Đọc truyện Câu lạc bộ Dumas – Chương 6- Phần 1
III. NGƯỜI LÀM VÀ NGƯỜI NÓI
“Người chết không biết nói.”
“Họ sẽ nói nếu thượng đế muốn,” Lagardère sửa lại.
P. Féval, THẰNG GÙ.
Người nữ thư ký gõ gót giày lộp cộp trên sàn gỗ bóng lộn. Corso theo cô ta đi qua một hành lang dài – những bức tường màu kem nhạt, những ngọn đèn ẩn kín, tiếng nhạc tan trong không gian – tới một khung cửa gỗ sồi nặng nề. Rồi ngoan ngoãn chờ ở đó. Đoạn, khi cô thư ký nở nụ cười chuyên nghiệp bước qua một bên, gã tiến vào văn phòng. Varo Borja ngồi trên ghế tựa bọc da đen nằm giữa cái bàn ăn bằng gỗ gụ chừng nửa tấn và cái ô cửa sổ với tầm nhìn hoành tráng tuyệt đẹp bao trùm cả Toledo: những mái nhà cổ xưa màu hoàng thổ, những tháp nhà thờ kiểu gô tích in bóng trên nền trời xanh trong, phía xa xa là quần thể kiến trúc cung điện Alcazar đồ sộ xám mờ.
“Ngồi đi, Corso. Khỏe chứ?”
“Ừ.”
“Anh chờ cũng lâu đấy.”
Câu này chỉ nhắc tới sự thật mà không có ý xin lỗi, Corso chau mày. “Không sao. Lần này chỉ có bốn mươi lăm phút thôi.”
Varo Borja thậm chí không buồn mỉm cười khi Corso ngồi xuống ghế bành dành cho khách. Trên bàn gần như trống không trừ cái máy điện thoại và hệ thống liên lạc nội bộ hiện đại, tinh vi. Khuôn mặt lão buôn sách phản chiếu trên mặt bàn cùng với nền phong cảnh ngoài cửa sổ. Varo Borja chừng năm mươi tuổi, đầu hói, làn da nâu sạm do tắm nắng, nom khả kính, điều khác xa thực tế. Cặp mắt nhỏ với cái nhìn sắc nhọn. Lồng ngực quá cỡ ẩn dưới cái áo gi lê bó khít đầy rẫy hoa văn và bộ veston hàng thửa. Lão là một kiểu gì đó giống như hầu tước, và quá khứ đầy sóng gió của lão được lưu trong hồ sơ cảnh sát, một vụ lừa đảo đầy tai tiếng, và bốn năm tự buộc mình sống vong đày ở Braxin và Paraguay.
“Có cái này cho anh đây.”
Lão có cung cách cộc cằn, gần như hỗn xược, được lão trau dồi rất kỹ. Corso nhìn lão bước tới một tủ kính nhỏ, mở khóa bằng một cái chìa bé xíu nằm trên một sợi xích vàng móc trong túi ra. Lão không có tài sản công khai, ngoài một gian hàng riêng ở những hội chợ quốc tế quan trọng, và catalô của lão không bao giờ có quá vài chục đề mục. Theo dấu mỗi cuốn sách hiếm để lần đến bất cứ xó xỉnh nào trên đời, lão tranh đấu kịch liệt và không từ thủ đoạn nào để giành được nó, sau đó đem bán, kiếm bộn tiền nhờ thói đỏng đảnh của thị trường. Mỗi lần như vậy trong danh sách chi tiền của lão đều có đủ bộ: nhà sưu tập, giám tuyển, thợ khắc chữ, thợ in, và người cung cấp, như Lucas Corso.
“Anh nghĩ sao?”
Corso cầm quyển sách cẩn thận như bế một đứa bé mới đẻ. Đó là một tập sách cũ bìa bọc da nâu, có những nét trang trí bằng vàng được bảo tồn tuyệt hảo.
“La Hypnerotomachia di Polifilo[1] của Colonna,” gã nói. “Rốt cuộc ông cũng giành được nó.”
[1] La Hypnerotomachia di Polifilo: tiểu thuyết của Francesco Colonna (1433-1527), xuất bản lần đầu ở Venice năm 1499, nổi tiếng với những trang minh họa khắc gỗ điển hình vào giai đoạn đầu Phục hưng.
“Cách đây ba hôm. Venice, 1545. In casa di figlivolindi Aldo. Trong nhà của Aldo. Một trăm bảy mươi tranh khắc gỗ. Anh nghĩ cái gã Thụy Sĩ mà anh nhắc tới ấy còn quan tâm chứ?”
“Có lẽ. Cuốn sách hoàn hảo chứ?”
Tất nhiên. Trừ bốn bức họa được in lại theo bản năm 1499.”
“Thực ra khách hàng của tôi muốn bản in lần đầu, nhưng tôi sẽ thuyết phục ông ta bản in lần thứ hai là đủ rồi. Năm năm trước, trong cuộc đấu giá ở Monaco, ông ta để tuột tay một cuốn.”
“Vậy thì lần này anh được quyền lựa chọn.”
“Cho tôi vài tuần để tiếp cận ông ta.”
“Tôi thích bán đứt luôn,” Borja cười như một con cá mập đang bám sát sau lưng người bơi biển. “Tất nhiên anh vẫn có phần như thường lệ.”
“Đừng hòng. Gã Thụy Sĩ là khách của tôi.”
Borja cười mỉa. “Anh chẳng tin ai, đúng không? Anh như một đứa bé đòi nếm thử trước khi bú sữa mẹ nó.”
“Còn ông sẽ bán cả sữa mẹ mình chứ?”
Borja nhìn xoáy vào mắt Corso lúc này không giống chú thỏ dễ thương chút nào nữa mà giống con sói nhe hàm răng nhọn.
“Biết tôi thích gì ở anh không Corso? Cái cách anh nhẹ nhàng vào vai lính đánh thuê cho lũ chính trị gia mị dân và những kẻ lừa bịp ấy. Anh giống như những kẻ khố rách áo ôm mà Julius Caesar sợ một phép… Đêm anh ngủ có ngon không?”
“Say như chết.”
“Bảo đảm là không. Tôi lấy vài bản thảo gô tích cổ đánh cược rằng anh là loại người đêm nào cũng nhìn chăm chăm vào bóng tối… Nói với anh mấy điều được chứ? Tôi không tin vào mấy gã lẻo khoẻo luôn sẵn sàng tuân lệnh đầy nhiệt huyết. Tôi chỉ dùng những lính đánh thuê được trả lương cao, không gốc gác, thẳng thừng một là một hai là hai. Tôi nghi ngờ bất cứ kẻ nào dính dáng tới tổ ấm, gia đình, sự nghiệp gì gì đấy.”
Lão cất cuốn Polifilo vào tủ rồi cười khô khốc. “Đôi lúc tôi chẳng rõ người như anh có bạn hay không? Anh có bạn bè nào không, Corso?”
“Quỷ bắt ông đi,” Corso lạnh lùng đáp. Borja chậm rãi mỉm cười, không có vẻ gì là bị xúc phạm.
“Anh có lý. Tình bạn của anh chẳng liên quan quái gì đến tôi. Tôi chỉ trả tiền cho lòng trung thành của anh thôi. Thế là vững chắc lâu bền hơn, phải không? Lòng tự trọng nghề nghiệp khiến người làm thuê đáp ứng hợp đồng ngay cả khi nhà vua – chủ thuê y – chuồn mất, cuộc chiến đã thất bại và không còn hy vọng cứu vãn…”
Giọng lưỡi cợt nhả và khiêu khích, lão chờ Corso phản pháo. Nhưng Corso chỉ phác một cử chỉ sốt ruột, đập đập lên mặt đồng hồ. “Ông có thể gõ lại đoạn cuối vào mail gửi cho tôi,” gã nói. “Tôi không được trả tiền để cười với cái kiểu pha trò vô vị của ông.”
Borja tỏ vẻ nghĩ ngợi. Rồi gật đầu đáp lại, mặc dù vẫn còn giễu cợt. “Một lần nữa anh lại có lý, Corso. Nào, trở lại công việc thôi…” Lão nhìn quanh. “Anh còn nhớ cuốn Kiếm thuật luận cương của Astarloa không?”
“Nhớ. Cực hiếm, năm 1870. Mấy tháng trước tôi mang cho ông một cuốn.”
“Bây giờ chính khách hàng đó lại yêu cầu cuốn Académie de l’épée – Học viện kiếm thuật. Có thể anh biết?”
“Ông định nói cuốn sách hay khách hàng? Cách nói của ông quá rối rắm, đôi khi ông sáng sủa như bùn đen ấy.”
Borja phóng ra một tia mắt căm hận. “Hai ta đều không sáng sủa, Corso. Tôi muốn nói về cuốn sách.”
“Nhà xuất bản Elzevir, thế kỷ mười bảy. Khổ lớn, tranh khắc. Được coi như cuốn chuyên luận đẹp nhất về kiếm thuật. Và giá trị nhất.”
“Người mua sẵn sàng trả bất cứ giá nào.”
“Vậy tôi sẽ đi kiếm nó.”
Borja lại ngồi xuống chiếc ghế trông ra thành phố cổ tráng lệ. Hai chân bắt chéo, vẻ tự mãn, hai ngón tay cái xọc vào túi áo gi lê. Rõ ràng chuyện làm ăn của lão đang trôi chảy. Rất ít người trong số những đồng nghiệp cao cấp người Âu của Borja có nổi cái view như vậy. Nhưng Corso chẳng để ý. Những kẻ như Borja phụ thuộc vào những người như gã, cả hai đều biết thế.
Gã chỉnh lại cặp kính cong rồi nhìn chằm chặp lão già buôn sách. “Vậy phải làm sao với Polifilo?”
Borja cân nhắc giữa phản đối và chấp nhận. Ánh mắt lướt qua tủ sách rồi dừng lại ở Corso.
“Được rồi,” lão đáp giọng thiếu nhiệt tình, “anh thu xếp với tay Thụy Sĩ đi.”
Corso gật đầu, không tỏ ra chút thỏa mãn nào với thắng lợi nho nhỏ này. Thực ra tay Thụy Sĩ đâu có tồn tại, nhưng đó là việc của gã. Chẳng khó gì chuyện tìm người mua cho cuốn sách như vậy.
“Giờ thì đến Chín cánh cửa,” gã nói. Gương mặt lão bán sách lập tức sống động hẳn lên.
“Tốt. Anh nhận vụ này chứ?”
Corso đang mải cắn một cái xước măng rô trên ngón tay cái. Gã nhẹ nhàng phun nó lên mặt bàn không chút tì vết.
“Cứ tạm coi cuốn sách của ông là giả. Và một trong số còn lại là thật. Hoặc chẳng có cuốn nào là thật hết. Cả ba cuốn đều là hàng giả.”
Borja bực bội cúi xuống tìm điểm hạ cánh của cái xước măng rô bé xíu. Sau cùng lão nhặt được nó lên. “Trong trường hợp ấy,” lão đáp, “anh sẽ phải ghi nhớ và làm theo những chỉ dẫn của tôi.”
“Chỉ dẫn nào?”
“Đến lúc đó hẵng hay.”
“Không. Tôi nghĩ ông phải cho tôi biết những chỉ dẫn ngay bây giờ.” Gã nhìn lão buôn sách do dự trong một giây. Bản năng thợ săn từ trong thâm tâm khiến gã cảm nhận có gì đó không ổn. Gì đấy giống như âm thanh chối tai rất mơ hồ phát ra từ một cái máy quay đĩa hỏng.
“Chúng ta sẽ quyết khi mọi vật tiến triển,” Borja nói.
“Quyết cái gì?” Corso bắt đầu tức tối. “Một cuốn trong bộ sưu tập tư nhân, cuốn kia thuộc quỹ tài trợ xã hội. Chẳng bao giờ người ta bán đi cả. Sự thật là thế. Vai trò của tôi là tham vọng của ông trong vụ này kết thúc ở đấy. Và như tôi nói, dù chúng là thật hay giả, một khi tôi xong việc ông phải trả tiền, có thế thôi.
“Quá đơn giản,” nở nụ cười nửa miệng, lão buôn sách đáp lại.
“Cái đó còn tùy.”
“Chính thế tôi mới phải nghĩ… Còn gì đấy ông chưa chịu nói ra, đúng không?”
Borja khẽ nhấc bàn tay lên, ngắm nghía hình chiếu của nó trên mặt bàn bóng lộn. Rồi lão chậm rãi hạ nó xuống cho đến khi bàn tay và cái bóng chập vào nhau. Corso nhìn bàn tay to lông lá mang cái nhẫn vàng to xù có khắc chữ ký trên ngón út. Gã quá quen thuộc bàn tay này. Gã từng thấy nó ký những tấm séc mà tài khoản không hề tồn tại, huơ lên để tăng tính hiệu quả cho những điều dối trá, bắt tay những người đang bị phản bội. Corso vẫn nghe thấy thanh âm chối tai cảnh cáo gã. Bỗng dưng gã thấy mệt mỏi vô chừng. Chắc mình không muốn công việc đó nữa.
“E là tôi không thích việc này,” gã nói to.
Borja hẳn đã nhận ra Corso muốn gì, bởi thái độ lão thay đổi. Lão ngồi bất động, hai tay chống cằm, ánh mặt trời ngoài cửa sổ rọi vào lấp loáng trên cái đầu trọc với màu da nâu thật đẹp. Lão có vẻ đang cân đo đong đếm thứ này thứ nọ khi mắt nhìn chằm chặp vào Corso.
“Đã khi nào tôi cho anh biết vì sao tôi thành người buôn sách chưa?”
“Chưa. Mà thực ra tôi cũng đếch để ý làm gì.”
Borja bật cười rất kịch để tỏ ra là lão sẵn sàng khoan thứ cho thói bất nhã của Corso. Riêng lúc này gã được phép tự do xả cho hết nỗi niềm trong lòng.
“Tôi trả tiền để anh nghe bất cứ điều gì tôi muốn nói với anh.”
“Lần này ông chưa trả.”
Borja moi quyển séc từ trong ngăn kéo ra đặt lên bàn trong lúc Corso nhìn quanh. Bây giờ là lúc nói lời tạm biệt hoặc là ở lại chờ xem. Cũng là lúc cần được uống thứ gì đó, nhưng Borja không phải là loại chủ nhà như vậy. Corso nhún vai, cảm thấy chai gin trong túi ngọ nguậy. Thực lố bịch. Gã biết rõ mình sẽ không bỏ đi, dù lời đề nghị lão sắp đưa ra có khiến gã động lòng hay không. Borja cũng biết thế. Borja viết một con số, ký tên rồi xé tấm séc đẩy về phía Corso.
Corso chỉ liếc qua mà không đụng tới tấm séc, thở dài. “Tôi nghe đây, ông đã thuyết phục được tôi.”
Lão buôn sách không hề tỏ ra đắc thắng. Chỉ khẽ lạnh lùng gật đầu đầy tự tin, như thể vừa tiến hành một giao dịch tầm thường.
“Tôi vào nghề này thật tình cờ,” lão bắt đầu. “Một ngày nọ tôi chợt thấy mình chẳng còn xu nào, ngoài chuyện là người thừa kế duy nhất thư viện của một ông trẻ bên nội… Khoảng hai ngàn cuốn sách, trong đó chỉ chừng trăm cuốn là có ít nhiều giá trị. Nhưng trong đó có cuốn Don Quijote xuất bản lần đầu, đôi cuốn Psalter từ thế kỷ mười tám, và một trong số bốn tập Champfleuri hiếm hoi của Geoffroy Tory… Anh nghĩ sao?”
“Ông gặp may đấy.”
“Chứ còn gì nữa,” Borja tán thành, giọng đều đều, tự tin. Lão không có vẻ đắc ý lắm như kẻ thành đạt khi nhắc đến bản thân mình. “Hồi đó tôi không biết nhà sưu tập sách quý là thế nào, nhưng tôi hiểu được điểm mấu chốt: Người ta sẵn lòng trả cả núi tiền cho đồ xịn… Tôi học được nhiều điều trước đây chưa biết, ví dụ như những ghi chú cuối sách, kỹ thuật chạm nổi, trang trí hoa mỹ trên bìa sách… Tôi cũng phát hiện một đạo lý: Có những cuốn sách để bán và những cuốn sách phải giữ lại. Trở thành một nhà sưu tập sách giống như gia nhập một đạo giáo: nó là chuyện cả đời.”
“Hết sức cảm động. Giờ thì hãy cho biết tôi và cuốn Chín cánh cửa phải làm gì để phục vụ tín ngưỡng của ông.”
“Anh muốn tôi làm gì nếu anh phát hiện bản thảo của tôi là giả. Nói thật nhé: đó là đồ giả.”
“Sao ông biết?”
“Tôi tuyệt đối chắc chắn.”
Corso nhăn nhó trình bày về cái gọi là chắc chắn tuyệt đối trong lĩnh vực sách hiếm. “Nó được liệt vào danh sách đồ thật cả trong Thư mục tổng hợp của Mateu lẫn trong catalô của Terral-Coy.”
“Phải,” Borja nói. “Mặc dù sách của Mateu có một sai sót nhỏ: nó công bố là có tám bức minh họa, trong khi có chín bức… Nhưng những xác nhận công khai chẳng có mấy ý nghĩa. Theo thư mục, bản in của Fargas và Ungern cũng là đồ thật.”
“Có khi cả ba cuốn đều thật.”
Borja lắc đầu. “Không thể. Biên bản xử án Torchia cho biết chắc chắn chỉ có một quyển sách được cất giấu.” Lão cười bí ẩn.
“Tôi có bằng chứng khác.”
“Là gì?”
“Không liên quan đến anh.”
“Vậy ông cần tôi làm cái gì?”
Borja đẩy ghế ra sau và đứng dậy.
“Theo tôi.”
“Tôi nói rồi,” Corso lắc đầu. “Tôi không ham chuyện này tí nào.”
“Anh nói dối. Anh cực kỳ tò mò. Anh sẽ nhận việc này dù không được trả thù lao.”
Lão nhét tấm séc vào túi áo vest rồi dẫn Corso theo cầu thang xoáy ốc lên tầng trên. Văn phòng của Borja nằm ở phần phía sau nhà lão. Đó là một ngôi nhà nhiều tầng kiểu Trung cổ nằm ở khu phố cũ của thành phố, lão đã phải trả rất nhiều tiền để sở hữu nó. Hai người theo một hành lang đi qua đại sảnh và cửa chính, rồi tới một cánh cửa lắp khóa số kiểu mới. Bên trong là một phòng rộng thênh thang sàn lát đá cẩm thạch đen, đèn chùm treo trần, cửa sổ với chấn song sắt kiểu cổ. Một cái bàn, mấy cái ghế bành da và lò sưởi lớn xây bằng đá. Trên khắp các bức tường là những ngăn tủ kính chứa đầy sách và các loại tranh in khắc đóng khung đẹp đẽ. Corso nhận ra mấy bức của Holbein và Durer.
“Phòng đẹp đấy,” gã nói. Gã chưa tới đây bao giờ. “Nhưng tôi tưởng ông cất sách trong kho dưới hầm…”
Borja dừng lại cạnh gã. “Sách này là cho tôi. Không phải để bán. Một số người sưu tầm tiểu thuyết hiệp sĩ hoặc lãng mạn. Số khác tìm kiếm Don Quijote hay những tập sách không xén mép… Còn những cuốn sách ở đây có chung một nhân vật chính: ma quỷ.”
“Tôi xem được không?”
“Đấy là lý do tôi đưa anh đến đây.”
Corso bước lên mấy bước. Những cuốn sách được đóng theo kiểu cổ, từ cuốn sách thuở sơ khai bìa bọc da cho tới những cuốn dùng da Marốc trang trí với những tấm lắc và phù điêu hoa hồng nhỏ. Gã dừng lại đột ngột trước một ngăn tủ khiến đế giày rách rít lên trên sàn đá hoa cương, cúi xuống xem nội dung: De spectris et apparitionibus của Juan Rivio, Summa Diabolica của Benedito Casiano, La haine de Santan của Pierre Crespet, Steganography của Abbot Tritemius, De Consummatione saeculi của St. Pontius… Tất cả đều cực kỳ hiếm và quý, hầu hết Corso chỉ mới thấy trong các danh mục tham khảo.
“Anh đã thấy cái gì đẹp hơn thế này chưa?” Borja nhìn sát tận mặt Corso mà hỏi. “Chẳng có gì tuyệt vời như thế, ánh ngời, vàng trên da thuộc, mặt kính đằng sau… Chưa kể kho báu ẩn tàng bên trong: những nghiên cứu và hiểu biết của bao thế kỷ. Kiến giải về những bí ẩn của vũ trụ và tâm hồn con người.” Lão khẽ nhấc cánh tay lên rồi thả xuống, đành chấp nhận mình bất lực không thể nào diễn đạt bằng lời nỗi tự hào được là chủ nhân của những thứ đó. “Tôi biết có kẻ sẵn sàng giết người vì một bộ sưu tập thế này.”
Corso gật đầu nhưng không rời mắt khỏi đám sách. “Ví dụ như chính ông,” gã đáp. “Mặc dù ông không tự ra tay. Ông sẽ sai kẻ nào đấy giết người thay mình.”
Borja cười ngạo nghễ. “Đó là ưu thế của kẻ có tiền – có thể mướn người thay mình làm chuyện bẩn thỉu. Còn mình thì vẫn trong sạch.”
Corso nhìn lão buôn sách. “Đấy là vấn đề quan điểm,” gã đáp. Gã có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. “Tôi coi thường những kẻ không chịu bẩn tay. Những kẻ trong sạch.”
“Anh xem thường ai cũng mặc, giờ thì trở lại với việc chính.”
Borja bước qua những ngăn tủ chứa hàng trăm cuốn sách. “Ars Diavoli…” Lão mở cánh tủ gần nhất, lướt mấy ngón tay vuốt ve gáy những tập sách hầu như âu yếm. “Anh sẽ chẳng bao giờ gặp một bộ sưu tập thế này ở bất cứ đâu. Chúng là những cuốn hiếm nhất, chọn lọc kỹ càng nhất. Tôi mất nhiều năm mới gây dựng được bộ sưu tập này, nhưng tôi vẫn còn thiếu thứ tuyệt vời nhất.”
Lão lấy ra một cuốn sách khổ folio đóng bìa da đen theo phong cách Venice, thay cho tựa đề bên ngoài là năm dải băng nổi trên gáy sách và một biểu tượng bằng vàng ở bìa trước. Corso cầm cuốn sách rồi thận trọng mở ra. Trang in đầu tiên, tựa đề bằng tiếng Latinh DE UMBRARUM REGNI NOVEM PORTIS, Sách về chín cánh cửa của vương quốc bóng tối. Tiếp đó là dấu ấn của nhà in, địa điểm, tên và ngày tháng: Venetiae, apud Aristidem Torchiam. M.DC.LX.VI. Cum superiorum privilegio veniaque. Với đặc quyền và sự cho phép của bề trên.
Borja quan sát phản ứng của Corso.
“Nhìn cách cầm sách thì biết ngay ai là người mê sách.”
“Tôi không phải cái loại người ấy.”
“Đúng. Nhưng đôi khi anh khiến người ta quên mất anh có cái vẻ ngoài của kẻ đánh thuê. Hễ khi nào đụng đến sách, một vài cử chỉ của anh có thể khiến người khác yên lòng. Có những kẻ đụng vào sách đúng cung cách của phường tội phạm.”
Corso lật thêm vài trang. Toàn bộ văn bản bằng tiếng Latinh chữ rất đẹp in trên giấy dày và tốt, không hề chịu tác động của thời gian. Có chín tranh in cả trang tuyệt đẹp với bối cảnh thời Trung cổ. Gã ngẫu nhiên dừng lại ở một trang được đánh số V kiểu La Mã cùng một ký tự bằng cả chữ số Hy Lạp và Do Thái cổ. Dưới cùng là một từ không hoàn chỉnh hoặc được mã hóa: “FR.ST.A.” Một người đàn ông có vẻ lái buôn đang ngồi đếm tiền vàng trước một cánh cửa đóng kín, không hề biết sau lưng mình có bộ xương một tay cầm đồng hồ cát, tay kia cầm cái chĩa ba.
“Anh nghĩ sao?” Borja hỏi.
“Ông bảo nó là đồ giả, nhưng thứ này không có vẻ thế. Ông đã kiểm tra kỹ chưa?”
“Tôi đã coi toàn bộ, soi từng dấu phẩy, bằng kính lúp. Tôi thừa thời gian. Tôi mua được nó từ cách đây sáu tháng, khi người kế thừa của Gualterio Terral quyết định bán bộ sưu tập.”