ta trở về cùng bọn chúng.”
Tức khắc tiếng phàn nàn, thắc mắc lao nhao nổi lên và, giơ tay lên ra hiệu im lặng, lão thầy bùa đắc ý nói, “Ta đi bằng cách nào ư? Như một con ruồi. Và tại sao ta lại cho phép Billy trở lại thành phố của các người? Bởi vì thằng đó vô dụng đối với ta.”
“Nhưng còn bản di chúc?” Lão Ezekiel kêu the thé. “Thằng đó đứng tên thừa hưởng tất cả mọi thứ nếu bản di chúc được tìm thấy. Chúng ta đã mặc cả rồi, thưa ngài. Ngài giữ Billy, và chúng tôi sẽ giúp ngài trở lại thành phố.”
Toài người ngang sát mặt bàn, lão thầy bùa rống vào mặt lão Ezekiel, “Nhưng bọn ngươi đã chẳng giúp gì hết, đúng không?”
“Cái, cái gì?” Lão Ezekiel líu lưỡi. “Cô ta đã cố”. Lão chỉ Titania. “Và Venetia Yewbeam đã ra sức hàn gắn vết nứt trong tấm gương.”
“Thần đã gọi cái bóng của ngài trong bức chân dung Vua Đỏ.” Titania rú lạc giọng. “Nhưng tất cả đều vô ích. Thần đã mang tổ tiên của thần, Ashkelan Kapaldi, trở lại để trợ giúp, nhưng Hiệp sĩ Đỏ đã giết ngài ấy rồi.”
“Hiệp sĩ Đỏ?” Lão thầy bùa ngồi thẳng lại, những ngón tay đầy nhẫn gõ nhịp trống xuống bàn. “Hiệp sĩ Đỏ cái gì?”
“Một kẻ sát nhân, một tên phiến loạn, một con quỷ mặc giáp kín…”
Giọng bình thản của tiến sĩ Bloor cắt ngang cơn bột phát cuồng loạn của Titania. “Một hiệp sĩ cưỡi ngựa trắng thỉnh thoảng được trông thấy phi qua thành phố. Hắn xuất hiện để bảo vệ một số đứa trẻ được ban phép thuật, trong đó có Charlie Bone. Hiệp sĩ này có một chùm lông chim đỏ trên mũ giáp, khoác áo chùng đỏ và mang khiên hình mặt trời chiếu sáng.”
“Nhà vua!” Bá tước Harken bật đứng dậy, mắt trợn ngược. “Vậy là hắn đã trở lại để mang đến cho ta niềm thỏa mãn chung cuộc. Tất cả cuộc đời ta bấy lâu nay ta luôn sung sướng với ý nghĩ về cuộc chạm trán như thế này.”
“Tôi e là không đồng ý với ngài,” tiến sĩ Bloor nói, “nhưng chắc chắn đó không phải là đích thân Vua Đỏ – đây là người đã xây dựng thành phố này cách đây chín trăm năm phải không?”
“Ta đã ở đây”, lão thầy bùa nhắc nhở tiến sĩ, “Vậy thì cớ gì mà hắn không ở đây?”
Manfred nãy giờ lắng nghe cuộc đối đáp có vẻ nôn nóng càng lúc càng tăng, đột ngột phọt ra. “Vua Đỏ là một cái cây, luôn luôn là cây, chúng tôi đã nghe nói như vậy. Nếu ông ta có thể trở về là người, thì ông ta đã làm điều đó từ cách đây bao nhiêu năm rồi.”
Lão thầy bùa bắt đầu lộ vẻ hoang mang. Cuối cùng lão nói: “Nếu hắn không phải nhà vua thì hắn là kẻ nào đó mặc áo chùng của nhà vua. Dù cho hắn là ai, hắn phải bị hủy diệt trước khi ta đưa thành phố này vào quá khứ.”
“Quá khứ?” Lão Ezekiel kêu to. “Nhưng…”
“Ừ, người cứ việc giữ lấy nhà cửa, vườn tược, tài sản của ngươi.” Lão thầy bùa phẩy tay đầy khinh miệt. “Nhưng tất cả chúng sẽ bị đưa về quá khứ.”
Toàn thể gia đình Bloor trố mắt nhìn lão thầy bùa, xem ra không hiểu những gì bọn họ nghe. Thậm chí cả Titania cũng nhớn nhác.
“Các ngươi sẽ không nhận ra sự khác biệt gì đâu,” lão thầy bùa thờ ơ nói. “Thành phố sẽ ở trong thế giới của xứ Badlock, thế thôi. Nào, giờ ai đó có thể tìm cho ta một con ngựa không? Ngựa chiến thì chuộng hơn. Ta cần cả vài món giáp trụ mà ta đã thấy trưng bày ở tiền sảnh của các người. Ngày hôm sau, chúng ta sẽ có một chiến trận.”
“Chúng ta?” Lão Ezekiel ứ họng.
“Chiến trận?” Tiến sĩ Bloor choáng sốc.
Gia đình ở nhà số 9 đường Filbert đang lục tục đi ngủ thì lại có tiếng chuông cửa reng.
“Quả sẽ là một đêm dài,” ông cậu Paton thở dài. Ông đi xuống hành lang và hỏi, “Ai ngoài đó?”
“Tôi. Bà bếp trưởng!” Giọng đó đáp.
“Bà bếp trưởng?” Ông cậu Paton lại tháo then cài và mở ổ khóa ra lần nữa. Khi ông mở được cửa thì một bóng người lướt vô. Một tay bà xách chiếc va-li lớn, tay kia xách túi da.
“Ôi chao,” bà thở phì phò, đặt mạnh chiếc va-li và túi xách xuống sàn. “Ở đây tối quá, ông Yewbeam.”
“Có lý do,” ông cậu Paton nói.
“Ồ, tất nhiên.” Bà bếp trưởng nhận thấy có nến đang cháy nơi chiếu nghỉ trên lầu.
“Bà bếp trưởng!” Charlie reo mừng.
Bà bếp trưởng chớp mắt trước ba dáng người trên cầu thang, người nhỏ nhất giờ đang băm bổ chạy xuống với bà.
“Có chuyện gì thế ạ?” Charlie hỏi. Nó rất hiếm khi thấy bà bếp trưởng ở bên ngoài trường.
“Ta đã rời học viện Bloor,” bà nói. “Thế cân bằng ở đó đã mất. Con không được trở lại nơi đó, Charlie. Không ai trong các con được tới đó nữa. Tất cả kết thúc rồi.”
“Cái gì kết thúc?” Ông cậu Paton dẫn bà bếp trưởng vô bếp, ở đó ông thắp một ngọn đèn cầy khác. “Ngồi xuống đi và kể mọi sự cho chúng tôi cùng nghe.”
Charlie đi theo họ và khi cô Alice vô nhà bếp, bà bếp trưởng reo lên, “Alice Angel! Tôi rất mừng gặp cô ở đây. Ôi, quý báu quá.”
Cô Alice mỉm cười và ngồi xuống bên cạnh bà. “Kể đi, bà bếp trưởng.”
“Hắn đã trở lại,” bà bếp trưởng không sao kìm nén được cái run rẩy trong giọng nói. “Bá tước Harken. Tất cả đã kết thúc đối với chúng ta. Chúng ta phải rời đi trước khi quá trễ.”
“Đã quá trễ rồi.” Có vẻ lo âu đượm trong giọng nói của cô Alice, nhưng không phải là nỗi tuyệt vọng, và Charlie cảm thấy được trấn an khi nghe vậy.
“Sương mù rất dày,” bà bếp trưởng đồng ý. “Tôi gần như không nhìn thấy đường đi để tới đây. Đèn đường tắt ngúm cả và tôi nghe nói bọn cướp bóc hoành hành ở đường Đồi Cao. Tôi đã phải đi bằng ngõ sau.”
Ngoại Maisie, vừa pha xong một bình trà khác, gió lời: “Rồi tất cả chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta có thể làm gì?”
“Rất nhiều,” ông cậu Paton nói đĩnh đạc. “Tôi sẽ không rời bỏ thành phố này, cho dù tôi có thể. Rất đáng cho chúng ta chiến đấu, tôi tin là tất cả mọi người đều đồng ý.”
Tất cả nhất trí, nhưng một ý nghĩ bất chợt nảy trong đầu khiến Charlie thở hốc lên, “Ba và mẹ! Nếu chúng ta không thể ra khỏi thành phố thì ba mẹ con cũng không thể đi vô, mà họ đang trên đường trở về nhà”. Nó dừng lời. “Ít nhất là con nghĩ họ đang về.”
Cô Alice chạm vô tay nó. “Họ sẽ ở đây, Charlie.”
Nghe cứ như một lời hứa và mặc dù Charlie cố gạt đi sự hoài nghi khó chịu cứ dằn vặt nó, xem ra mọi việc quá sức chịu đựng khiến nó bất ngời trú cơn giận dữ. “Sao ba lại bỏ đi, khi mà chúng ta đang cần ba?”
Không ai nói gì và Charlie nhận ra ngay cả ông cậu Paton cũng lo lắng vì những mối nghi ngờ đau đớn giống với mối nghi ngờ của nó.
“Rồi chúng ta sẽ mau chóng biết ngay thôi,” ngoại Maise nói, trao cho bà bếp trưởng một tách trà. “Để tôi dọn một cái giường trong phòng khách,” bà bảo với bà bếp trưởng. “Ghế sofa rất êm, tôi chắc chắn mọi người sẽ suy nghĩ minh mẫn hơn vào buổi sáng.”
“Đúng thế,” ông cậu Paton tán thành. “Tôi đi ngủ đây. Chúc mọi người ngủ ngon.”
Charlie theo ông cậu lên lầu. Nó định vô phòng của nó thì chợt trông thấy một bóng người nhỏ xíu đang ngồi trên dãy cầu thang lầu hai.
“Charlie.” Billy thì thào. “Hắn ở đây à?”
“Lão thầy bùa?” Charlie lưỡng lự không muốn làm Billy sợ, nhưng trước sau gì thằng bé cũng cần phải biết sự thật. “Đúng vậy,” nó thừa nhận. “Nhưng bà bếp trưởng đã ở đây, và chúng ta nghĩ mọi việc sẽ đâu vào đấy cả thôi.”
“Ồ, tốt.” Billy ngáp một cái tưởng chừng sái quai hàm.”Chúc ngủ ngon, Charlie.”
Ở tiệm sách, bà Kettle được xếp vô phòng của Emma, trong khi Dagbert ngủ ở ghế sofa dưới lầu. Emma ngủ chung giường với dì của mình. Không ai ngủ yên được. Những tiếng rì rầm trên đường Piminy tạo nên bầu không khí xáo động, hỗn độn: tiếng cười khằng khặc, tiếng hát khàn khàn, tiếng kéo đàn violin hoang dại, cò cưa mãi không thôi, xem ra kẻ chơi đàn không bao giờ biết mệt là gì. Nhưng cuối cùng chính cái mùi cháy khét khiến bà Kettle chạy ra cửa sổ xem.
Từ mặt sau tiệm sách người ta có thể thấy những mảnh sân sau của đường Piminy và ngõ Nhà Thờ Lớn, có một con hẻm chạy ở giữa. Lúc này đây con hẻm vắng tanh, và nếu có ai đi ngang qua thì sẽ không khó bị phát hiện. Khói cuồn cuộn bốc lên khỏi những mái nhà ở đường Piminy, và bà Kettle bất chợt lo sốt vó cho con trăn xanh da trời. Trong lúc vội vàng đi tìm Dagbert và đưa nó tới chỗ an toàn, bà đã quên mất con trăn quý giá.
“Nó không thể ở đó, ôi cưng tội nghiệp.” Bà Kettle vội vã thay đồ. Bà định rời phòng thì cánh cửa bật mở và Emma tuôn vô.
“Cưng làm ta sợ hết hồn, cưng à,” bà Kettle nói, ôm lấy ngực.
Emma giải thích rằng cô bé để một món đồ trong tủ ngăn kéo phòng mình: tấm áo gi-lê mà cô Alice Angel đã may cho Olivia. “Nó bị khống chế rồi,” Emma bảo bà Kettle. “Có kẻ đã cho nó mặc một cái áo gi-lê rồi biến nó thành người của bọn chúng. Giờ nó đã thay đổi hoàn toàn, không thèm nói chuyện với con nữa. Rồi đây khó lòng mà nó đứng ngoài những chuyện kinh khủng.”
“Vậy nên cưng muốn tráo đổi áo chứ gì. Cái gây phiền toái sẽ phải được đổi thành cái mang bình yên cho con bé.”
“Đúng thế đấy ạ”. Emma mỉm cười. Bà Kettle lập kế hoạch quá chí lý. Oliva đang lâm nguy. Mặc dầu nó có cố đấu tranh để giữ rịt lấy tấm áo gi-lê bị bỏ bùa bên mình, thì dường như chiếc áo đang hút hết sinh lực của con nhỏ. Emma đi tới ngăn kéo và lấy tấm áo gi-lê mà cô Alice đã may ra.
“Đẹp quá”. Bà Kettle chạm vô những vòng tròn bạc. “Hèn chi, thật dễ thấy tại sao Olivia muốn mặc cái thứ bắt mắt loại này.”
“Cái này nhẹ như lông chim vậy đó.” Emma nói. “Nhưng coi bộ Olivia bị chìm lút dưới sức nặng của chiếc áo kia, như thể nó đính toàn đá”.
“Quỷ dữ luôn nặng,” bà Kettle tuyên bố, “cái thiện luôn dễ chịu khi mặc.”
Bà Kettle trông mạnh mẽ và vững chãi, khiến mọi nỗi băn khoăn e ngại trong Emma lập tức bị cuốn trôi, cô bé thấy mình mô tả việc sẽ tới nhà Olivia vào buổi sáng để tráo áo gi-lê trong khi Olivia đang thay đồ. “Đó là khoảnh khắc duy nhất trong ngày Olivia cởi nó ra.” Emma nói.
“Chúc cưng may mắn.” Bà Kettle đặt tay lên vai Emma và Emma cảm thấy sức mạnh của tất cả những thế hệ thầy pháp thợ rèn thời xưa đang truyền cho mình lòng can đảm.
“Cảm ơn, bà Kettle. Chúc bà ngủ ngon.”
“Chúc cưng ngủ ngon, cưng yêu. Giờ ta phải đi về để lấy con trăn yêu quý của ta đây.”
Trong khi Emma trở lại giường, bà Kettle lướt xuống cầu thang. Bà bước nhẹ qua phòng khách, nơi Dagbert Endless đang ú ớ ngủ mê, và đi vô nhà bếp. Cửa sau mở ra một cái sân nhỏ. Bà Kettle bước ra ngoài trời mù sương và đóng cửa lại sau lưng. Xong, bà phóng chạy qua con hẻm về hướng sân nhà mình. Trên đường bà phải đi ngang qua sân sau tiệm Tượng Đá và những gì đập vô mắt khiến bà lạnh cả người.
Trong sân đầy ắp những sinh vật to phành phành bằng đá, những con vật gớm ghiếc có ngà, mũi to bạnh, mắt giấu nhẹm dưới nùi đá nhăn nhúm và hàm răng nhọn hoắt chĩa ra khỏi hàm dưới. Trí tưởng tượng méo mó nào có thể làm hiện ra những con thú dữ khủng khiếp nhường ấy? Bà tự hỏi. Một sinh vật trong đám quay đầu qua, bà Kettle bỏ chạy. Eric Shellhorn, bà nghĩ. Chính thằng này đang làm cho đám tượng sống dậy.
Khi vô tới tiệm nhà mình, bà Kettle không dám bật đèn lên. Con trăn xanh da trời cuộn mình bên dưới một cái bàn ở nhà sau. Anh chàng rõ ràng đang cố tránh càng xa cửa sổ càng tốt. Những lưỡi lửa từ các đống lửa ngoài đường tắm đẫm tiệm trong một quầng sáng sôi sục màu cam, và bóng những hình hài nhảy đong đỏng không ngớt băng qua cửa sổ.
“Lại đây, cưng yêu!” Bà Kettle cúi xuống vỗ về con rắn từ chỗ nó đang núp. Cậu chàng cuốn lên cánh tay bà và quấn vòng quanh cổ bà. “Tốt nhất chúng ta chuồn nhanh lên,” bà thì thầm.
Khi bà bước vô con hẻm, hai bóng người hiện ra trong sân tiệm Tượng Đá: Melmott, thợ đục đá, và một tên lực lưỡng mặc áo lưới. Bà Kettle hy vọng bọn chúng không trông thấy mình, nhưng Melmott đã nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo dưới chân bà, và nhìn ra hướng của bà.
“Á! Bọn ta có gì ở đây thế này?” Gã cất giọng đùng đục, ác nghiệt.
“Ối trời,” bà Kettle thì thầm. “Solomon làm gì đi.” Bà giật đuôi con trăn, hy vọng chú chàng hiểu.
Solomon làm liền. Trong hai giây, chú ta tuột một mạch từ đầu xuống chân bà Kettle, rồi cả hai cùng biến mất.
“Chết tiệt!” Gã Melmott nguyền rủa.
“Chúng đâu rồi?” Tên áo lưới quát tháo.
Bà Kettle cố giữ bình tĩnh. Trong khi bọn đàn ông dáo dác quay đầu nhao nhác tìm kiếm, bà rón rén đi qua bọn chúng.
Một con mèo từ trên tường nhảy phịch xuống ở quãng quã của con hẻm, bọn kia liền chạy về hướng có tiếng động, miệng la hét. “Bắt được rồi! Mày đừng hòng lừa được chúng ông.”
Bà Kettle đẩy mạnh con trăn vô hình cho nó quàng trở lên cổ mình và tất cả đi tới tiệm sách. Vừa đâm bổ vô nhà bếp, bà tông ầm vô Dagbert Endless, thằng này đang vô bếp lấy nước uống. Nó định thét ầm lên thì một bàn tay vô hình ụp chặt lấy miệng nó, và một giọng quen thuộc cất lên, “Suỵt, cưng yêu! Là ta đấy mà, bà Kettle. Tích tắc nữa cưng sẽ trông thấy ta ngay.”
Dagbert ngó không gian trước mặt nó đang từ từ bị choán giữ bởi thân hình chắc khỏe của bà Kettle. Ở trên vai bà nằm một con rắn lớn màu xanh da trời có lông chim ở trên đầu.
“Đây là Solomon,” bà Kettle giới thiệu. “Chú ta đẹp chứ nhỉ?”
Dagbert gật đầu. Thằng này kinh ngạc đến nỗi á khẩu luôn.