Đọc truyện Charlie Bone lúc nửa đêm (Tập 1) – Chương 4: phần 2
Charlie đóng cửa lại rồi vọt lên lầu. Chụp vội chiếc phong gì màu cam, nó lắc lấy lắc để và từ đó rơi ra một tấm hình nhỏ – bản gốc của tấm hình phóng to dưới nhà. Nó lật mặt sau ra, quả đúng vậy, có một cái tên và một địa chỉ được viết theo lối chữ in đậm, bay bướm:
CÔ JULIA INGLEDEW
NHÀ SỐ 3 PHỐ NHÀ THỜ
Phố Nhà Thờ ở đâu, và làm cách nào mà tới được đó? Bắt buộc nó phải rời nhà trước khi ngoại Maisie và mẹ về. Họ sẽ không đời nào đồng ý cho nó lang thang một mình, tới một nơi mà nó không biết. Và nếu nó không hành động ngay bây giờ, không chừng sẽ không kịp về dự sinh nhật Benjamin. Nhưng nó phải để lại tin nhắn, kẻo mẹ lại lo sốt vó.
Theo như Charlie nhớ thì nó chưa từng bao vô phòng ông cậu Paton. Tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY treo thường trực trên cánh cửa. Dạo này Charlie bắt đầu thắc mắc ông cậu làm cái gì suốt ngày trong đấy. Thỉnh thoảng có tiếng thịch thịch nho nhỏ vọng ra. Còn thường thì im lặng.
Hôm nay Charlie sẽ phải làm ngơ tấm biển.
Nó gõ cửa, ban đầu ngập ngừng, sau mạnh dần lên.
“Gì đó?” Giọng ông cậu Paton cáu kỉnh.
“Ông cậu Paton, cho con vô nghe?” Charlie hỏi.
“Chi vậy?” Ông cậu Paton hỏi.
“Vì con phải đến chỗ kia, và con muốn ông cậu giải thích cho mẹ con.”
Một tiếng thở dài thượt. Charlie không dám mở cửa cho đến khi tiếng ông cậu lạnh lùng:
“Vô đi, nếu mày thấy cần phải vô.”
Charlie vặn nắm đấm cửa và lách vô. Nó bật ngửa trước những gì trông thấy. Phòng ông cậu ngập ngụa những giấy là giấy. Giấy treo tòn teng trên kệ, giấy rơi lả tả trên bậu cửa sổ, giấy phủ hết mặt bàn giấy, giấy quấn dập dềnh như thủy triều quanh mắt cá chân ông. Cái giường kê ở đâu nhỉ? Có lẽ là dưới một đống mền bằng sách, Charlie đoán vậy. Sách xếp đầy hết những bức tường, nghễu nghện từ sàn tới trần nhà, thậm chí sách còn leo lên quanh bàn thành từng chồng cao xiêu vẹo.
“Sao?” Ông cậu Paton hỏi, ngước mắt lên từ sau một ụ giấy.
“Ông cậu làm ơn cho con biết phố Nhà Thờ ở đâu được không?” Charlie hồi hộp hỏi.
“Chứ mày nghĩ nó ở đâu? Dĩ nhiên là cạnh nhà thờ rồi.”
Vào ban ngày, ông cậu Paton là một người khác hẳn – lạnh nhạt và đầy hăm dọa.
“Ô,” Charlie kêu lên, thấy mình đúng là thằng khùng. “Vâng, con sẽ tới đó ngay bây giờ. Nhưng ông cậu nói với mẹ con được không? Mẹ con sẽ muốn biết con đi đâu, và…”
“Ừ, ư,” ông cậu Paton lầm bầm, kèm theo cái phất tay nhẹ hều, ra hiệu cho Charlie biết đi.
“Cảm ơn ông cậu,” Charlie líu ríu, ráng đóng cửa lại khẽ khàng hết sức.
Nó trở về phòng riêng, hối hả khoác lên cái áo gió, nhét vội tấm hình vô chiếc phong bì màu cam, bỏ vô túi. Rồi nó ra khỏi nhà.
Từ cửa sổ phòng mình, Benjamin thấy Charlie đi ngang qua, vẻ kiên quyết.
Nó mở cửa sổ ra và hỏi với theo:
“Bồ đi đâu đấy?”
Charlie ngóng lên.
“Tới phố Nhà Thờ.”
“Mình với con Hạt Đậu đi theo được không?” Benjamin hỏi.
“Không,” Charlie gạt phắt. “Mình đi mua quà cho bồ. Bồ sẽ phải ngạc nhiên cho coi.”
Benjamin đóng cửa sổ lại. Nó tự hỏi liệu Charlie sẽ kiếm được thứ quà quỷ quái gì trong nhà thờ? một cây viết khắc tên nhà thờ ấy à? Nhưng nó có khối viết rồi.
“Hừ, tao chả quan tâm,” Benjamin thì thầm với con Hạt Đậu. “Miễn là nó đến dự sinh nhật tao.”
Con Hạt Đậu quật đuôi đùm đụp xuống cái gối của Benjamin. Nó đang nằm ở nơi mà nó không được phép nằm: trên giường. May là không ai ngoài Benjamin biết chuyện này.
Nhà Thờ nằm trong khu phố cổ. những con phố rải sỏi hẹp ti tí. những cửa hàng còn bé hơn; và trong những ô kính được thắp sáng dìu dịu, quần áo cùng đồ trang sức đắt tiền được trưng trên những súc lụa và nhung. Trông dãy phố như thể là nhà riêng của ai đó giàu có, đến nỗi Charlie có cảm tưởng rắng mình đang xâm phạm bất hợp pháp chốn này.
Khi ngôi nhà thờ cổ kính lù lù hiện ra phía trên đầu, thì cũng là lúc những cửa hàng nhường chỗ cho một dãy nhà cũ kĩ. Thế nhưng, nhà số 3 phố Nhà Thờ lại là một hiệu sách. Trên cửa gắn một tấm biển đề: TIỆM SÁCH INGLEDEW – theo kiểu chữ cổ. Sách nằm trong những ô kính bày hàng trông xưa cũ và bụi bặm. Có vài cuốn được bọc da, với gáy sách mạ vàng.
Charlie hít một hơi thật sâu rồi bước vô. Một tiếng chuông khẽ ngân lên ngay lúc nó đặt chân vô tiệm, và một phụ nữ xuất hiện nơi tấm rèm quầy thu ngân. Cô ấy không già như Charlie nghĩ, nhưng chừng cỡ tuổi mẹ nó. Mái tóc dày màu hạt dẻ chải dựng trên đầu và đôi mắt màu nâu nâu.
“Chào cháu, cháo cần gì nào?” người phụ nữ hỏi.
“Có ạ. Cô là Julia phải không ạ?”
“Phải.” người phụ nữ gật đầu.
“Cháu đến về chuyện tấm hình của cô,” Charlie nói.
Người phụ nữ vội đưa tay lên bụm miệng.
“Trời!” Cô nói. “Cháu tìm thấy nó?”
“Vâng ạ,” Charlie nói, đoạn đưa ra chiếc phong bì màu cam.
Người phụ nữ mở phong bì và hai tấm hình rơi xuống mặt bàn.
“Ôi, cám ơn,” cô kêu lên. “Cô không biết nói với cháu làm sao, nhưng có lại được mấy tấm hình này cô mừng quá.”
“Vậy cô có cầm tấm hình của cháu không?”
Charlie hỏi. “Tên cháu là Charlie Bone.”
“Vô đây,” cô Ingledew nói, ngoắc cho nó theo cô đi qua tấm rèm.
Charlie cẩn thận bước vòng qua quầy thu ngân, chui khỏi tấm rèm che bức tường sách. Nó thấy mình lọt vô một căn phòng chả giống hiệu sách tí nào. Cũng lại sách, nhưng được cột chặt trên kệ hoặc xếp thành đống ngổn ngang. Đó là một căn phòng ấm cúng, đại loại vậy; đậm đặc hương của những từ hoa mĩ và những ý tưởng thâm sâu. Một ngọn lửa cháy lép bép trong cái lò sưởi nhỏ xíu, và những chiếc đèn bàn hắt ánh sáng qua những cái chụp đèn màu da thuộc.
“Đây rồi,” cô Julia Ingledew ồ lên và cô lôi ra từ ngăn kéo một chiếc phong bì màu cam.
Charlie cầm lấy cái phong bì và hấp tấp mở ra. “Vâng, đúng là con Hạt Đậu,” nó nói. “Con chó của bạn cháu. Cháu tính làm một tấm thiệp sinh nhật từ hình này.”
“Ý hay đó,” cô Ingledew trầm trồ. “Riêng tư hơn. Cô luôn thích những gì riêng tư. Nó chứng tỏ mình biết quan tâm, đúng không?”
“Dạ,” Charlie nói mà không chắc lắm.
“Thế đấy… Cô rất biết ơn cháu, Charlie Bone,” cô nói. “Cô thấy cháu xứng đáng được thưởng một thứ gì đó. Cô không có nhiều tiền, nhưng cô nghĩ…”
“Không có gì mà cô,” Charlie xua đi, hơi lúng túng, mặc dù nó có thể dùng món tiền nhỏ đó để mua quà cho Ben.
“Không, không, thật mà. Cô nghĩ cháu đúng là người cần phải nhận món quà đó. Cô cảm thấy hình như chúng đang chờ đợi cháu.”
Cô chỉ tay về góc phòng, và Charlie thấy ngay rằng ấn tượng đầu tiên của mình về căn phòng này đã sai bét. Căn phòng không phải chứa toàn là sách. một chiếc bàn trong góc chất đống các loại hộp: hộp gỗ, hộp kim loại, và cả những thùng các-tông to bự.
“Có gì trong những cái thùng và hộp đó vậy cô?” Charlie hỏi.
“Của em rể cô đấy,” cô Ingledew trả lời. “Đó là tất cả những gì chú ấy để lại. Chú ấy mới mất tuần rồi.”
Charlie cảm thấy một cục nghẹn chạy tọt lên cổ họng. Nó lúng búng, “Ưm…”
“Ô không, đó không phải là hộp đựng cốt của chú ấy đâu, Charlie. “Cô Ingledew vội nói. “Mà là… cô phải gọi chúng là gì nhỉ… phát minh của chú ấy. Mới được gởi đến hôm qua. Chú ấy đã gởi bưu điện một ngày trước khi chết. Có Chúa mới biết tại sao chú ấy lại để những thứ ấy lại cho cô.”
Cô cầm lấy một cái hộp, mở nắp lấy ra một con chó bằng kim loại, trông như chó máy.
“Cô chẳng dùng làm gì cả,” cô bảo. “Cháu có muốn lấy không?”
Charlie nghĩ đến con Hạt Đậu, rồi đến Benjamin.
“Nó có làm được gì không ạ?” Charlie hỏi. những món phát minh thường vẫn hay làm được cái gì đó.
“Dĩ nhiên rồi. Để cô coi nào.”
Cô giật đuôi con chó. Nó sủa lên hai tiếng, và một giọng nói cất lên:
“Tôi là số 2. Quý vị vừa giật đuôi tôi, như vậy quý vị biết cách kích hoạt tôi. Để tua tới: ấn tai trái tôi. Để tua lui: ấn tai phải tôi. Để thu băng: ấn mũi tôi. Để dừng lại: nhấc chân phải tôi. Để thay băng: mở bụng tôi.”
Giọng chỉ dẫn này Charlie nghe quen quen.
“Có dùng được gì không?” Cô Ingledew hỏi. “Hay cháu thích món khác?”
“Tuyệt lắm,” Charlie nói. “Tuyệt. Nhưng giọng nói… Em rể cô… Có phải…?”
“Đúng. Em rể cô, tiến sĩ Tolly. Thiết bị này là một trong những phát minh đầu tiên của chú ấy, nhưng chú ấy chẳng bao giờ bận tâm tới việc đem bán nó cả. Lần nào phát minh ra cái gì mới cũng vậy. Chú ấy lười lắm, Charlie à. Thông minh, nhưng lười chảy thây.”
“Cái ông trong hình chính là chú ấy, phải không?” Charlie không để lộ là nó nhận ra giọng nói, làm sao nó có thể để lộ được!
“Phải, đó là tiến sĩ Tolly. Có lần chú ấy chế ra một thứ kinh khủng.”
Miệng cô Ingledew mím chặt lại như sợi chỉ.
“Vậy tại sao cô muốn tấm hình của chú ấy?” Charlie hỏi.
Người bán sách quắc mắt thoắt một cái, như thể muốn nhảy xồ vô vồ lấy nó. “Đứa bé mới là thứ cô muốn. Tấm hình là tất cả để cô nhớ được về nó.”
Rồi đột nhiên cô Ingledew kể cho Charlie nghe về cái ngày thê lương khi em gái của cô, Nacy, qua đời; ngay trước ngày sinh nhật thứ hai của con gái, và một vài ngày sau, chồng của Nacy, tiến sĩ Tolly, đã đem đứa con gái đi cho như thế nào.
“Cháu không nghĩ là người ta lại có thể đem con đi cho,” Charlie buột miệng, dựng tóc gáy.
“Ừ,” cô Ingledew nhất trí. “Cô bị ép phải giữ bí mật. Lẽ ra cô phải nhận con bé, cháu biết đấy. Nhưng cô đã ích kỉ và vô trách nhiệm. Lúc đó cô nghĩ là mình không nuôi nổi. Kể từ đó, không một ngày nào trôi qua mà cô không hối hận về quyết định của mình. Cô cố tìm kiếm xem nó được đem cho ai, nhưng tiến sĩ Tolly không bao giờ hé răng với cô. Con bé đã biết dạng trong cái hệ thống lọc lừa, giả dối và mánh khóe. Giờ nó mười tuổi rồi và cô sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để chuộc được nó về.”
Charlie nhấp nha nhấp nhổm. Nó lại rơi vô một tình huống chẳng thích thú gì. Phải chi nó đừng nghe thấy những giọng nói trong tấm hình. Làm sao nó có thể nói với cô Ingledew rằng ba con mèo nghĩ đứa trẻ mất tích đang ở trong Học viện Bloor. Cô ấy sẽ không đời nào tin nó.
Trong một góc tối tăm, chiếc đồng hồ đứng to cộ đánh mười hai tiếng, Charlie nói:
“Cháu phải về nhà không mẹ cháu lo.”
“Phải đấy. Nhưng cầm con chó này, Charlie, và…”
Cô Ingledew thình lình phóng tới chỗ cái bàn, moi từ cuối chồng hộp với thùng lên một cái thùng dài màu bạc.
“Lấy cả cái này nhé?”
Không đợi trả lời, cô cứ ấn lọt vô một cái bao in dòng chữ TIỆM SÁCH INGLEDEW. Đưa cái bao cho Charlie, “Cháu bỏ con chó vô luôn đi, có đủ chỗ mà.”
Cái bao nặng không thể tưởng tượng nổi. Charlie thận trọng đặt cái hộp đựng con chó lên trên cái thùng kim loại. Xong, nó lảo đảo đi ra cửa, tự hỏi làm thế quái nào nó có thể tha nổi cái bao này về tới nhà.
Cô Julia Ingledew giúp nó leo ngược trở lại mấy bậc cầu thang, mở cửa ra, lại một tiếng chuông thánh thót cất lên.
“Cháu hi vọng cô không bực nếu cháu hỏi,” Charlie rụt rè,” nhưng có gì trong thùng này thế ạ?”
Câu trả lời khá bất ngờ:
“Cô không biết,” cô Ingledew đáp. “Và cô cũng không muốn biết. Tiến sĩ Tolly đã đổi đứa bé lấy cái thùng này. Dù cái thùng này là gì đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào đáng giá bằng con bé, đúng không?”
“Đúng… đúng ạ,” Charlie nói. Nó đặt cái bao xuống đất.
“Làm ơn mang đi đi, Charlie. Có lẽ cháu là người thích hợp để giữ nó. Cô cần phải tống khứ nó ra khỏi nhà, cháu biết đấy.” Cô hạ thấp giọng và đảo mắt một vòng khắp phố. “Và cô có thể yêu cầu cháu giữ bí mật được không?”
“Hơi khó,” Charlie nói, càng lưỡng lự hơn khi nghĩ đến chuyện phải nhận cái thùng. “Cháu không thể kể với bạn thân nhất của cháu à?”
“Không được nói với người mà cháu không tin bằng cả mạng sống mình,” cô Ingledew đáp.