Charlie Bone và cái bóng xứ Badlock (Tập 7)

Chương 14


Đọc truyện Charlie Bone và cái bóng xứ Badlock (Tập 7) – Chương 14

Một vụ dìm chết người
“Hãy trốn đi!” Charlie thì thào.
Con bướm trắng hóa phép đôi cánh của mình nhạt dần cho tới khi tiệp với màu u ám của đá trên tường, sau đó cô nàng bò vào túi áo chùng của Charlie.
Khi con bướm trắng đã trốn an toàn, Charlie bắt đầu đập cửa. “Hây!” Nó gào om sòm. “Chừng nào ngài đưa em ra? Em xin lỗi, được chưa? Em đã không cố ý làm hư bức chân dung”.
Nó được trả lời bằng những tiếng ngân báo hiệu giờ rưỡi của năm chiếc đồng hồ đúng. Charlie nhìn đồng hồ đeo tay của nó. Ba giờ rưỡi. Có lẽ họ sẽ thả nó ra vào giờ uống trà.
Nhưng tận lúc bốn giờ vẫn không ai đến. Hay năm giờ. Lúc năm giờ rưỡi, đói và khát, Charlie lại bắt đầu dộng cửa lần nữa. Nó phải gặp Tancred trước khi anh ấy đem trả con nhím biển bằng vàng. Ai biết Dagbert có thể làm gì một khi nó đã lại có đủ tất cả bùa linh của nó?
Lúc sáu giờ hai mươi, khản giọng vì la thét và mệt lả vì kiệt sức, Charlie xuội lơ xuống sàn và lăn khèo ra ngủ. Nó không hề hay biết có một trận chiến sắp xảy ra.
Vào mùa đông, quãng thời gian giữa lúc tan học với bữa tối được xem là giờ tự do đối với bọn học trò Học viện Bloor. Có đứa phải diễn tập, dĩ nhiên, nhưng Tancred và Dagbert, không phải là những tài năng âm nhạc hay kịch cọt, cho nên năm giờ rưỡi có vẻ là thời điểm tốt cho chúng hẹn gặp nhau.
Chỉ có Fidelio và Lysander được biết về kế hoạch của Tancred nhưng Fidelio bận tập với dàn nhạc giao hưởng của trường, còn Lysander đang chơi bóng bàn trong nhà thi đấu.
Chỉ có thể tới được phòng điêu khắc bằng cách mở cái cửa sập ở phòng vẽ và đi xuống một cầu thang xoáy trôn ốc bằng thép. Vào cuối ngày, cửa sập đó luôn đóng lại.
Emma ngạc nhiên thấy Dagbert Endless nâng cửa sập lên vào lúc năm giờ rưỡi. Cô bé trước giờ chưa hề thấy Dagbert bén mảng tới phòng vẽ. Nơi đây chứa cả một rừng giá vẽ, thành thử Dagbert không nhận ra Emma đang vẽ đằng sau một tấm toan ở góc xa. Tancred cũng không trông thấy cô bé. Emma để ý thấy anh đi xuống phòng điêu khắc chỉ sau Dagbert một phút.
Mọi việc liên quan đến Tancred đều khiến Emma lưu tâm, và khi thấy anh đi theo Dagbert xuống căn phòng có một vòi nước cũ, rỉ rả không ngừng vô một cái máng đá to bằng cả cái bồn tắm, thì cô bé lập tức cảnh giác.
Vài phúc Emma tiếp tục dặm thêm màu cho bầy chim trong bức vẽ của mình, nhưng cô bé không sao tập trung được, cô quyết định phải tìm hiểu xem có chuyện gì xảy ra trong căn phòng bên dưới. Nhưng nếu Tancred thấy mình ngó vô, coi chừng anh ấy lại bảo mình là con nhỏ rình mò, một đứa tọc mạch hoặc tệ hơn, một con gián điệp.
Có một cách khác để làm điều ấy. Emma có thể dùng tài phép của mình – một điều cô bé rất hiếm khi thực hiện. Trong khi bọn trẻ khác sử dụng tài phép của chúng hằng này, Emma thích sử dụng nó trong các trường hợp cần kíp hơn. Đây có là trường hợp khẩn cấp? Chắc chắn rồi, cô bé nghĩ, trong đầu hình dung cái vòi nước chảy và cái máng tựa như nấm mồ.
Thả cọ vẽ xuống, Emma bước khỏi giá, cởi áo chùng ra và nhắm mắt lại. Cô bé nghĩ về một con chim, rất nhỏ, như là chim hồng tước – một con chim lông đốm nâu đậu trong bóng tối ở một bậc thang sắt chạm trổ có lẽ sẽ không bao giờ bị nhận ra.
Trong khi Emma tưởng tượng mình là chim, cô bé bắt đầu teo rút lại, rút nhỏ hơn, nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa, cho tới khi thành một con chim hồng tước đủ lông cánh. Cánh tay cô bé biến thành đôi cánh đốm nâu và chân cô bé trở thành đôi cẳng đen, nhỏ như cọng tăm bên dưới lớp lông tơ phủ kín than, sau đó là đến cái đầu có cặp mắt đen sáng quắc và cái mỏ vàng sắc nhọn.
Con chim nâu nhảy qua ô cửa sập xuống cầu thang trên cùng.
Những tấm vải trắng phủ trùm những bức tượng không ra hình thù đứng trong phòng điêu khắc tựa hồ như những bóng ma. Tancred đứng dựa lưng vô một khúc gỗ đang chạm dở – hình một con quái vật sư tử đầu chim. Dagbert ngồi trên mép cái máng đá. Đằng sau nó, vòi nước cũ vẫn chảy. Cái máng xem ra đã đầy một nửa.
“Tao thích điêu khắc”, Dagbert nói. “Cái đó là của mày à?”
“Của Lysanderr”, Tancred đáp. “Quái vật sư tử đầu chim. Mày có mang con bướm không?”
“Mày có mang con nhím biển của tao?”

“Dĩ nhiên. Con bướm đâu?”
Dagbert cười. “Đây”. Nó lôi ra một hũ thủy tinh nhỏ từ trong túi áo. Dưới đáy hũ có gì trắng trắng đang nằm. Tancred không thể thấy nó là cái gì. Anh phải bước lại gần hơn.
“Đưa con nhím biển đây!” Dagbert đòi hỏi.
Tancred dòm kỹ cái hũ. Trông giống như con bướm trắng của Charlie đang nằm dưới đáy hũ. Anh đâu thể biết Dorcas Loom đã làm một bản sao tuyệt vời? Con này thậm chí còn vẽ thêm cái chóp cánh bạc sáng lấp lánh.
Tancred thò tay vô trong áo chùng và lấy ra con nhím biển. Khoảnh khắc Dagbert tóm lấy linh vật thì Tancred giằng cái hũ. Giờ cả hai thằng đã có thứ mà chúng muốn, cuộc gặp đáng ra phải kết thúc nhưng Tancred ngờ vực nhìn cái vật bất động nằm ở đáy hũ.
“Mày lừa tao!” Tancred vuột thét lên, khiến căn phòng nổi gió ào ào, cuốn những tấm vải phủ các bức tượng. “Đây không phải là con bướm trắng của Charlie!”
Những tấm vải trắng bay phần phật trong bầu không khí xoáy trào, những dụng cụ đục đẽo, chổi, chậu và bình quay tít dưới sàn, và Emma nép vô bậc thang khi cơn gió quét qua lông của cô bé.
Sức mạnh của luồng gió thúc vô giữa mặt Dagbert. Nó nhắm mắt lại. Rồi một tay đưa lên chụp nắm chặt mái tóc rong rêu của nó như muốn giật bứt khỏi đầu, nó rú hết cỡ, “Tao mạnh hơn mày, Tancred Torsson!”
Thế là cái vòi nước đang chảy gắn trên tường liền xoay tít, nước xối xả tuôn ra thành một dòng chảy xiết. Chỉ trong vòng một giây mà cái máng đá đã đầy và tràn ồ ạt xuống sàn nhà, hình thành một suối nước nổi bong bóng chảy lênh láng. Lảo đảo chống lại dòng nước, Tancred trượt chân té ập vô cái máng đá.
Emma nghe thấy tiếng đầu của Tancred đập bốp vào cạnh chiếc máng. Anh nằm bất tỉnh, mặt vập dưới dòng nước. Gió vụt tắt. Nhảy tới trước, Emma thấy Dagbert đứng phía trên Tancred, thét loạn:
“Mày đừng hòng bao giờ lấy được con nhím biển của tao lần nữa. Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ.”
Emma kìm nén tiếng kêu cứ chực bật ra khỏi cổ họng. Nếu muốn giúp Tancred, cô bé phải còn sống và phải núp kỹ.
Cầm chặt con nhím biển trong tay, Dagberrt lao lên cầu thang. Nó không kịp nhận ra con chim tí tẹo như một chiếc lá khô đậu ở góc bậc thang trên cùng.
Một tiếng ầm rung động, cửa sập đóng lại và Emma nghe thấy tiếng bước chân của Dagbert lịch thịch phía trên. Không có thời gian để thắc mắc cửa sập có khóa không. Emma bay xuống chỗ Tancred. Đậu trên đầu anh, cô bé bắt đầu mổ rối rít mái tóc vàng, nhưng Người bão tố không nhúc nhích. Mình phải lật anh ấy lên, Emma nhận ra, để mũi và miệng của anh không chìm dưới nước. Đối với một con chim tí hon thì việc đó là bất khả thi. Cô bé phải thay đổi dạng.
“Nhanh! Nhanh! Nhanh!” Emma tự thúc giục bản thân khi lông chim tan đi và thân thể cô bé phổng lớn dần. Cuối cùng, khi trở về lại là người, Emma lật Tancred lên, luồn cánh tay xuống dưới lưng anh và kéo anh dậy.
Tancred bật ra một tràng ho sặc sụa và ngồi dậy. “Ối, đầu tôi” anh rên rẩm. Em, chuyện gì xảy ra thế? Em đang làm gì ở đây?”
“Dagbert” là tất cả những gì cô bé nói, trước khi lao lên những bậc thang.
Đúng như cô bé đã lo sợ – cửa sập bị khóa. Kêu cứu là vô hiệu – sẽ không ai nghe thấy tiếng kêu. Toàn trường lúc này đang ở trong sảnh ăn tối. Emma lao xuống cầu thang và chạy tới cái máng đá. Thò tay xuống nước, khoắng tay tìm cái vòi và cố dậm nó trở vô tường, nơi nước vẫn ục ra từ một ống nước mở.
Không thể nào gắn nó lại được. Hết lần này đến lần khác cái vòi cứ bung ra. Cái máng đá tràn trề và bây giờ trong phòng đã ngập ít nhất mười lăm xăng-ti-mét. Chẳng bao lâu nữa sẽ là một mét, hai mét rồi ba mét. Đây không phải là luồng nước bình thường. Đó là dòng xoáy, do Dagbert và bộ bùa linh giờ đã hoàn chỉnh với con nhím biển của nó gây ra. Nước đang thấm qua khe cửa tràn qua căn phòng kế bên, nơi bọn năm nhất học vẽ.
Mọi căn phòng dưới tầng hầm đều không có cửa sổ. Chỉ có vài bóng đèn halogen gắn trên trần nhà và hai lỗ thông hơi nhỏ xíu dẫn khí thoát ra ngoài. Emma kéo một cái ghế tới bức tường, leo lên và giật tấm lưới chắn của một trong những lỗ thông hơi. Nó rớt tóe xuống nước một cái tõm thật lớn, và Emma nhìn vô cái ống đen ngòm, nơi không khí trong lành xoáy vô từ khoảng không phía trên cao. Mình phải ra đó, Emma nghĩ, không còn cách nào khác.
Tancred đã lại nhắm mắt vô. Emma chạy tới lay vai anh. Tancred tuột qua một bên và rơi oạch xuống nước. Lôi anh thẳng dậy, Emma thét, “Tancred, anh phải ngồi lên, anh phải ngồi. Em phải đi tìm trợ giúp, nhưng nếu anh rơi xuống nước và em không có ở đây…”

Tancred mở mắt ra, lầm bầm, “Ừ, Em. Chân… anh… ở… dưới… nước”.
“Đúng nhưng anh phải giữ cho đầu nhô lên. Anh có bước đi được không?”
“Chắc được”. Giọng anh thều thào chỉ nhỉnh hơn tiếng ếch ộp một chút.
Emma giúp anh lảo đảo lết tới chiếc ghế bên dưới lỗ thông hơi. Nước lùa tấp vô cẳng chân hai người trong dòng chảy dữ dội. Tancred rơi phịch xuống ghế và bám chặt hai bên thành ghế, nhưng rõ ràng anh khó mà ngồi thẳng lên được. Emma nhìn quanh phòng. Con sư tử đầu chim quá nặng để di chuyển, cô bé quyết định, nhưng có hai con cọp nhựa xem ra có thể tận dụng cho mục đích của cô bé.
Emma đẩy hai con cọp tới chắn hai bên Tancred. Đầu của chúng cao hơn cùi chỏ Tancred một tẹo. “Ai làm cái này vậy?” cô bé hỏi trong khi vội vã bắt đầu biến hình trở lại.
“Anh làm.” Tancred mỉm cười uể oải. “Con cọp của anh.” Tựa cánh tay vô những cái đầu cọp rộng bư, có vẽ hình trang trí, anh nhìn xuống con chim nhỏ lướt trên mặt nước lên gần tới đầu gối. “Chúng sẽ giữ cho anh an toàn, Em.”
Có thật thế không? Lỡ chúng không giữ được Tancred thì sao? Emma nghĩ khi bay qua lỗ thông hơi. Phía trên cô bé là bóng tối hoàn toàn. Không dễ, cho dù với một con chim nhỏ, để bay lên trong tình trạng gần như mù để lọt qua một ống dẫn hẹp. Thỉnh thoảng đầu cánh chim quệt vô thành ống, đẩy cô bé tuột lại sau và khiến đầu cô quay cuồng. Nhưng cuối cùng, cô cũng tới được khúc quẹo của ống dẫn và tìm thấy một chỗ có thể đứng được. Phía trước Emma là một đốm sáng li ti chỉ lối ra. Cô bé nhảy ra tới cuối ống. Giờ cô cần phải quyết định nhanh. Cả trường có lẽ đang ở trong sảnh ăn dưới lòng đất. Không ai nghe thấy tiếng Emma nếu cô gõ vô những cánh cửa bằng gỗ sồi. Còn nếu cô rung chuông thì ai sẽ mở cửa? Weedon, gã sai vặt chứ ai, một con người không có lấy mẩu thông cảm nào với những đứa trẻ được ban phép thuật.
Chỉ có một nơi duy nhất để tới – chỉ một người duy nhất đủ mạnh để yêu cầu được vô Học viện Bloor cứu Tancred. Emma bay về hướng đường Đồi Cao, một ngọn đồi ở xa với rừng thông dày đặc bao quanh.
Ngôi nhà sấm tọa lạc tại một trảng trống trong rừng, khách tới thăm nơi này rất thưa, bởi trời quanh đó luôn có bão tố. Sấm nổi đì đùng trên ngọn cây và gió bấc không ngớt chở theo mưa đá, dù là vào mùa hè.
Bọn chim nhỏ luôn bị biến thành đồ chơi vô dụng mỗi khi léng phéng lại gần ngôi nhà của gia đình Torsson. Bị quăng quật trong mây và điếc ráy bởi sấm, chúng chỉ còn cách nhắm mắt mà hy vọng mình vẫn còn ở trên không.
Nhưng hy vọng thôi không đủ cho Emma. Trên thế giới này không có con chim nào quyết đoán như cô bé. Mình sẽ tới tận nơi để gặp cha của Tancred và bác ấy sẽ cứu Tancred.
Khi Emma tới ngôi nhà bí hiểm có ba mái nhà nhọn lên thì gió tăng tốc từng cơn. Cô bé hầu như không thở nổi khi luồng gió như nắm đấm sắt siết chặt quanh mình. Thét lên một tiếng sợ hãi câm lặng, cô bé chịu thua gió và để mặc nó ném mình tới Ngôi Nhà Sấm.
Con chim nhỏ bầm dập xù lông và xoãi đôi cẳng nhỏ như cây kim. “Nhanh! Nhanh lên!” cô bé thét, và trước khi biến đổi hoàn chỉnh, cô bé đã bắt đầu đập rầm rập nắm đấm vừa mới tiêu hết lớp lông vũ vô cửa Ngôi Nhà Sấm.
Khi cánh cửa mở ra, thật khó biết ai sửng sốt hơn ai – một cô bé nửa người nửa chim trên bậc thềm hay người đàn ông cao hơn hai mét, tóc vàng nhạt có bộ râu quai nón nhiễm điện.
Trước kia hai bác cháu đã từng gặp nhau một lần và Emma biết ông Torsson là người tốt bụng bên dưới vẻ xù xì. “Cháu là Emma,” cô bé nói. “Cháu xin lỗi vì cháu vẫn chưa là cháu được.” Rồi vươn lên hết cỡ chiều cao đã trụi hết lông của mình. “A, là cháu rồi.”
“Emma Tolly?” Ông Torsson nói như sấm.
“Dạ,” Emma thét thi với tiếng sấm nổ và không dừng lại thở một hơi nào nữa, cô bé báo tin ngay. Mỗi từ cô thét ra mỗi kích thêm cơn giận của ông sấm và trước khi kịp kể xong thì bàn tay cô bị chụp lấy bởi những ngón tay dài lạnh băng.
“Chúng ta sẽ cưỡi bão.” Ông Torsson gầm vang, nhấc bổng Emma lên khỏi mặt đất.
Sau này Emma không bao giờ tìm được lời để mô tả cuộc hành trình trên không của mình. Cô bé bay nhưng không phải là bay như chim. Cơn bão nâng cô bé lên, ẵm gọn cô bé trong cánh tay ông và đẩy cô bé lướt băng băng qua bầu trời. Cơn bão có mái tóc vàng nhạt, có những luồng chớp phát ra từ râu quai nón. Bên dưới ông, bộ móng guốc của một con ngựa vô hình xé mây mài phi.

Chưa tới hai phút. Họ đáp xuống mảnh sân gạch của Học viện Bloor, và trước khi Emma kịp hoàn hồn ông Torsson đã đứng lừng lững trên những bậc thềm bằng đá bị xói mòn. Một luồng gió phụt ra từ nắm đấm băng giá của ông thổi cánh cổng mở bung, những cái chốt sắt dài lăn lông lốc xuống nền đá phiến.
“Con trai ta đâu rồi?” Ông bão gầm vang, sải bước vô tiền sảnh.
“Lối này.” Emma kêu, chạy về hướng cầu thang.
Tiếng gỗ cổ thụ rên xiết khổ sở khi ông Torsson bước đi trên cầu thang. Những thanh vịn rung rinh và lớp thảm thở dài khi bị mưa đá vun thành đống dày.
“Lối này! Lối này!” Emma gọi, chạy trên hành lang dẫn tới phòng vẽ.
Lúc này tiếng người láo nháo đã nghe được thấy trong hành lang. “Ai đó? Gì vậy?”
Rừng giá vẽ lật nhào xuống nền nhà khi ông Torsson lao phăng phăng qua phòng vẽ. Ông tiến tới cửa sập và Emma chỉ cái then cửa bị khóa. Cô bé có thể nghe thấy tiếng nước ục ục bên dưới. Giờ không biết nó đã nâng cao cỡ nào rồi?
Hầu như trong nháy mắt, ông bão giật tung cánh cửa sập và tuôn xuống cầu thang xoáy ốc. Emma theo sau, thấy mình hết hồn khi nước bây giờ đã dâng tới đôi mắt con cọp. Tancred đâu không thấy.
“Đừng chạm vô nước!” Ông Torsson ra lệnh khi ông lội xuống.
Những luồng điện nổ sáng mặt nước và căn phòng ngập lụt những nhoáng chớp trắng xanh. Ông cấm cúi xuống và một tiếng tóe nước dễ sợ, nhấc con trai lên khỏi mặt nước. Mặt Tancred xám ngoét.
“KHÔNG!” Nước mắt trào ra ràn rụa gương mặt, Emma hấp tấp lùi trở lên phòng vẽ. Những bước chân sấm rền và tiếng nước nhỏ tong tỏng từ quần áo Tancred theo cô bé đi lên những bậc thang và qua rừng giá vẽ đổ rạp.
Rắc! Rắc! Rắc! Đôi ủng ướt đầm của ông Torsson đạp thành những cái hõm chèm nhẹp xuống lớp ván lót sàn khi họ hối hả đi qua những hành lang tối đèn, cho tới khi họ ra chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh.
Giáo sư Bloor đứng dưới nhìn lên. Đằng sau ông ta là một vài giáo viên cũng vừa tụ tập. Họ nhìn chăm chăm lên ông Torsson, miệng há hốc, như con cá chết ngáp.
“Ngươi phải đền mạng!” Ông Torsson sấm rền, nâng thằng con trai ông đang bồng lên.
Một dòng nước màu xanh da trời kêu rin rít tràn xuống cầu thang bóng lộn và chảy lênh láng dưới sàn đá phiến. Lo sợ bị điện giật, đám đông hoảng hốt lùi lại. Nhưng lão Ezekiel, trong chiếc xe lăn bánh cao su của lão, lăn tới chân cầu thang xấp nước và khọt khẹt. “Tại sao bọn ta phải trả giá? Rõ ràng con trai ngươi đã gây rối, chắc đã để vòi nước chảy và trượt xuống nước”.
“LÁO!” Ông sấm rền.
Mưa đá to cỡ bằng quả cam trút rào rào xuống đám giáo viên đang chết trân. Phần lớn ù té chạy, la oe óe như con nít vô hành lang gần nhất, một số, gồm giáo sư Saltweather, giơ tay lên bảo vệ đầu và chờ xem chuyện gì xảy ra tiếp.
Họ không cần chờ lâu. Phút sau, một lằn chớp chạy dích dắc vòng quanh bức tường ốp ván. Những lưỡi lửa bắt đầu liếm những tấm biển gỗ phía trên cửa các phòng để áo khoác và rồi tất cả đèn đóm phụt tắt. Khi ông Torsson bước rầm rầm xuống cầu thang, toàn bộ tòa nhà rung chuyển. Nghe thấy rõ tiếng ầm, ầm của những bức tranh rơi bứt khỏi tường, của đồ đạc lộn tùng nhào và những cái tủ mở bung, nôn ụa các thứ chúng đựng bên trong lên bất cứ cái gì, bất cứ ai choán đường chúng.
Dưới sảnh ăn tối, bọn trẻ ôm chặt lấy đĩa của chúng trong khi dao nĩa bay tứ tung.
“Đừng để bị dao nĩa xiên qua người” Cô Marlowe, giáo viên kịch từ trong bóng tối kêu gọi đầy kịch tính. “Chỉ là sấm thôi. Bình tĩnh.”
“Giống bão táp thì đúng hơn.” Bragger Braine nói.
“Đúng là bão táp.” Rupe Small vuốt đuôi.
Co ro trên chiếu nghỉ, Emma thấy dáng người tầm thước của ông Torsson băng qua tiền sảnh. Trong ánh sáng loa lóa nguy hiểm từ những tia lửa khắp phòng, cô bé nhận ra bóng dáng của giáo sư Bloor và lão Ezekiel, trong xe lăn, đang rút lui.
Với một tiếng sấm cuối cùng choáng óc, ông Torsson bước qua cánh cổng chính và đi xuống mảnh sân gạch. Emma ước gì được đi theo ông, nhưng không dám nhúc nhích. Cô bé ở nguyên tại chỗ trong khi các giáo viên sượt qua, thắp sáng những bó đuốc và sắp xếp đồ đạc về chỗ cũ. Sau đó cô bé đi lên phòng ngủ chung và nôn nóng chờ Olivia về để kể cho nó nghe câu chuyện vỡ tim, không thể tin nổi này.

Charlie ngồi thu lu trong góc Phòng Xám. Nó đoán sấm chớp nhoang nhoáng này chắc chắn có liên quan gì đó tới Tancred. Nhưng chuyện gì xảy ra? Nó ao ước muốn biết.
Khi cơn bão qua đi, một sự im lặng sâu thẳm ập xuống hành lang bên ngoài. Cứ như thể những chiếc đồng hồ đứng và những đồ chơi máy đã nín thở cùng lúc. Một phút sau chúng bắt đầu hoạt động lại, thậm chí nhanh hơn và to hơn trước.
Charlie nhìn đồng hồ đeo tay. Chín giờ. Họ quên khuấy sự tồn tại của nó rồi chăng? Họ cố ý bỏ đói nó? Nó lạnh và đói đến nỗi không ngủ được.
Lúc chín rưỡi thì cánh cửa mở. Charlie nhổm hẳn dậy. Một luồng sáng mạnh đập vô mặt nó, khiến nó giơ tay lên che mắt.
“Tôi đi được chưa?” Charlie hỏi. “Và… và tôi có gì ăn không?”
“Ờ, ừ, Charlie Bone, mày đi đi!” Đó là giọng nói thảm sầu của gã Weedon. “Mày bị đuổi học.”
“Đuổi học?” Charlie vọt miệng.
“Tao sẽ đưa mày về nhà, về đó mà hơ cái gót chân lạnh của mày.”
“Nhưng…”
“Không nhưng nhị gì hết. Theo tao.”
Charlie không có lựa chọn nào. Nó bị điệu xuống tiền sảnh, nơi này có mùi khét nồng nặc.
“Cháu nghĩ bão làm bể hết bóng đèn,” Charlie nói.
Không có tiếng đáp.
“Để cháu đi lấy giỏ xách đã, có được không?” Charlie hỏi.
“Không giỏ xách. Không vớ vẩn.” Gã Weedon càu nhàu khi lão mở khóa cánh cổng chính.
“Then cài gãy rồi.” Charlie quan sát. “Ở đây cũng bị bão à?”
“Im mồm!”
Charlie đi theo cái dáng to phành qua sân và vô quảng trường. Đèn đường phố vẫn tỏa ra những tia sáng rực và Charlie thấy một chiếc xe màu đen đậu bên ngoài những bậc thang của trường.
“Vô đi.” Gã Weedon ra lệnh.
Charlie vâng lời. Nó hơi sờ sợ và hoang mang. Việc này chưa từng bao giờ xảy ra. Tại sao nó không bị cấm túc, hoặc bị những hình phạt khác.
Gã Weedon quăng thân vô chỗ ngồi của tài xế và khởi động máy.
“Tại sao lại có sự việc này?” Charlie hét “Chuyện gì đã xảy ra vậy? Ông nói cho tôi biết được không, ông Weedon?”
“Tao chỉ có thể nói với mày một điều, Charlie Bone.” Một nụ cười xoẹt qua gương mặt gã “Thằng bạn mày, thằng thời tiết ý, bị chết đuối hồi tối nay rồi.”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.