Câu lạc bộ Dumas

Chương 34- Phần 1


Đọc truyện Câu lạc bộ Dumas – Chương 34- Phần 1

XVI. MỘT ÂM MƯU TƯƠNG ỨNG VỚI CUỐN SÁCH CỔ
“Đây là chỗ khó chịu của vấn đề,” Pothos nói.
“Ngày xưa người ta không phải giải thích mọi chuyện.
Người ta chiến đấu để mà chiến đấu.”
A. Dumas, TỬ TƯỚC BRAGELONNE.
Ngả người trên lưng ghế tài xế, Corso nhìn phong cảnh bên ngoài. Gã đã tách khỏi làn đường chính ở chỗ rẽ cuối con đường, trước khi nó chìm sâu vào thị trấn. Với những bức tường cũ kỹ bao quanh, khu phố cổ bồng bềnh trong sương khói từ dưới sông dâng lên, lơ lửng trong thinh không như một hòn đảo màu xanh mà quái. Ấy là một thế giới nhập nhằng, chẳng có ánh sáng cũng chẳng có bóng tối. Một rạng đông ngập ngừng và lạnh lẽo buông xuống Castille, với làn ánh sáng đầu ngày le lói làm hiện lên những ống khói, mái nhà, những tháp chuông về phía Đông.
Gã muốn xem giờ, nhưng cái đồng hồ đã bị nước lọt vào trong cơn bão ở Meung. Mặt kính mờ mịt và đĩa số không đọc được. Corso nhìn thấy đôi mắt kiệt quệ của mình trong gương chiếu hậu. Meung-sur-Loire, trong đêm trước ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Tư. Bây giờ họ đã ở xa, và đã là thứ Ba. Đó là một hành trình trở lại dài dằng dặc, tất cả các nhân vật đã chìm mất ở mãi xa xôi: Balkan, Câu lạc bộ Dumas, Rochefort, Milady, La Ponte. Chỉ còn tiếng vọng của câu chuyện sau khi giở trang cuối cùng. Tác giả đã gõ từ khóa cuối cùng trên bàn phím Qwerty, ở hàng dưới cùng, phím thứ hai từ bên phải sang. Vì vậy với một hành động tùy ý không có gì hơn là những trang giấy in, những tờ giấy kỳ lạ, trơ trơ. Những cuộc đời đột ngột trở nên xa lạ.
Rạng sáng hôm ấy, chẳng khác gì vừa từ trong mơ tỉnh lại, Corso ngồi, râu ria lởm chởm, bẩn thỉu, mắt đỏ ngầu. Bên cạnh là cái túi vải buồm cũ kỹ chứa cuốn Chín cánh cửa cuối cùng còn lại. Và cô gái. Đấy là toàn bộ những thứ ở lại trên bờ biển sau khi thủy triều rút. Cô rên khe khẽ, gã liền quay lại nhìn. Cô ngủ trên ghế bên cạnh, mình khoác áo len thô, đầu tựa lên vai gã. Miệng cô hé mở, hơi thở dịu dàng. Thỉnh thoảng cô khẽ rùng mình. Rồi lại rên khe khẽ. Một vết nhăn dọc nhỏ xíu nằm giữa hai chân mày khiến cô trông như một bé gái đầy ưu tư. Một bàn tay thò ra từ dưới chiếc áo khoác. Lòng bàn tay ngửa lên, những ngón tay hơi mở ra, như thể cô vừa để thứ gì đậy tuột mất, hoặc như thể đang chờ đợi.
Corso lại nghĩ về Meung, và về chuyến đi. Về Boris Balkan đứng bên gã hai đêm trước đó trên mảnh sân trời còn ướt nước mưa. Tay cầm Rượu vang Anjou, Richelieu mỉm cười như một đối thủ cũ, vừa cảm phục, vừa đồng cảm. “Ông thật khác thường, ông bạn.” Những lời cuối này của ông ta giống như lời từ biệt; đó là những lời duy nhất có ý nghĩa. Phần còn lại – lời mời nhập bọn cùng những vị khách khác – hoàn toàn chỉ là hình thức. Cũng chẳng phải Balkan muốn tống gã đi cho rồi – kỳ thực ông ta đã lộ rõ vẻ thất vọng khi Corso bỏ đi. Nhưng Balkan biết rằng Corso sẽ từ chối trở thành một người trong đám bọn họ. Sau cùng chỉ còn một mình Corso đứng trên sân, gã cúi người trên lan can lắng nghe thật lâu hồi âm từ thất bại của chính mình. Gã từ từ hồi tỉnh, nhìn quanh, cố nhớ lại xem mình đang ở đâu. Rời khỏi những ô cửa sổ sáng rực, gã chậm rãi lang thang trên những đường phố tối tăm theo lối về khách sạn. Gã không bị Rochefort khống chế nữa, và ở Quán Sainte Jacques, gã nghe nói Milady cũng đi rồi. Hai người đã rời khỏi đời gã để trở lại lãnh địa u ám của họ, để một lần nữa vào vai những nhân vật không có thật, khó hiểu như những quân cờ. Gã tìm thấy La Ponte và cô gái không khó khăn gì. Gã không quan tâm La Ponte, nhưng cảm thấy nhẹ lòng khi thấy cô vẫn ở đấy. Gã sợ sẽ mất cô cùng với những nhân vật khác trong câu chuyện. Gã chụp nhanh lấy tay cô trước khi cô cũng tan biến trong đám tro tàn của thư viện thành Meung và dẫn cô ra xe, mặc kệ La Ponte đứng nhìn. Corso nhìn hắn lùi xa dần trong gương chiếu hậu. La Ponte vẻ bối rối, gào lên kêu gọi tình bạn bị lạm dụng quá mức của họ, không hiểu chuyện gì xảy ra. Giống như một thợ săn cá voi vô tích sự, đầy tai tiếng, đánh mất niềm tin của mọi người, bị bỏ rơi trên chiếc xuồng nhỏ với ít bánh mì và khẩu phần nước cho ba ngày, mặc cho phiêu giạt cùng sóng biển. Hãy cố đến Batavia, ngài Bligh[1]. Nhưng rồi, đến cuối phố, Corso dừng xe, ngồi trước tay lái, gã nhìn con đường phía trước, cô gái ngạc nhiên nhìn gã. La Ponte cũng không phải một nhân vật thực. Corso thở dài cài số lùi quay lại đón hắn. Cả ngày lẫn đêm hôm sau, cho đến tận lúc họ để hắn xuống xe ở một cột đèn giao thông trên đường phố Madrid, La Ponte không nói một lời. Thậm chí hắn không hề phản ứng khi Corso nói bản thảo của Dumas đã mất. Cũng chẳng có bao nhiêu lời hắn có thể nói.
[1] Ở đây nhắc tới William Bligh, phó đô đốc hải quân hoàng gia Anh (1754 – 1817), và vụ bình biển trên con tàu Bounty do ông chỉ huy: Bligh và những người trung thành với ông bị đám thủy thủ nổi loạn bỏ rơi trên biển với một chiếc thuyền con, sau đó trôi giạt đến bờ biển Timor.
Corso liếc nhìn cái túi vải bạt dưới chân cô gái đang ngủ. Thất bại thì đau đớn, tất nhiên, giống như một vết dao trong ký ức. Gã biết mình đang chơi đúng luật – legitime certaverit – nhưng đi sai hướng. Đúng vào thời điểm chiến thắng, mặc dù chỉ một phần và không toàn vẹn, toàn bộ niềm vui thắng lợi bị giật mất. Chiến thắng chỉ là tưởng tượng. Giống như đánh bại một hồn ma trong mơ, đấm vào gió hay gào thét vào nơi im lặng. Có lẽ vì vậy mà Corso lúc này ngờ vực nhìn chằm chằm thành phố lơ lửng trong sương, chờ đợi trước khi tiến sâu vào, như muốn chắc rằng nền tảng của nó ăn sâu bám rễ xuống đất.
Gã nghe hơi thở mềm mại nhịp nhàng của cô trên vai. Không rời mắt khỏi cái cổ trần dưới những nếp áo gấp của cái áo khoác len thô, gã đưa tay tới cho đến khi những ngón tay cảm nhận được hơi ấm của làn da phập phồng theo nhịp thở. Vẫn như mọi lần, da thịt cô tỏa ra mùi của tuổi trẻ và của cơn sốt. Bằng tưởng tượng và theo trí nhớ, gã dễ dàng lần theo những đường cong thân thể kéo xuống tới bàn chân trần, bên cạnh đôi giày mềm và cái túi vải. Irene Adler. Gã vẫn không biết gọi cô thế nào. Nhưng gã không quên được tấm thân trần trong bóng tối, đường lượn ở hông sáng ánh đèn, đôi mắt hé mở của cô. Lặng lẽ và đẹp không thể tả, đắm chìm trong tuổi trẻ của chính mình, đồng thời thanh thản như mặt hồ lặng sóng, cộng với sự khôn ngoan của nhiều thế kỷ. Và trong đôi mắt long lanh nhìn gã chăm chú từ trong bóng tối, hình chiếu đen sẫm của chính Corso nằm đó giữa toàn bộ những tia sáng từ bầu trời tụ lại.
Giờ thì cô đang nhìn gã, đôi mắt xanh như những viên ngọc lục bảo dưới hàng mi dài. Cô đã thức dậy và ngái ngủ dụi vào người gã. Rồi ngồi dậy, cảnh giác, cô nhìn gã.
“Chào ông, Corso.” Cái áo khoác tuột xuống chân. Chiếc áo pull hoàn hảo bó sát mình, cô mềm mại như một con thú non xinh đẹp. “Ta đang làm gì ở đây?”

“Đợi,” gã trỏ thành phố giống như đang bồng bềnh trong sương mù. “Đợi nó biến thành hiện thực.”
Cô nhìn và lúc đầu không hiểu gì. Rồi thong thả mỉm cười.
“Có lẽ chẳng bao giờ thay đổi,” cô nói.
“Vậy thì cứ ở đây. Chỗ này không tệ, một thế giới lạ lùng, hư ảo dưới chân.” Gã quay lại cô. Tôi có thể cho anh mọi thứ nếu anh quy phục và say mê tôi. Có phải cô sẽ đề nghị như thế với tôi không?”
Cô cười rất dịu dàng. Rồi cúi xuống nghĩ ngợi và lại ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt gã.
“Không, em nghèo,” cô nói.
“Tôi biết.” Đó là sự thực. Corso không cần phải tìm nó trong ánh mắt trong trẻo của cô. “Hành lý của cô, và toa ngồi trên tàu… Thật lạ. Tôi thường nghĩ tất cả bọn cô đều có tài sản vô hạn, ở ngoài đó, bên kia cầu vồng.” Nụ cười của gã sắc như con dao vẫn còn nằm trong túi gã. “Túi vàng của Peter Schlemiel[2].”
[2] Nhân vật chính trong Câu chuyện nổi tiếng về Peter Schlemiel (1814) của Adelbert von Chamisso (1781 – 1838), nói về một người bán cái bóng của mình cho ma quỷ để lấy một túi tiền không đáy.
“Vậy ông nhầm rồi.” Cô mím môi ương bướng. “Em là tất cả những thứ em có.”
Đó cũng là sự thực, và Corso đã biết từ lúc đầu. Cô không bao giờ nói dối. Vừa ngây thơ vừa khôn ngoan, cô trung thành và say đắm theo đuổi một cái bóng.
“Tôi biết.” Gã nguệch ngoạc lên trời như thể trong tay cầm cái bút tưởng tượng. “Cô không đưa tôi tờ giấy để ký ư?”
“Giấy tờ?”
“Phải. Thường người ta gọi khế ước như thế. Thời nay thì phải là một bản hợp đồng với hàng chữ nhỏ đúng không? ‘Trong trường hợp có tranh chấp, các bên phải chịu sự phán quyết của tòa án…’ Thật buồn cười. Không biết tòa án nào xử chuyện này.”

“Đừng ngớ ngẩn.”
“Sao cô chọn tôi?”
“Em được tự do,” cô thở dài buồn bã như thể phải trả giá để được nói điều đó. “Em có thể lựa chọn. Bất cứ ai cũng có thể.”
Corso mò trong túi áo khoác bao thuốc lá nhàu nát. Còn một điếu cuối cùng. Gã moi nó ra nhìn chăm chú, dùng dằng không biết có nên đưa lên miệng hay không. Rồi gã lại nhét nó vào bao. Có lẽ lát nữa gã sẽ cần một hơi khói. Gã chắc thế.
“Cô biết từ đầu,” gã nói, “rằng có hai câu chuyện không liên quan gì đến nhau. Đó là lý do vì sao không bao giờ cô quan tâm đến câu chuyện của Dumas. Milady, Rochefort, Richelieu, đấy chỉ là những nhân vật phụ trong phim đối với cô. Giờ thì tôi hiểu tại sao cô thụ động như thế. Hẳn cô chán khủng khiếp. Cô chỉ ngồi lật trang cuốn Lính ngự lâm của mình và xem tôi làm những việc sai lầm…”
Qua kính chắn gió, cô đang nhìn thành phố khoác trên mình màn sương màu xanh. Tay cô giơ lên, rồi lại bỏ xuống, như thể điều cô định nói là vô nghĩa. “Tất cả những gì em có thể làm là theo ông,” cô đáp. “Mỗi người đều phải một mình bước đi trên đoạn đường nào đó. Ông không nghe nói tự do ý chí sao?” Cô cười buồn. “Một số trong chúng ta phải trả giá rất cao vì chuyện đó.”
“Nhưng không bao giờ hoàn toàn đứng ngoài. Đêm đó, bên sông Seine… Sao cô lại giúp tôi đối phó với Rochefort?”
Cô đưa bàn chân trần chạm vào cái túi vải. “Hắn mò theo bản thảo của Dumas. Nhưng Chín cánh cửa cũng ở trong đó. Em chỉ muốn tránh sự can thiệp ngu ngốc.” Cô nhún vai. “Và em cũng không muốn hắn đánh ông.”
“Còn ở Sintra? Cô cảnh cáo tôi về vụ Fargas.”
“Tất nhiên. Cuốn sách gắn chặt với chuyện đó.”
“Và còn bí mật về cuộc gặp mặt ở Meung…”
“Em không biết chuyện đó. Chỉ đơn giản suy ra được từ trong sách.”
Corso nhăn mặt. “Tôi cứ nghĩ cái gì cô cũng biết.”

“Vậy thì ông nhầm.” Bây giờ đến lượt cô bực mình. “Và em không hiểu tại sao ông nói em như thể em là một kẻ thuộc về bầy đàn. Em chỉ có một mình từ lâu lắm rồi.”
Nhiều thế kỷ, Corso chắc chắn như thế. Biết bao thế kỷ cô đơn. Không còn gì nghi ngờ. Gã đã ôm tấm thân trần của cô, chìm nghỉm trong đôi mắt, đã ở bên trong cô, thưởng thức làn da cô, cảm nhận qua môi mình nhịp đập khe khẽ trên cổ cô. Gã đã nghe tiếng rên nhè nhẹ như một đứa trẻ sợ hãi hay như một thiên thần bị ruồng bỏ đi tìm hơi ấm. Gã đã quan sát cô trong giấc ngủ, nắm tay siết chặt, quằn quại trong cơn ác mộng về những thượng đẳng thần tóc vàng, giáp trụ lấp lánh hào quang và không biết thương xót, độc đoán không khác gì thượng đế khi bắt họ diễu hành đúng giờ.
Bây giờ, nhờ cô, dù quá muộn, gã hiểu Nikon, hiểu các bóng ma của nàng và cách nàng tuyệt vọng bám bíu vào cuộc đời. Nỗi sợ của Nikon, những bức ảnh đen trắng của nàng, cố gắng vô vọng xua đuổi những hồi ức truyền lại qua những bộ gen từng sống sót qua Auschwitz, số hiệu đóng dấu trên người cha nàng, và cái trật tự Đen dường như cũng xa xưa như tinh thần và lời rủa của con người. Bởi vì Chúa và quỷ có thể là cùng một người và cùng một thứ, và ai cũng hiểu điều đó, theo cách của mình.
Nhưng cũng như đối với Nikon, Corso tàn nhẫn. Tình yêu là một gánh nặng quá sức đối với gã, và gã không có tấm lòng cao thượng như Porthos. “Đó là nhiệm vụ của cô sao?” gã hỏi. “Bảo vệ Chín cánh cửa ư? Tôi không tin cô sẽ nhận được một huân chương vì chuyện đó.”
“Thế là bất công, ông Corso.”
Gần như vẫn là câu ấy. Một lần nữa, Nikon bị để mặc cuốn trôi theo dòng đời, mong manh và nhỏ bé. Ai xui nàng bám bíu lấy hiện thực, để trốn tránh những cơn ác mộng của mình?
Gã nhìn cô gái. Có lẽ ký ức về Nikon là sự ăn năn của gã. Nhưng gã không muốn nhẫn nhịn mà chấp nhận nữa. Gã liếc nhìn gương chiếu hậu: khuôn mặt gã co rúm trong cay đắng và mất mát.
“Vậy ư? Ta đã mất hai trong ba cuốn sách. Và chuyện gì xảy ra với cái chết vô nghĩa của Fargas và bà nam tước?” Bọn họ không mấy quan trọng đối với gã, nhưng Corso cảm thấy chua xót. “Lẽ ra cô có thể ngăn ngừa chuyện đó.”
Cô lắc đầu rất nghiêm túc và nhìn gã chằm chặp. “Có những chuyện không tránh được, ông Corso. Một vài thành trì phải bị thiêu hủy, một vài người phải bị treo cổ. Có những con chó sinh ra để xé xác nhau thành từng mảnh nhỏ, có những người đức hạnh với số mệnh phải bị chặt đầu, những cánh cửa định mệnh mở cho người khác tiến vào.” Cô nhăn mặt và cúi đầu xuống. “Nhiệm vụ của em, như ông gọi, là đảm bảo ông an toàn qua hết hành trình này.”
“Ồ, đó là một hành trình dài, chỉ kết thúc khi trở về điểm xuất phát.” Corso trỏ thành phố lơ lửng trong sương mù. “Và bây giờ tôi phải xuống đó.”
“Ông không phải. Không ai buộc ông. Ông chỉ cần quên hết và bỏ đi.”
“Không cần tìm câu trả lời?”
“Không cần thử. Ông đã có câu trả lời bên trong chính ông.”
“Đó là một câu hay. Hãy ghi nó lên bia mộ tôi khi tôi cháy bùng bùng trong địa ngục.”
Cô âu yếm vỗ nhẹ lên đầu gối gã. “Đừng ngớ ngẩn, ông Corso. Mọi chuyện diễn ra như người ta muốn nhiều hơn là người ta thường nghĩ. Thậm chí cả quỷ cũng có thể chấp nhận diện mạo khác đi. Hay tính cách khác đi.”

“Chẳng hạn như biết hối hận.”
“Đúng. Nhưng cũng có thể là có tri thức và sắc đẹp.” Cô lại băn khoăn nhìn thành phố. “Hoặc giả là quyền lực và của cải.”
“Nhưng kết quả cuối cùng vẫn như nhau: kiếp đọa đày.” Gã lặp lại động tác ký tên vào bản hợp đồng tưởng tượng. “Vẫn phải trả giá cho sự ngây thơ của linh hồn.”
Cô lại thở dài. “Ông đã trả giá từ lâu rồi, Corso. Và hiện giờ vẫn đang phải trả. Đó là một thói quen kỳ lạ, cứ trì hoãn nó đến tận cùng. Giống như hồi cuối của một thảm kịch… Mỗi người kéo dài kiếp đày đọa của mình từ thuở ban đầu. Còn con quỷ, hắn chẳng là gì khác hơn nỗi đau của Chúa; cơn cuồng nộ của kẻ độc tài mắc kẹt trong cái bẫy của chính mình. Kẻ thắng nói sao cũng được.”
“Chuyện đó xảy ra khi nào?”
“Lâu hơn ông có thể tưởng tượng nhiều lắm. Hết sức nghiệt ngã. Em đã chiến đấu hàng trăm ngày đêm trong tuyệt vọng và không có nơi ẩn nấp.” Một nụ cười bí ẩn nở trên môi cô. “Đó là điều duy nhất em tự hào – chiến đấu đến cùng. Em rút lui nhưng không quay lưng lại, xung quanh là những kẻ khác cũng từ trên cao rơi xuống. Em khản giọng vì thét gào cuồng nộ, sợ hãi và kiệt sức. Sau trận đánh, em đi qua một cánh đồng hoang vắng và cô đơn như cõi vình hằng giá băng… Đôi khi em vẫn bắt gặp dấu vết của một trận chiến hoặc một chiến hữu ngày xưa đi qua không dám ngẩng đầu.”
“Vậy thì sao lại là tôi? Sao cô không tìm kẻ nào đấy bên phe thắng? Tôi chỉ chiến thắng được ở tỷ lệ năm ngàn đối một.”
Cô gái quay đi nhìn ra xa. Mặt trời đang lên, tia bình minh đầu tiên cắt ngang không gian buổi sáng bằng một vệt hồng chiếu thẳng vào ánh mắt cô. Khi cô quay lại nhìn Corso, gã cảm thấy hoa mắt khi nhìn sâu vào toàn bộ ánh sáng phản chiếu trong đôi mắt xanh.
“Bởi vì sự mình bạch không bảo giờ chiếng thắng. Và quyến rũ một gã khờ chả bao giờ là việc đáng làm.”
Rồi cô ghé mình sang hôn gã rất chậm, dịu dàng vô hạn. Như thể đã phải đợi chờ đời đời kiếp kiếp để làm chuyện đó.
***
Sương mù chậm rãi tan đi. Tựa như thành phố lửng lơ trên không đã quyết định hạ xuống đất. Bình minh tỏa sáng trên quần thể màu xám và vàng đất của lâu đài Alcazar, tháp chuông nhà thờ và cây cầu đá với những cột chống chìm trong làn nước đen thẫm, giống như một bàn tay hiểm ác vắt ngang dòng sông.
Corso khởi động máy. Xe lướt êm trên đường phố vắng. Vì họ đi xuống, ánh mặt trời mới lên bị bỏ lại đằng sau, lửng lơ trên đầu họ. Thành phố chậm rãi xích lại gần hơn, và họ từ từ dấn vào một thế giới sắc màu lạnh lẽo và tịch mịch bao la không chịu rời tàn dư của những mảng sương mù xanh xám.
Gã ngập ngừng trước khi qua cầu, dừng xe dưới mái vòm đá ở lối lên cầu; bàn tay đặt trên bánh lái, đầu hơi cúi, cằm chĩa ra – hệt như bức chân dung thợ săn rình mồi chụp nghiêng. Gã gỡ kính ra lau, mặc dù không cần thiết. Hết sức từ từ, gã ngắm cây cầu, trong đôi mắt không có kính, nó giống như một lối đi mơ hồ với những đường nét chập chờn. Gã không quay lại nhìn cô gái nhưng vẫn biết cô đang nhìn mình. Gã đeo kính lên, chỉnh lại trên sống mũi, cảnh vật lại sắc nét, nhưng chẳng phải nhờ vậy mà thấy an tâm hơn. Bờ sông bên kia tối om. Dòng nước trôi qua những trụ cầu giống như dòng thời gian đen sẫm của con sông Lethe ngăn cách địa ngục và trần gian. Trong mảng đêm cuối cùng chưa chịu biến đi, cảm giác nguy hiểm trong gã trở nên hữu hình, sắc nhọn như một mũi kim thép. Corso cảm thấy mạch đập rộn ràng trên cổ tay khi gã nắm lấy cần số. Vẫn còn kịp quay lại, gã tự nhủ. Như vậy thì những gì đã xảy ra đã chẳng xảy, chẳng có gì phải đến sẽ đến. Còn về phần giá trị thực tế của Nunc scio, “Giờ thì tôi biết,” do thượng đế hay do quỷ đặt ra, cái đó hết sức mơ hồ. Gã nhăn mặt. Chúng chẳng là gì ngoài những từ ngữ. Gã biết rằng trong vài phút nữa gã sẽ ở bên kia cầu, bên kia sông. Verbum dimissum custodiat Arcanum. Ngẩng nhìn trừng trừng lên trời, gã tìm kiếm người cung thủ có hay không những mũi tên trong bao tên, trước khi vào số và từ từ tiến lên.
***


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.