Câu lạc bộ Dumas

Chương 36- Phần 3 (Hết)


Đọc truyện Câu lạc bộ Dumas – Chương 36- Phần 3 (Hết)

Corso vươn cằm ra. Gã đứng, lặng lẽ và gầy nhom trong chiếc áo khoác. Bóng những ngọn nến nhảy múa giữa mí mắt khép hờ khiến hai má râu ria của gã trông hõm vào. Tay đút túi, một bàn tay sờ vào cái bao trong có điếu thuốc cuối cùng, tay kia đặt lên con dao bấm chưa mở, bên cạnh chao gin.
“Tôi đã bảo, trả tiền cho tôi. Tôi muốn ra khỏi đây.”
Giọng nói bao hàm sự đe dọa, nhưng Corso không xác định được Borja có nghe ra không. Gã thấy từ từ lão tỏ ra miễn cưỡng.
“Tiền?” Borja lại nhìn Corso khinh bỉ. “Anh nói gì vậy, Corso? Anh không hiểu cái gì sắp xảy ra sao? Trước mắt anh là bí mật mà loài người mơ tưởng từ bao thế kỷ. Anh có biết có bao nhiêu người bị tra tấn, bị hỏa thiêu và bị xé xác thành từng mảnh chỉ để được thoáng thấy điều anh sắp chứng kiến hay không? Tất nhiên anh không thể theo tôi. Anh sẽ chỉ được yên lặng quan sát. Nhưng ngay cả một tên lính đánh thuê mạt hạng cũng có thể tham dự vào thắng lợi của chủ mình.”
“Trả tiền cho tôi. Rồi ông có thể cút đi với quỷ.”
Borja thậm chí không buồn nhìn gã. Lão đi quanh vòng tròn và đụng vào vài vật đặt cạnh những con số.
“Anh tống tôi đi với quỷ quả là thích đáng biết bao. Đúng cái kiểu thực tế điển hình của anh. Tôi sẽ tặng anh một nụ cười giá tôi không quá bận như thế. Mặc dù ý kiến của anh ngu xuẩn và không chính xác: chính quỷ sẽ đến với tôi.” Lão dừng lại, nghiêng đầu, như thể đang nghe ra tiếng bước chân từ xa. “Và tôi cảm thấy hắn đang tới.”
Lão thì thầm, lời lão xen lẫn những thán từ giọng cổ kỳ lạ, hoặc với những từ ngữ lúc thì có vẻ nhằm vào Corso lúc thì hướng tới một hiện hữu hắc ám thứ ba trong bóng tối bên cạnh hai người.
“‘Anh sẽ đi qua tám cánh cửa trước khi con rồng…’ Anh thấy không? Tám cánh cửa dẫn tới chỗ con quái vật canh giữ câu thần chú, con số chín, sở hữu bí mật tối hậu… Con rồng ngủ mở mắt, đó là chiếc gương Tri Thức. Tám bức họa cộng một. Hay một cộng với tám. Trùng khí với con số mà thánh John ở Patmos gán cho Ác thú: 666.”
Corso thấy lão quỳ xuống viết những con số bằng phấn lên sàn đá.
Rồi Borja đứng dậy, đắc thắng. Mắt lão thoáng ngời sáng trong ánh nến. Hẳn lão đã nuốt thứ thuốc gì đấy cùng với chất lỏng màu đen. Đồng tử trong mắt lão nở rộng đến mức gần như không còn thấy lòng đen, và lòng trắng chuyển sang thành màu hồng.
“Chín bức tranh, hay chín cánh cửa.” Một lần nữa bóng tối lại trùm lên mặt lão như một cái mặt nạ. “Không một ai mở được chúng… ‘Mỗi cánh cửa có hai chìa’. Mỗi bức họa cung cấp một con số, một yếu tố mà thuật, và một từ khóa, nếu toàn bộ được nghiên cứu dưới ánh sáng của lý trí, phép thần thông của người Do Thái, kiến thức huyền học, triết học chân chính… Bằng tiếng Latinh và sự kết hợp của nó với tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái cổ.” Lão chìa cho Corso xem một tờ giấy đầy những ký hiệu và đường gạch nối kỳ quái. “Anh có thể xem nếu thích. Nhưng anh sẽ chẳng bao giờ hiểu.”
Những giọt mồ hôi xuất hiện trên trán và quanh miệng lão, như thể ngọn lửa nến đang cháy trong cơ thể lão. Lão đi quanh cái vòn, chậm rãi và thận trọng. Đôi lần lão dừng lại, cúi xuống điều chỉnh vị trí của một vật: con dao han gỉ, chiếc vòng bạc.

“Mi sẽ đặt lại các yếu tố lên da con rắn.” Lão lẩm bẩm nhắc lại, mắt không nhìn Corso. Lão đưa ngón tay lần theo vòng tròn nhưng không đụng vào nó. “Chín yếu tố phải đặt quanh nó ‘theo hướng mặt trời lên’: từ phải sang trái.”
Corso tiếng một bước về phía lão. “Một lần nữa. Trả tiền cho tôi.”
Borja không để ý. Lão quay lưng lại phía Corso và trỏ vào hình vuông trong vòng.
“‘Con rắn sẽ nuốt phong ấn của sao Thổ…’ Phong ấn của sao Thổ là những hình vuông ma thuật đơn giản và cổ xưa nhất: chín chữ số đầu tiên đặt trong chín ô, sao cho từng hàng, dù đi xuống, sang ngang hay theo đường chéo, cộng lại đều cho cùng một kết quả.”
Lão cúi xuống và viết chín con số bằng phấn vào trong các ô.
Corso tiến thêm một bước nữa. Chân gã giẫm lên một tờ giấy chứa đầy những con số.
Một ngọn nến cháy hết kêu xèo xèo, lụn xuống trên trang đầu đã cháy thành than của cuốn De occulta philosophia của Cornelius Agrippa. Borja vẫn đang chăm chú vào vòng tròn và ô vuông. Lão nhìn chằm chằm vào chúng, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống. Trông như một tay chơi trước một ván bài kỳ lạ đang tính toán nước đi tiếp theo.
“Có một vật,” lão nói, không phải với Corso mà với chính lão. Nghe giọng của chính mình dường như có lợi cho suy nghĩ của lão. “Vật gì đó mà người xưa không đoán được, ít nhất cũng không hoàn toàn hiểu rõ… Cộng lại theo chiều bất kỳ, từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải hay từ phải qua trái, mi đều có số mười lăm. Nhưng khi ứng dụng bộ mã pháp thuật Do Thái, mười lăm lại trở thành một và năm, và cộng với nhau cho số sáu… Số sáu bao quanh các cạnh của hình vuông ma thuật với con rắn, con rồng hay Ác thú, là gì tùy mi.”
Corso không cần phải tìm cái đó. Nó đã sẵn trong một tờ giấy khác trên sàn.
Borja quỳ trước vòng tròn, đầu cúi xuống. Mồ hôi trên mặt lão long lanh dưới ánh nến. Lão cầm một tờ giấy khác lên đọc những từ kỳ quái trong đó.
“‘Mi sẽ chín lần mở phong ấn,’ Torchia viết như vậy. Thế nghĩa là những từ khóa tìm thấy phải được đặt vào ô tương ứng. Bằng cách đó ta có chuỗi sau.”
“Viết lên mình con rắn, hay con rồng.” Lão xóa các con số trong ô rồi đưa vào những từ tương ứng. “Đây chính là nó, thật ô danh Chúa.”

“Thế là xong,” Borja thì thầm sau khi viết những chữ cuối cùng. Tay lão run rẩy, một giọt mồ hôi từ trên trán lăn xuống mũi rơi xuống sàn nhà đầy bụi phấn. “Theo lời Torchia, thế là đủ cho ‘tấm gương phản chiếu con đường’ ngõ hầu phát âm từ ngữ thất lạc có khả năng mang lại ánh sáng từ bóng tối… Những câu này bằng tiếng Lating. Bản thân chúng chẳng có nghĩa gì. Nhưng bên trong chúng chứa đựng tinh hoa đích thực của Verbum dimissum, công thức khiến cho Satan, tổ tiên của chúng ta, hình ảnh đích thực của chúng ta, và kẻ tòng phạm của chúng ta xuất hiện.”
Lúc này lão quỳ gối giữa vòng tròn, xung quanh là toàn bộ những ký hiệu, những vật phẩm và những từ ngữ viết trong ô vuông. Hai tay lão run mạnh đến mức lão phải lấy tay nọ bấu chặt tay kia như móng vuốt chim, những ngón tay dính đầy phấn, mực và nến. Hãnh diện và tự tin, lão bắt đầu cười khùng khục như mất trí. Nhưng Corso biết chắc rằng Borja không mất trí. Gã nhìn quanh, nhận ra rằng mình đang hết thời gian, liền bắt đầu vượt qua khoảng cách giữa gã và lão buôn sách. Nhưng gã không dám vượt qua ranh giới mà đứng vào trong vòng với lão.
Borja nhìn gã với vẻ nanh ác, đoán nỗi sợ của gã.
“Nào Corso. Anh không muốn đọc với tôi ư? Anh sợ, hay anh quên hết tiếng Latinh rồi?” Anh sáng và bóng tối thay nhau xuất hiện rất nhanh trên mặt lão, như thể gian phòng bắt đầu quay tròn. Nhưng gian phòng vẫn đứng yên. “Anh không muốn biết những từ này chứa đựng gì sao? Ở phía sau bức tranh nhét giữa cuốn sách của Valerio Lozena, anh sẽ tìm thấy bản dịch sang tiếng Tây Ban Nha. Đặt chúng trước gương đi, như các bậc thầy của nghệ thuật này đã bảo. Ít nhất khi ấy anh sẽ biết Fargas và bà nam tước Ungern chết vì cái gì.”
Corso nhìn cuốn sách, một ấn phẩm thời kỳ sơ khai bìa da dê rất cổ và đã sờn. Gã cúi xuống đầy cảnh giác, như thể trong đó có một cái bẫy nguy hiểm, và rút ra bức tranh khắc. Đó là bức số I của cuốn sách đánh số 3, cuốn của bà nam tước Ungern, với ba ngọn tháp thay vì bốn. Ở trang sau, Varo Borja đã viết chín từ.
“Dũng cảm lên, Corso,” lão nói, giọng gắt gỏng khó chịu. “Anh chẳng có gì để mắt… Giữ những chữ đó trước gương.”
Quả thực có một cái gương có tay cầm trên sàn, giữa những đám sáp chảy ra từ các cây nến. Đó là một cái gương bạc cũ han gỉ, tay cầm trang trí rườm rà. Nó nằm ngửa, và hình ảnh Corso xuất hiện trong đó, bé xíu và méo mó, giống như ngọn đèn đỏ run rẩy ở cuối một đường hầm xa tít. Hình ảnh và bản sao của nó, người hùng với sự mệt mỏi vô hạn, Bonaparte khốn khổ bị xích vào núi đá trên đảo Sainte Hélène. Không có gì để mất, Borja nói thế. Một thế giới cô độc lạnh lẽo, nơi có hài cốt đơn độc của những người lính cận vệ Waterloo đứng gác hằng đêm dọc những con đường tăm tối bị lãng quên. Gã thấy mình ở trước cánh cửa cuối cùng, tay cầm chìa khóa giống như vị ẩn sĩ trong bức tranh II, chữ cái Teth cuộn tròn trên hai vai như một con rắn.
Corso giẫm lên cái gương, chậm rãi, không dùng sức, gã nghiền nát nó dưới gót giày. Cái gương phát ra một tiếng nứt vỡ rồi nát vụn. Những mảnh gương vỡ bây giờ nhân hình ảnh Corso thành vô số hầm tối với vô số bản sao của chính gã đứng bất động ở cuối đường hầm, quá nhỏ bé và mờ mịt chẳng còn khiến gã bận tâm.
“Màu đen là trường học của ban đêm,” gã nghe tiếng Borja. Lão vẫn quỳ giữa vòng tròn, quay lưng về phía Corso, mặc gã làm gì thì làm. Corso cúi xuống một cây nến rồi cầm một góc bức tranh số I, với chín từ đảo ngược ở mặt sau, đưa vào ngọn lửa. Gã nhìn những tòa tháp của lâu đài, con ngựa, kỵ sĩ đang hướng về người xem yêu cầu yên lặng, cháy rụi trong tay. Cuối cùng gã buông rơi mẩu còn lại, nó biến thành tro một giây sau và lơ lửng trong luồng khí nóng của những cây nến đang chiếu sáng trong gian phòng. Rồi gã tiến vào vòng tròn và sấn tới chỗ Borja.
“Tôi muốn tiền. Ngay bây giờ.”
Borja chìm ngập trong bóng tối hơn bao giờ hết, không hề để ý. Dường như có thứ này thứ nọ bỗng dưng có vẻ đặt sai vị trí, lão cúi xuống đổi chỗ vài thứ. Sau một thoáng do dự, lão bắt đầu tụng niệm một lời chú độc địa:

“Admai, Aday, Eloy, Agla…”
Corso túm lấy vai lão lắc mạnh. Borja không tỏ vẻ xúc động hay sợ hãi. Cũng không cố chống lại. Lão tiếp tục niệm chú giống như bị thôi miên, như một kẻ tử vì đạo cứ cầu nguyện mà không hề ý thức gì tới tiếng gầm của bầy sư tử hay lưỡi kiếm của tên đao phủ.
“Một lần cuối cùng. Trả tiền đi.”
Chẳng hơn gì. Trước mắt Corso chỉ có đôi mắt trống rỗng của Borja nhìn mà không thấy gã, giống như những hố đen vô thức, chăm chăm hướng về phía vực sâu của vương quốc bóng tối.
“Zatel, Gebel, Elimi…”
Lão định triệu hoán ngạ quỷ, Corso nghi ngờ nhận định. Đứng giữa vòng tròn, không biết gì hết, không nhận ra cả Corso lẫn sự đe dọa của gã, lão đang cầu khấn ma quỷ bằng cách gọi tên riêng của chúng.
“Gamael, Bilet…”
Borja chỉ ngừng lại khi bị Corso đánh cú đầu tiên, một đòn bằng mu bàn tay khiến đầu lão vẹo sang một bên. Mắt lão đảo một vòng rồi gắn chặt vào một điểm trong hư không.
“Zaquel, Astarot…”
Đúng lúc ấy Borja nhận đòn thứ hai, một dòng máu ứa ra từ khóe miệng lão. Corso kinh hãi giật bàn tay nhuốm máu ra. Có cảm giác như gã vừa đánh vào vật gì đó nhớp nhúa. Gã thở hổn hển đếm nhịp tim mình đập đến lần thứ mười rồi nghiến răng giáng một cú đấm nữa. Máu trào ra từ cái miệng méo xệch của người buôn sách. Lão vẫn thì thào cầu khấn, một nụ cười bối rối và mê sảng, một niềm vui mê muội hiện lên trên đôi môi sưng phồng. Corso túm lấy cổ áo phũ phàng kéo gã ra ngoài vòng trước khi lại ra đòn. Chỉ khi ấy Borja mới gào lên, như một con thú đau đớn khổ sở, lão vùng ra với một sức mạnh bất ngờ rồi lại lê mình trở lại trong vòng tròn. Ba lần Corso đẩy lão ra, và ba lần, như một con lừa ương bướng, lão trở lại đó. Trong khi đó máu đã loang lên những kí hiệu và những chữ cái viết đè lên phong ấn của sao Thổ.
“Sic dedo me…”
Có gì đó không ổn. Trong ánh nến chập chờn, Corso thấy lão ngập ngừng, bối rối, lão kiểm tra lại thứ tự của mọi vật trong vòng tròn ma thuật. Đôi ba giọt ít ỏi cuối cùng từ cái đồng hồ nước rớt xuống. Borja chẳng còn lại bao nhiêu thời gian. Lão cao giọng lặp lại lời chú và đưa tay chạm vào ba trong số chín ô vuông.
“Sic dedo me…”
Corso tuyệt vọng nhìn quanh, miệng đắng ngắt, gã chùi thêm hai bàn tay đẫm máu vào áo khoác. Lại có thêm những ngọn nến cháy hết rồi phụt tắt với tiếng xì xì. Những vòng khói từ những sợi bấc đã cháy thành than cuộn mình trong không gian màu đo đỏ. Trông như những con rắn, gã cay đắng nghĩ thầm. Bước tới chỗ cái bàn bị đẩy vào một góc phòng, gã tìm trong ngăn kéo. Không có tiền. Không có cuốn sổ séc. Không có gì hết.

“Sic exeo me…”
Lão buôn sách tiếp tục lời khấn nguyện của mình. Corso liếc nhìn lão trong vòng tròn lần cuối cùng. Quỳ gối, đầu cúi xuống sàn, nét mặt méo mó đầy háo hức, Varo Borja đang mở cánh cửa cuối cùng trong số chín cánh với một nụ cười hạnh phúc rồ dại; cái miệng rỉ máu của lão giống như một vệt đen ma quái cắt ngang mặt, trông như một lưỡi dao làm bằng đêm đen và bóng tối.
“Đồ chó đẻ,” Corso buột ra một câu chửi. Và với nó, gã đã kết thúc hợp đồng của mình.
***
Gã đi vào vùng ánh sáng nhợt nhạt dưới chân cầu thang, dưới mái vòm dẫn ra sân. Ở đó, bên cái giếng và những con sư tử đá, trước cánh cổng mở ra ngoài đường, gã dừng lại thở thật sâu, sung sướng hưởng thụ không khí buổi sớm trong lành. Gã tìm điếu thuốc cuối cùng trong cái bao nhàu nát trong áo khoác, đặt lên miệng nhưng không châm lửa. Gã đứng đó một hồi cho đến khi tia nắng đầu tiên bị gã bỏ lại đằng sau khi tiến vào thành phố – nó đi xiên xiên và có màu đỏ – bắt kịp gã. Ánh nắng xuyên qua những mặt tiền nhà bằng đá xám, in bóng cánh cổng sắt rèn lên mặt gã, khiến đôi mắt thiếu ngủ mệt mỏi của gã hơi khép lại. Rồi ánh sáng tỏ dần lên, từ từ choán hết khoảnh sân. Những con sư tử Venice cúi cái bờm bằng cẩm thạch xuống như để được vuốt ve. Cũng luồng sáng rạng rỡ ấy, lúc đầu có màu đỏ, sau đó trở nên chói chang, như một đám bụi vàng lơ lửng trùm lên người Corso. Và đúng lúc ấy, trên đỉnh cầu thang, bên kia cánh cửa của vương quốc bóng tối, nơi ánh sáng rạng đông êm đềm không bao giờ vươn tới, chợt phát ra một tiếng kêu. Tiếng thét đinh tai nhức óc, không giống của con người, đầy kinh hoàng và tuyệt vọng, khó khăn lắm gã mới nhận ra giọng Varo Borja.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại . .com – gác nhỏ cho người yêu sách.]
Không quay đầu lại, Corso đẩy cánh cổng bước ra phố. Mỗi bước đi dường như đều khiến gã rời đi rất xa khỏi những thứ để lại đằng sau, như thể chỉ trong vài giây gã bước lại những bước từng đi trên một cuộc hành trình đã chiếm đoạt con người gã từ rất lâu rồi.
Gã đứng lại giữa quảng trường, lóa mắt, toàn thân bọc trong ánh nắng. Cô gái vẫn ở trong xe, gã run lên vì niềm vui sướng ích kỷ và sâu xa khi thấy cô không biến mất theo những tàn dư của đêm đen. Cô cười dịu dàng, đẹp và trẻ không tưởng nổi với mái tóc ngắn như con trai, với làn da nâu và đôi mắt bình yên nhìn gã không chớp, chờ đợi. Và tất cả ánh sáng tuyệt vời như ánh hoàng kim phản chiếu trong đôi mắt xanh long lanh – ánh sáng đẩy lùi bóng tối trong các xó xỉnh của thành phố cổ, bóng những tháp chuông và những mái vòm cao vút trên quảng trường – dường như tỏa ra từ nụ cười của cô khi Corso tới với cô. Gã vừa đi vừa nhìn xuống đất, nhẫn nhục, sẵn sàng chào tạm biệt cái bóng của chính mình. Nhưng dưới chân gã không có bóng.
Đằng sau gã, trong tòa nhà được bốn con quái thú dưới máng xối canh giữ, Borja đã thôi gào thét. Cũng có thể lão vẫn đang gào thét ở một chỗ tối tăm quá xa nên ở trên đường phố không thể nghe thấy. Nun scio: bây giờ tôi biết rồi. Corso tự hỏi không biết anh em Ceniza đã dùng dùng keo hay gỗ để làm giả bức minh họa của cuốn số một, thất lạc do ý thích bất chợt của một đứa bé hay do hành động thô thiển của một người sưu tầm sách. Dù sao đi nữa, khi nhớ đến bàn tay xanh xao, thành thạo của bọn họ, gã nghiêng về ý nghĩ rằng họ tự làm bản khắc gỗ để in chúng, dựa theo Thư mục tổng hợp của Mateu. Đó là lý do khiến mọi chuyện không như ý Varo Borja: trong cả ba cuốn sách, bức khắc gỗ cuối cùng là giả. Ceniza sculpsit – do Ceniza khắc. Vì tình yêu nghệ thuật.
Gã bật cười như một con sói hung ác khi cúi xuống châm thuốc. Những cuốn sách thường chơi xỏ như vậy. Và mỗi người sẽ có một con quỷ xứng đáng với chính mình.
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Fuju – H.y
(Tìm – Chỉnh sửa – Đăng)​


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.