Cẩm Khê Di Hận

Chương 15: Một là báo phục, hai là báo phương


Đọc truyện Cẩm Khê Di Hận – Chương 15: Một là báo phục, hai là báo phương

Vĩnh-Hoa tiếp:

– Bộ Nam-thiên bách tộc đại luật áp dụng trong suốt từ năm Nhâm-Tuất
(2879 trước Tây lịch) đến năm Quý-Mão (258 trước Tây lịch), trải hai
ngàn sáu trăm hai mươi hai năm. Khi vua An-Dương đánh vua Hùng lập nước
Âu-Lạc, ngài vẫn cho dùng bộ Nam-luật. Bộ Nam-luật áp dụng đến năm
Quý-Tỵ (208 trước Tây-lịch) tức thêm năm mươi năm nữa. Cộng lại hai ngàn sáu trăm bẩy mươi hai năm (2672). Khi Triệu Đà đánh Âu-Lạc. Y xuất thân là chức quan của Tần Thủy-Hoàng, vì vậy y cho áp dụng luật đời Tần bên
Trung-quốc. Luật Trung-quốc thì tôi không rành cho lắm.

Triều đình cùng đưa mắt nhìn Lục Mạnh-Tân. Ông cũng lắc đầu. Chỉ có Hoàng Thiều-Hoa mỉm cười:

– Mấy năm nay, tôi từng đến Lạc-dương vấn an Hàn thái-hậu. Nhân nhàn
rỗi, tôi có nghiên cứu về luật Trung-quốc. Có thể nói tất cả luật lệ,
điển chương Trung-quốc đều để ở điện Gia-đức. Chỉ có hoàng đế, thái tử,
công chúa cùng tam công, tể tướng, thượng thư được đọc mà thôi. Tôi phải nhờ Hàn thái-hậu với Chu Tường-Qui mượn cho đọc. Nhân đó tôi cho sao
chép đầy đủ.

Bà lấy trong bọc ra mấy bộ sách, để trước mặt:

– Trung-quốc có luật cùng thời với Lĩnh-Nam. Tức luật Thần-Nông. Đến đời Hoàng Đế (2550 trước Tây-lịch) cũng từng ban hành luật. Đời Hạ
(2140-1711 trước Tây-lịch), Thương (1711-1066 trước Tây-lịch), Chu
(1066-255 trước Tây-lịch) đều có luật lệ. Đến nay các bộ luật trên không còn nữa.

Bà đưa ra tập sách mỏng tiếp:

– Đây là bộ luật nước Trịnh, do Tử Sản soạn (536 trước Tây-lịch). Bộ
luật nước Tần do Triệu Dương-Hoán soạn, khắc vào đỉnh (513 trước
Tây-lịch). Bộ luật Trúc-hình do Đặng Tích soạn cho nước Trịnh (501 trước Tây-lịch) khắc vào thẻ trúc.

Bà đưa ra tập sách thứ nhì:

– Đến đời Chiến-Quốc (403-232 trước Tây-lịch) Lý Khôi soạn ra bộ Pháp-kinh. Bộ Pháp-kinh chia làm sáu thiên:

1. Đạo pháp (tội trộm).

2. Tặc pháp (tội cướp).

3. Tư pháp (hình phạt tù).

4. Bộ pháp (thủ tục).

5. Tập pháp (luật linh tinh).

6. Cư pháp (định nghĩa).

Khi soạn ra bộ Pháp-kinh, Lý Khôi đã tham khảo các bộ luật đương thời
của nước Ngụy, Trịnh về hình luật, nước Tần về thủ tục. Nước Chu về trộm cướp, định nghĩa. Bộ Pháp-kinh Lý Khôi soạn cho Ngụy Văn-Công (424-387
trước Tây-lịch). Song các pháp gia đời Thủy-Hoàng, đời Tây-Hán cho đến
nay đời Đông-Hán đều lấy đó làm căn bản.

Nói về luật lệ là vấn đề khô khan, tẻ lạnh. Song một là Hoàng Thiều-Hoa
đẹp như tiên. Hai là tiếng của bà trong, ngọt như cam thảo. Nên dù người ít đọc sách như Trấn-viễn đại tướng quân Hồ Đề, mà cũng theo dõi kịp.

Thiều-Hoa tiếp:

– Đến đời Cao-tổ nhà Hán (206-194 trước Tây-lịch). Thừa-tướng Tiêu Hà sửa đổi luật Lý Khôi, thêm vào ba chương nữa là:

1. Hộ luật, nói về kiểm tra dân số, giá thú, gia tộc.

2. Hưng luật, nói về thuế khoa, triều cống.

3. Khái luật, nói về quân đội, chuyên chở, chuồng voi, chuồng ngựa v.v.

Bộ Pháp-kinh có sáu thiên. Nay thêm ba thiên nữa thành chín thiên. Vì
vậy người ta gọi luật thời Hán Cao-tổ là luật Tiêu Hà hay Cửu chương
luật.

Bà đưa ra tập sách nữa:

– Kịp khi vua Quang-Vũ trung hưng nhà Hán. Giữa lúc đại ca Tự-Sơn đem
quân đánh Kinh-châu. Quang-Vũ thấy đại nghiệp sắp thành, mới sai sứ đến
Kinh-châu hỏi về việc canh cải luật. Đại ca Tự-Sơn đề nghị sửa chữa,
thêm bớt một số điều. Nhất là định rõ quyền hạn, tổ chức hậu cung, hầu
tránh nạn Vương Mãng. Song bản chất vẫn giữ nguyên như bộ Cửu-chương
luật.

Tổng trấn Luy-lâu Quách A hỏi:

– Không biết nội dung bộ Nam-luật như thế nào?

Nguyễn Tam-Trinh đáp:

– Khác nhiều lắm. Thứ nhất về nguyên tắc, thứ nhì về tổ chức. Về nguyên
tắc thì bộ Nam-luật đặt trên căn bản tục lệ và nhân trị. Bộ Pháp-kinh
đặt căn bản trên uy quyền và pháp trị. Tục lệ là gì? Khi một số người
sống chung với nhau, lâu ngày tự nó có những giao ước không thành văn,
dần dà biến thành tục lệ. Quốc-tổ đã chu du thăm trăm khu vực khác nhau. Sưu tầm phong tục, luật lệ của họ, về thu lại thành bộ luật chung. Còn
bộ Pháp-kinh đặt trên uy quyền. Vua muốn thế nào, thì cứ ban luật, dân
chúng phải tuân theo.

Bắc-bình vương Đào Kỳ hỏi:

– Điều này cháu đã nghe biết qua. Khi vua chúa ngồi trên, đặt ra luật,
trái với tập tục, bắt dân tuân. Dĩ nhiên họ không tuân, thế là họ bị bắt tội. Do vậy bên Trung-quốc hay xảy ra cảnh dân làm loạn. Thưa bác thế
còn nhân trị, pháp trị là gì?

Nguyễn Tam-Trinh tiếp:

– Luật đặt căn bản nhân trị, mục đích giáo hóa dân chúng hơn là dùng
hình pháp bắt tuân theo. Vua phải biết tu thân, làm gương cho người
trong nhà theo. Đó là đạo tề gia. Gia đình mình làm gương cho lân bang,
cho cả nước bắt chước. Đó là đạo trị quốc. Nước mình thanh bình, vua tôi đạo đức, khiến thiên hạ hướng về. Đó là đạo bình thiên hạ. Những điều
này chép đầy đủ trong sách Đại-học.

Bắc-bình vương Đào Kỳ nhìn Lục Mạnh-Tân. Vương chập chờn sống lại thời
thơ ấu, phải phiêu bạt làm tôi tớ tại Thái-hà trang. Được Lục Mạnh-Tân
yêu thương, tận tâm dạy dỗ. Lục còn dặn Vương:

– Với chí khí của con, sau này con sẽ thành đại nghiệp. Đại nghiệp
thành, con nên dùng nhân đức trị dân. Chứ đừng dùng hình pháp như nhà
Tần, nhà Hán bên Trung-nguyên.

Vì vậy Vương đỡ lời Nguyễn Tam-Trinh:

– Phò-mã An Tiêm đã từng nói: Người ta sinh ra vốn chưa biết gì cả. Khi
lớn lên, tiêm nhiễm thói xấu, thành ra phạm tội. Cần phải giáo hóa. Bên
Trung-quốc, sau đó gần hai nghìn năm, Mạnh-Tử nói Nhân chi sơ tính bản
thiện. Cũng như nước chảy chỗ trũng. Từ đời Chu (1066-770 trước
Tây-lịch) cũng dùng nhân trị. Cho đến thời Chiến-quốc, các pháp gia như
Hàn-Phi, Thương Ưởng, Lý Tư mới đưa ra pháp trị. Bộ Pháp-kinh soạn theo
nguyên tắc pháp trị.

Nguyễn Tam-Trinh cầm bộ Nam-luật đưa ra:

– Bộ Nam-luật có mười thiên. Khác xa với luật Trung-nguyên. Luật
Lĩnh-Nam hoàn toàn đặt trên nguyên tắc nhân trị. Nội dung có mười chương như sau:

1. Quốc-cương, nói về tổ chức triều đình, quan chế, hậu cung, sự truyền ngôi.

2. Bách-hầu, định rõ tổ chức, ranh giới, quyền hạn của các lạc hầu, lạc tướng.

3. Điển-lệ, định ra lễ nghi triều đình, cách tế lễ của vua cho tới thứ dân. Phương cách cúng giỗ tổ tiên.

4. Giá-thú, định việc cưới hỏi, tổ chức gia tộc. Bổn phận mỗi người trong gia tộc, cùng tang chế.

5. Hình-pháp, hình luật áp dụng trên toàn quốc. Tuy nhiên trong chương
này còn dự trù, mỗi địa phương có thể tăng hay giảm tùy theo tục lệ.

6. Khái-khố, tổ chức thuế khóa, công khố, ấn định giá cả.

7. Binh-luật, tổ chức binh bị. Phương cách thăng chức, tước. Hình phạt trong quân.

8. Hình-chế, định rõ thủ tục bắt giam, xử án, cùng các hình phạt đặt ra.

9. Tranh-tụng, thủ tục kiện thưa, bồi thường.

10. Phong-thần, định rõ thể lệ thờ cúng các thần. Những công lao được phong thần. Tài sản các đình chùa để cúng tế thần.

Công chúa Thánh-Thiên bàn:

– Như vậy bộ Nam-luật chi tiết hơn Cửu-chương luật nhiều. Có điều một số khoản không hợp với tình thế Lĩnh-Nam hiện tại. Như chương thứ bảy về
Binh-luật. Thời vua Hùng, quân trừ bị quốc gia rất ít. Lại nữa chỉ có
nam tướng, nam binh. Hồi hội binh ở Phiên-ngung bàn về tổ chức binh bị,
Bắc-bình vương đã có kế hoạch đầy đủ. Kế hoạch đó hiện đang thi hành.
Tôi thấy tổ chức binh bị như vậy kiện toàn nhất. Chúng ta cần tu bổ bộ
Nam-Luật, chứ không nên sửa đổi binh chế của Bắc-bình vương. Bởi chúng
ta tiến hơn nhiều. Nam cũng như nữ, đều có trách vụ với đất nước. Trong
các trang, lạc hầu đều cưỡng bách nam, nữ từ mười ba tuổi phải tập võ,
học binh sự. Từ mười tám, nam nữ đều được xung vào quân của lạc vương
hoặc quân quốc gia. Hiện các nữ tướng đông hơn nam tướng.

Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa tiếp:

– Tôi đồng ý với công chúa Thánh-Thiên. Về binh luật, phải sửa hoàn
toàn. Những gì Bắc-bình vương cho tổ chức, coi như thành luật rồi. Không cần phải thêm bớt nữa.

Triều đình thông qua mọi khoản. Cuối cùng quyết định cử một ủy ban tu
bổ. Ủy ban do Đại tư-không Nguyễn Tam-Trinh cầm đầu. Trong ủy ban có
Phùng Vĩnh-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, Đào Hiển-Hiệu, Nguyễn Thành-Công,
Phan Đông-Bảng, Vũ Công-Chất, Lê Chân, Hồ Đề, Lục Mạnh-Tân, và Nguyễn
Quý-Lan.

Vua Trưng ban chỉ dụ:

– Xét như các bộ luật Trung-quốc. Từ bộ Hình-thư của Tử Sản, đến bộ
Cửu-chương luật. Trẫm thấy các luật gia Trung-quốc quá câu nệ cổ nhân.
Những gì của Hình-thư, nay không hợp thời, thế mà vẫn giữ nguyên. Vậy
các vị tu bổ Nam-luật, thành bộ luật Lĩnh-Nam cần nhằm vào bằng này
điều:

° Một là những gì thành truyền thống, tục lệ của tổ tiên. Tuyệt đối không được sửa đổi.

° Hai là trọng quyền địa phương, tức tục lệ. Khoản nào thấy có sự trái
ngược với phong tục địa phương, cần phải có một điều châm chước. Như
Nam-luật bắt con gái phải kín cổng cao tường. Trong khi đó các sắc dân
Mường, Mán, Thái v.v. đêm đêm thiếu nữ thường ra suối cùng tắm với nhau. Phong tục sắc dân đó như vậy. Cần phải có một điều khoản dự trù, sao
cho không xáo trộn.

° Ba là tránh tập trung tài sản vào một số nhà giàu. Ấn định rõ, nhà
giàu nhất chỉ được ba mươi mẫu ruộng. Còn lại xung công. Cũng tránh
không nên để một người dân nào không có ruộng đất.

° Bốn là kể từ nay. Người nào có tài, có đức thì giữ quyền cai trị. Bỏ hẳn lối cha truyền con nối.

° Năm là duy trì chế độ một vợ, một chồng. Chế độ đa thê, đa phu bãi bỏ
hẳn. Luật cũng nên dự trù điều khoản đã rồi cho những người đa thê, đa
phu.

° Sáu là cưỡng bách học tập. Văn tự chính thức là Khoa-đẩu. Các khóa thi được tổ chức cả văn lẫn võ.

Ghi chú của tác giả:

Trong bộ Hậu Hán-thư của Phạm Việp, quyển hai mươi bốn (từ trang 727 đến 854) và quyển bảy mươi sáu (từ trang 2457 đến 2464) do Trung-hoa thư
cục hương cảng xuất bản 1978 có nhắc tới việc sau khi Mã Viện đánh chiếm được đất Giao-chỉ. Viện làm bản trần tấu về triều rằng sự khác biệt của luật Lĩnh-Nam với luật Trung-quốc đến mười điểm. Sự thực là gần như
khác hoàn toàn. Tiếc rằng hiện nay, không còn tìm ra được bộ luật đó
nữa. Buồn quá! Mà dù có tìm ra được, thì với loại chữ Khoa-đẩu, cũng chỉ để ngắm nhìn tiếc thương mà thôi.

Vào một buổi trưa, Trưng Đế đang cùng tam công, tể tướng, đại thần nghị sự. Hoàng môn quan vào tâu:

– Tâu bệ hạ có một lão bà đến trước cổng thành, đánh ba tiếng trống. Xin vào yết kiến bệ hạ. Thần cật vấn hỏi lý do. Lão bà không chịu nói. Xin
tâu để bệ hạ định liệu.

Trưng Đế truyền chỉ cho vào.

Lát sau, một bà già tuổi khoảng sáu mươi, mặt mũi lem luốc, đầu bù tóc
rối, quần áo dơ bẩn, bước vào đại điện. Bà liếc nhìn quần thần, rồi ngửa mặt lên trời mà cười.

Lễ-bộ thượng thư Nguyễn Quý-Lan hỏi:

– Lão bà tên họ là gì? Xin yết kiến triều đình có việc chi muốn nói.

Lão bà, bưng mặt cười khúc khích, rồi lại khóc hu hu nói:

– Than ôi! Trời đất tuy rộng bao la. Mà không một bóng người!

Nguyễn Quý-Lan quát:

– Ở đây có Hoàng-thượng, có triều thần trên trăm người. Sao lại bảo
không có ai? Là dân Lĩnh-Nam, lão bà phải biết lễ kính. Tội bất kính đối với triều đình, đáng đem ra chặt đầu.

Lão bà càng cười:

– Hoàng đế họ Trưng, xuất thân nghĩa hiệp. Tam công đều xuất thân nghĩa
hiệp. Tể tướng con nhà danh gia. Lễ-bộ thượng thư, là đệ tử phái
Tản-viên. Thế mà cũng hăm đem người ta ra chặt đầu hay sao? Thôi ta đi
đây. Thế mới biết nghe không bằng thấy. Ta chả thèm nói với bọn mi nữa.

Lão bà thủng thẳng bước đi. Nguyễn Quý-Lan vẫy tay. Hai nữ võ sĩ tới bắt giữ lão bà. Lão lạng người tránh khỏi. Thân pháp cực kỳ thần tốc.
Phương-Dung kêu lên một tiếng kinh ngạc:

– Úi chà!

Nguyên lão bà xử dụng thân pháp của phái Long-biên. Quách A hiện giữ
chức tổng trấn Luy-lâu. Nàng lạng người đến chụp lão bà. Lão đứng nguyên chờ Quách A chụp. Quách A chụp vai bà. Các ngón tay của nàng như chụp
phải phiến đá. Nàng nhảy lùi lại kêu lên một tiếng:

– Úi chà, đau quá!

Nàng vừa đứng dậy, lão bà đã ra khỏi điện. Quách A chạy theo. Nàng cầm
tù và thổi. Đoàn Thần-ưng hơn mười con bay đến tấn công. Lão bà cười
nhạt một tiếng. Hai tay vung lên trời, như hai chiếc hoa sen nở.
Thần-ưng thứ nhất lao xuống. Bị bàn tay của lão hút vào. Lão liệng ra
xa. Thần-ưng thứ nhì lao xuống, lại bị lão dùng chưởng hút mất. Phút
chốc cả mười Thần-ưng đều bị bắt. Lạ thay, mười Thần-ưng bị áp lực bàn
tay lão bà, không sao bay được.

Trưng Đế thấy vậy. Vẫy tay bảo Quách A:

– Sư muội, không được động thủ.

Binh-bộ thượng thư Chu Bá đứng ngoài nhìn thấy dáng dấp lão bà rất quen
thuộc. Trong nhất thời ông không nhớ ra đã gặp lão ở đâu. Ông hỏi:

– Xin cao nhân cho biết phương danh, quí tính.

Bà-lão cười nhạt:

– Các người tự nhận nghĩa hiệp, mà ta đánh trống xin vào trình bày kế
sách. Các ngươi không được lời chào hỏi. Cũng chẳng kéo ghế mời ta ngồi. Vì vậy ta mới bảo trời đất rộng. Mà chẳng có ai.

Bà lạng mình, chỉ thấy bóng trắng thấp thoáng, bà đã rút được kiếm đeo
phía sau Quách A. Uốn cong người, nhảy vọt lên không, bà lão quay đến
năm vòng liền, đáp xuống trước mặt Phương-Dung. Ánh kiếm đã loé lên đưa
vào cổ nàng, Phương-Dung nhảy lùi liền bốn bước, tay nàng rút kiếm phản
công. Song bà lão cũng nhảy theo, mọi người chỉ thấy hoa mắt lên,
Phương-Dung với lão bà đã chiết được trên mười chiêu.

Trưng Đế hỏi Chu Bá:

– Sư thúc! Người nghe nhiều, biết rộng! Có thấy nói trong phái Long-biên còn nữ cao nhân nào khác ngoài Nguyễn Phan tiên sinh không?

Chu Bá ngơ ngẩn xuất thần, một lúc rồi nói:

– Thần chưa từng nghe qua.

Quách A, Trần Năng sợ lão bà là gian tế, truyền dẫn Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ưng bao vây kín như thành đồng vách sắt.

Giữa vòng vây, lão bà với Phương-Dung quấn lấy nhau như hai quả cầu bạc. Không ai đủ nhãn lực phân biệt được kiếm của người nào. Trưng Nhị nói
với Trưng Đế:

– Kiếm pháp hai người cùng một môn hộ. Phương-Dung tuổi trẻ, thông minh. Lão bà kinh nghiệm, nội lực thâm hậu. Nếu đấu trong vòng ba trăm hiệp,
khó biết ai thắng, ai bại. Còn đấu ngoài ba trăm hiệp, e Phương-Dung
thua vì nội lực kém hơn.

Chu Bá ngơ ngẩn một lúc nói:

– Long-biên kiếm pháp, chỉ người chưởng môn mới học được hết tinh hoa.
Tôi tưởng hiện trên thế gian này, chỉ có Đào Kỳ, Phương-Dung,
Phật-Nguyệt biết xử dụng mà thôi. Không ngờ lão bà này lại cũng biết xử
dụng. Không biết bà là ai? Cứ như tuổi tác, ắt bà ngang vai với nhạc phụ của tôi.

Trần Năng ghé tai Chu Bá:


– Sư huynh coi kìa! Lão vừa xử dụng nội công Tản-viên, vừa xử dụng nội
công Long-biên. Lão khéo léo hợp hai thứ làm một. Cho nên kiếm chiêu khi âm, khi dương.

Hai người đấu được trên bốn trăm hiệp. Trưng Nhị sợ một trong hai người
bị tử thương, Lĩnh-Nam thiệt mất một kiếm khách. Bà bảo Trần Năng:

– Sư thúc vào can hai người ra đi.

Trần Năng vận Lĩnh-nam chỉ, chĩa lên không:

– Xin hai vị ngừng tay!

Miệng nói, bà phóng hai chỉ, véo, véo vào giữa kiếm hai người. Hai người bị chỉ lực Thiền-công mạnh như vũ bão, đẩy kiếm lệch ra ngoài. Cả hai
cùng lùi lại.

Phương-Dung chắp tay hướng lão bà:

– Đa tạ tiền bối nương tay.

Lão bà cười nhạt:

– Nương với chả nương! Ta cố gắng mà không thắng được mi.

Lão chỉ Trần Năng:

– Con nhỏ kia! Nội công của mi rõ ràng của Tản-viên, tại sao lại pha lẫn thứ nội công kỳ lạ. Dường như của phái Liêu-đông?

Câu nói vừa dứt, lão phóng chưởng đánh Trần Năng. Cả triều đình đều kêu
lên kinh ngạc. Vì chiêu bà phát ra tên Ngưu hổ tranh phong của Tản-viên. Công lực mạnh như núi lở băng tan.

Trần Năng không dám khinh thường. Bà vận khí ra Thủ-tam-dương kinh đỡ.
Bình, lão bà tóc dựng ngược, mắt lộ vẻ kinh khủng. Còn Trần Năng lui lại đến hai bước. Thắng bại đã phân.

Chu Bá đứng ngoài lược trận, kinh hãi nghĩ:

– Công lực sư muội hơn ta nhiều. Mà đối chưởng với lão bà này, còn bị
sút kém. Ta tưởng trên đời chỉ có Đào Kỳ với sư phụ, có thể thắng được
sư muội mà thôi. Lão là ai mà hết xử dụng kiếm pháp Long-biên đến xử
dụng chưởng Tản-viên?

Lão bà cười nhạt:

– Khá lắm! Thì ra lão già chưa chết Trần Đại-Sinh đã dốc túi truyền cho mi bản lĩnh một đời của lão. Hãy đỡ chưởng nữa của ta.

Lão bà vung tay ra chiêu Ngưu tẩu như phi. Chưởng phong không có gió
lộng. Đúng là chưởng âm nhu. Trần Năng không dám coi thường. Bà vận
Thiền-công Vô ngã giả tướng, cũng phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Chưởng
không có gió. Hai chưởng gặp nhau, sùy một tiếng. Cả hai đều lùi lại.

Lão bà ngơ ngẩn, tay ôm chưởng xuất thần suy nghĩ. Mắt mơ màng nhìn vào không gian xa vời.

Phương-Dung vẫy mọi người lùi lại.

Lúc đầu thấy lão bà dùng thân pháp Long-biên. Phương-Dung tưởng bà là
cao nhân bản phái. Sau khi chiết trên bốn trăm chiêu. Bà mới thấy kiếm
chiêu của lão bà không hoàn toàn giống Long-biên. Đôi khi còn pha thêm
nội lực Tản-viên vào nữa. Kiếm pháp của bà nhiều chỗ sai lạc. Song lão
bà kinh nghiệm chiến đấu, nên mới chống nổi.

Lão bà nói với Trần Năng:

– Ta lầm! Lúc đầu thấy chỉ lực của mi làm mất nội lực của ta. Ta cho
rằng mi xử dụng nội công Liêu-đông. Song qua chưởng vừa rồi, dường như
mi xử dụng một thứ nội công quang minh chính đại, hóa giải chưởng lực
của ta. Nội lực mi tới trình độ này, ta e hơn cả Lê Đạo-Sinh. Ai dạy mi
nội công đó.

Trần Năng lễ phép:

– Người dạy tiểu nữ không biết võ công. Ngài người Tây-Trúc, pháp danh Tăng-Giả Nan-Đà.

Lão bà khách khí hơn:

– Ta muốn lĩnh giáo mấy chiêu nữa của ngươi.

Bà phát chưởng tấn công Trần Năng. Chưởng của bà thuộc Tản-viên. Tay trái xử dụng âm kình, tay phải xử dụng dương kình.

Trần Năng vận Thiền-công, xử dụng Phục-ngưu thần chưởng. Bất cứ lão bà xuất chiêu nào, bà đều hóa giải được.

Trưng Nhị lược trận nói với Trưng Đế:

– Lão bà này học được cả nội công âm nhu của phái Long-biên. Nội công
dương cương của phái Tản-viên. Bà lại xử dụng Phục-ngưu thần chưởng, cả
cương lẫn nhu giống như Đào Kỳ. Em nghĩ có lẽ Đào Kỳ liên hệ tới bà. Hai ít ra y đã truyền tất cả sở học của y cho bà.

Hai người đấu với nhau đến chưởng thứ hai trăm, lão bà nhảy lùi lại:

– Ta phục ngươi. Ta nhận thua ngươi!

Lão bà ôm mặt khóc thảm thiết.

Trần Năng hỏi:

– Thưa tiền bối. Có lẽ tiểu bối ra tay nặng quá chăng?

Lão bà càng khóc lớn:

– Ta khổ công luyện võ bấy lâu, hy vọng tìm lão già chưa chết Trần
Đại-Sinh trả thù. Không ngờ… không ngờ, đến học trò y, mà ta không
thắng nổi, còn mong gì trả thù nữa.

Trần Năng lễ phép hỏi:

– Thưa bà, sư phụ tôi suốt đời chỉ biết lấy y đạo cứu thế. Đôi khi phải
ra tay, chẳng qua để cứu người mà thôi. Ngay trong trận Cẩm-dương, người bị đối thủ lừa dối, đánh trọng thương. Người cũng không nỡ giết. Không
hiểu người đã làm gì để bà thù hận người ? Ở đây có sư huynh Chu Bá với
tôi đều là đệ tử người. Sư phụ chúng tôi hiện vân du thiên hạ. Vậy bà có thể đánh, có thể mắng, có thể chửi chúng tôi. Chúng tôi xin gánh chịu
cho sư phụ. Không biết có được không?

Lão bà nhìn Trần Năng, rồi nhìn Chu Bá. Bà ngơ ngẩn xuất thần rồi hỏi:

– Ngươi họ Chu phải không? Ngươi được Lê Đạo-Sinh gả con gái cho. Vậy ngươi có biết cha, mẹ ngươi là ai không?

Chu Bá nghe lão bà hỏi bằng giọng kẻ cả. Ông đoán có lẽ bà biết tông tích của ông cũng nên. Ông nhũn nhặn:

– Chu-Bá này suốt đời có một mối hận, vì không biết gốc tích mình. Nếu lão bà biết, xin chỉ dạy. Hậu bối nguyền không quên ơn.

Lão bà cười:

– Dĩ nhiên ta biết. Ta biết người như ta biết ta vậy.

Chu Bá càng kính cẩn hơn:

– Trước đây, cha mẹ tôi khởi binh đánh đuổi giặc Hán, đều tử trận cả.
Tôi được một tỳ nữ của cha tôi đem đến trang Thái-hà ở, nuôi tôi khôn
lớn. Tôi được Lục trúc tiên sinh thu làm đệ tử, còn cho làm rể. Nhiều
lần gặng hỏi nhũ mẫu tên cha mẹ tôi, người nhất định không chịu trả lời. Chỉ bưng mặt khóc. Vì vậy tôi không dám hỏi thêm. Nhũ mẫu qua đời rồi,
mà tôi vẫn không biết cha mẹ tên gì? Gốc tích thân thế ra sao.

Vua Trưng an ủi Chu Bá:

– Anh hùng đâu quản xuất thân. Chu sư thúc, người đã thành đại anh hùng
Lĩnh-Nam, thì dù song thân thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn kính trọng
sư thúc.

Lão bà cười nhạt, hỏi Trưng hoàng đế:

– Các ngươi tự xưng anh hùng, mà tiếp đãi hiền tài như thế này ư?

Trưng đế bảo Phương-Dung:

– Lỗi ở ta. Sư muội. Hãy kéo ghế mời lão bà an vị.

Phương-Dung nhìn thân pháp, võ công của lão bà, biết lão có liên hệ với
phái Long-biên. Bà vội kéo ghế mời lão bà ngồi, truyền rót nước, đem
bánh trái kính cẩn:

– Xin cao nhân cho biết quí tính phương danh.

Lão bà không nhân nhượng, ngồi xuống ghế, cầm bánh ăn. Ăn hết đĩa bánh,
tự rót nước trà, uống hết một bình. Lão vỗ hai tay vào nhau, hỏi
Phương-Dung:

– Con bé ngạnh đầu kia! Ngươi là Tể tướng Lĩnh-Nam trăm sự của Xã-tắc đều do người cả. Có đúng thế không ?

– Quả như bà nói.

– Ngươi ra lệnh khuyến khích phá đất hoang làm ruộng, trồng dâu, nuôi
tằm. Được! Ngươi treo thưởng cho ai trồng được thửa ruộng có số thu cao! Được! Ngươi khuyến khích nuôi cá, lợn, gà, trâu, bò. Được. Song ngươi
ngu quá!

Phương-Dung thấy lão nói năng ngỗ nghịch. Nhưng bà thấy lão xử dụng võ
công Long-biên đến trình độ ngang với mình, có thể bà là tiền bối cùng
môn hộ, nên bà nhũn nhặn:

– Tiểu bối xin rửa tai nghe lời lão bà.

Lão cười khạnh khạch:

– Ngươi ban lệnh, cứ tưởng dân chúng ai cũng như ngươi. Ngươi muốn nước
giàu phải không? Nhưng ngươi có biết rằng dân chúng khá giả một chút, họ sinh lười, không làm việc nữa. Thành ra đất Lĩnh-Nam cũng không hơn
Trung-Quốc làm bao. Ta hỏi ngươi: Ngươi khuyến khích họ nuôi gà, nuôi
lợn, nuôi trâu bò. Dân chúng khá một chút, có trứng gà mang ra ăn, giết
lợn sữa, giết nghé tơ ăn… thì làm sao mà giàu được?

Phương-Dung tỉnh ngộ:

– Tiểu bối ngu tối, không nghĩ đến. Ngay ngày mai, tiểu bối sẽ ban lệnh: Không được ăn trứng gà, vịt trong vòng một năm. Không được giết lợn
sữa, giết nghé.

Lão già lại cười:

– Ta còn phải dạy dỗ mi nhiều nữa. Mi truyền lệnh: Triều đình khuyến
khích gia tăng nhân xuất. Chỉ khuyến khích thôi! Thì ai nghe. Giá như
một vợ, một chồng, đẻ liền năm đứa con, đôi vợ chồng ấy, với bầy con sẽ
ăn cỏ mà sống hay sao?

Phương-Dung tỉnh ngộ:

– Hậu bối sẽ ban lệnh: Đàn bà có mang từ bảy tháng, cho đến sau khi sinh con sáu tháng, được trợ cấp gạo, vải. Nhà nào có trẻ con dưới mười ba
tuổi, một mẫu ruộng không phải nộp thuế. Nhà nào một vợ một chồng, sinh
được năm con., những đứa trẻ ấy, lạc hầu phải xuất kho nuôi nấng.

Thình lình lão bà xuất trảo tấn công Chu Bá. Bà đang nói truyện, ra tay
cực kỳ thần tốc. Chu Bá không phản ứng kịp. Ông nhảy lui về sau hai
bước, phóng Lĩnh-nam chỉ đỡ chưởng của bà. Song áo ông đã bị rách hở cả
vai lẫn ngực.

Lại đến lượt lão bà la lên một tiếng kinh ngạc:

– Đúng! Ngươi họ Chu song tên không phải là Bá mà là Đức-Anh. Ngươi tên Chu Đức-Anh.

Chu Bá kinh ngạc. Ông lùi lại:

– Xin lão bá dạy cho ít lời.

Lão bà ngồi xuống ghế cười nhạt:

– Còn dạy gì nữa. Ngươi lại đây ta nói cho mà nghe.

Chu-Bá đến bên cạnh lão, nhưng ông ớn lão ra tay bất thần. Ông vận công đề phòng. Bà ghé tai nói nhỏ mấy câu. Chu Bá lắc đầu:

– Tôi không tin.

Lão bà cười nhạt:

– Ngươi không tin ư? Ta nói ra cũng không sao. Khi ngươi được một tuổi.
Ngươi bị chó cắn vào vai trái. Đến nay thẹo vẫn còn. Giữa vú trái ngươi
có mụn nốt ruồi đỏ. Như vậy đủ chưa? Ngươi là cháu ta. Ta là cô ngươi.
Ngươi giống anh ta như đúc.

Chu Bá kinh hoàng, đến trước lão bà quì gối:

– Cháu kính cẩn ra mắt Cô mẫu.

Lão bà, để cho Chu Bá lạy đủ bốn lạy. Bà ôm đầu Chu Bá khóc:

– Cháu ơi! Cô cứ tưởng cháu chết rồi! Không ngờ cháu còn sống trên thế gian này. Giòng họ Chu của ta không tuyệt tự.

Từ hồi có trí nhớ, mối khổ tâm, đau đớn trong lòng Chu Bá, dằn vặt ông,
vì ông không biết rõ nguồn gốc mình: Cha, mẹ, họ hàng, sinh quán ở đâu.
Ông ở với một nhũ mẫu mù lòa, câm điếc. Bà không biết chữ. Bà làm lụng
cực kỳ vất vả để nuôi ông. Hàng xóm cho biết: Hồi ông được ba tuổi, nhũ
mẫu bồng ông đến trang Thái-hà xin cư ngụ. Bà bị thương tích đầy người.
Lê Đạo-Sinh thương tình, cho thầy thuốc cứu trị. Bà không chết, song trở thành tàn tật. Bà được trao cho việc đan chiếu, đan rổ, sống qua ngày.
Đến khi Chu Bá lớn lên, học hành thông minh. Lê Đạo-Sinh thu làm đệ tử.
Ông được Lê gả con gái cho. Từ đấy ông sống một cuộc đời giàu có, sang
trọng. Song nỗi khổ tâm về xuất thân, vẫn không được giải. Có lần Lê
Đạo-Sinh úp mở cho ông biết: Cha mẹ ông trước đây, từng khởi nghĩa phục
Việt, bị thất bại, cả hai đều tử trận. Ông hỏi thêm, Lê lắc đầu, trả lời không biết.

….

Trước kia thân phụ Chu Bá xuất thân là một lạc hầu, có chí lớn. Năm Chu
Bá được ba tuổi. Ông cùng vợ, và em gái tên Chu Tái-Kênh khởi binh phản
Hán phục Việt. Được nửa năm sau, nghĩa quân bị đánh tan. Song thân Chu
Bá chết tại trận. Tái-Kênh vừa chiến đấu, vừa ôm Chu Bá chạy trốn. Quân
Hán đuổi theo bao vây trùng trùng điệp điệp. Tái-Kênh chiến đấu cho đến
lúc ngã xuống không biết gì nữa.

Khi nàng tỉnh dậy, thì thấy mình nằm trên giường, người đầy vải băng bó. Một trung niên nam tử xuất hiện bưng nước cho nàng uống. Nàng hỏi:

– Đây là đâu? Cháu tôi đâu?

Trung niên nam tử xưng mình họ Trần tên Đại-Sinh. Ông cho biết, chính
ông đã xung vào vòng vây quân Hán, cứu được Tái-Kênh ra. Còn đứa cháu.
Trong lúc chiến đấu, bị thất lạc mất.

Tái-Kênh dưỡng bệnh ở trang ấp Trần Đại-Sinh ít lâu sau thì khỏi. Nhà
tan, cửa nát, nàng không còn chỗ dung thân. Trần Đại-Sinh tỏ ý lưu nàng ở lại trang của ông. Hai người cách nhau đến hai mươi tuổi. Trần Đại-Sinh đã đến tuổi bốn mươi. Còn Tái-Kênh mới ở tuổi hai mươi. Ông chưa cưới
vợ. Hai người hàng ngày trao đổi võ công. Bấy giờ Trần Đại-Sinh mới biết nàng thuộc phái Long-biên. Chỉ một năm, hai người thương yêu nhau. Họ
thành vợ chồng. Một năm sau, Tái-Kênh sinh ra đứa con gái. Nàng đặt tên
là Trần Thiếu-Lan.

Hai vợ chồng sống bên nhau suốt hai mươi năm đầm ấm. Năm Thiếu-Lan hai
mươi tuổi. Ông bà gả cho đệ tử phái Long-biên tên Trần Anh. Năm sau
Thiếu-Lan sinh đôi, đẻ ra Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa. Hai vợ chồng Trần Anh là
người có chí lớn. Ông bà liên lạc với anh hùng thiên hạ, định khởi binh
phản Hán phục Việt. Trần Đại-Sinh khuyên không nên, vì chưa đến lúc,
phải ẩn nhẫn, chờ khi tiềm lực đủ, hãy phất cờ. Còn như khởi binh sớm
chỉ thêm mất mạng vô ích. Tái-Kênh không chịu, đòi khởi binh ngay. Thế
là hai vợ chồng Trần Đại-Sinh bất hòa.

Ông khuyên bà:

– Phàm muốn khởi binh làm đại sự, cần kết hợp anh hùng thiên hạ. Người
người đồng tâm, mới hy vọng thành công. Nay nhà mình, tôi không có trang ấp. Lực lượng của ta chỉ có một trang của Trần Anh, tráng đinh chưa quá ngàn người. Nếu như ta bất thần khởi binh, giỏi lắm chỉ đủ sức đánh
chiếm một huyện. Sau đó quân Hán các nơi kéo đến, sức người đã không đủ
chống giặc, còn lương thảo không đủ nuôi quân trong ba tháng. Thế mà ta
khởi binh thì tan nhà cửa nát vô ích mà thôi.

Tái-Kênh cương quyết:

– Cách đây hai mươi năm, anh tôi khởi binh. Tuy không thành công, cũng
đốt được ngọn lửa phục quốc lên. Nay Tích Quang đang núp sau đại nghĩa:
Đem văn hiến Trung-nguyên dạy dỗ man di mọi rợ. Ông không thấy dân chúng cúi đầu ca tụng chúng như bậc thánh đó sao? Tôi muốn khởi binh, truyền
hịch kể tội y, lột mặt nạ giả nhân giả nghĩa, mưu Hán hóa người Việt.
Ông không muốn giúp tôi với con cũng được. Ông nên lánh mặt đi. Chúng
tôi nguyện đem cái chết đền ơn Quốc-tổ.

Bà cầm thanh kiếm bẻ làm đôi thề:

-Nếu tôi thành công. Ông đừng vác mặt về nhìn mẹ con chúng tôi. Ngược
lại, tôi thất bại, dĩ nhiên tôi chết. Ông cũng không cần thương xót, làm gì.

Thấy vợ, con gái, con rể nhất quyết khởi binh. Ông rủ Nguyễn Phan, dẫn
thêm Đặng Thi-Sách, du ngoạn Trung-nguyên, lánh mặt. Ở nhà Tái-Kênh cùng con rể, con gái khởi binh. Lúc đầu đánh chiếm được hai huyện. Trong khi đánh chiếm huyện Bắc-đái, nghĩa quân bị bại. Trần Anh bị giết tại trận. Tái-Kênh, Trần Thiếu-Lan bị bắt. Thiếu-Lan có nhan sắc, bị thái thú
Tích Quang gửi sang Trung-nguyên cống cho Xích-My. Còn Chu Tái-Kênh bị
đem chém. Trước hôm bà bị hành hình, Lê Đạo-Sinh vào ngục thăm bà. Y
khóc lóc thảm thiết rằng: Y làm đô úy Giao-chỉ, chẳng qua để giúp đỡ

người Việt. Bây giờ y không biết làm cách nào cứu bà. Cuối cùng, giữa
lúc bà tuyệt vọng, y đề nghị, sẽ đem người vào thế mạng chịu chết cho
bà. Còn bà, y khuyên không nên rời Thái-hà trang. Y dành cho bà một khu
nhà biệt lập, cấp cho bà hai thị nữ hầu hạ.

Bản tính Tái-Kênh cương cường, can đảm. Nhưng sau khi khởi nghĩa bị thất bại, nghĩa quân tan vỡ, con rể chết, con gái bị lưu đày, mình bị chết
chém. May được Lê Đạo-Sinh cứu sống, bà mất hết chí khí, hận thù đời.

Nghe tin Trần Đại-Sinh từ Trung-nguyên về, bà cũng không muốn gặp mặt.
Trần Đại-Sinh tưởng vợ bị chết rồi. Ông không thiết tục huyền, ngao du
thiên hạ lấy y đạo cứu dân.

Chu Tái-Kênh ẩn ở trang Thái-hà. Thỉnh thoảng Lê Đạo-Sinh tới thăm bà. Y ngỏ với bà rằng: Y có chí lớn, muốn phục hồi Lĩnh-Nam. Y đang xây dựng
lực lượng, kết nạp anh hùng. Bà hăm hở giúp y. Y khuyên bà nên cải trang thành một người Mường, đi các trang ấp huấn luyện, tổ chức tráng đinh
cho y. Bà vui vẻ làm việc. Lê Đạo-Sinh thiết lập một trang trại, trong
vùng rừng núi Giao-chỉ, giao cho bà trông coi. Y truyền tất cả trang ấp
của y, của học trò y, gửi tráng đinh về cho bà huấn luyện. Vì vậy, tráng đinh thuộc sáu mươi hai trang ấp dưới quyền Lê Đạo-Sinh và đệ tử rất
thiện chiến, hùng mạnh như các đội quân chuyên nghiệp. Đệ tử Lê Đạo-Sinh ít được gặp bà. Họ chỉ biết bà có tên mẹ Chu. Ai cũng phải gọi bà bằng
mẹ hết.

Trong khi ở trên rừng, dạy tráng đinh, cô độc, không người tâm sự, bao
nhiêu oán hờn chồng chất, bà đổ lên đầu chồng. Bà cho rằng vì chồng
không giúp đỡ, bà mới thất bại. Bà quyết chí luyện võ, đợi một mai Lê
Đạo-Sinh khởi binh, chính thân bà sẽ cầm quân đánh giặc. Đuổi giặc rồi,
bà dùng võ công đánh bại Trần Đại-Sinh, để hạ nhục ông.

Có lần bà tìm được tung tích ông. Đêm, bà bịt mặt tấn công ông. Đấu với
nhau được mười chưởng. Bà mới biết võ công mình còn kém ông xa. Từ thất
bại, muốn thành công, bà đi vào đường tà. Bà nghĩ: Lê Đạo-Sinh võ công
cao cường. Nếu bà có được cuốn sách chép bí quyết của y, có thể thắng
chồng. Nghĩ là làm. Bà giả đau, vì khí hậu trên rừng không hợp với bà.
Lê Đạo-Sinh tạm cử người thay thế bà coi trường luyện quân. Y đem bà về
trang Thái-hà dưỡng bệnh. Y không đề phòng, bị bà lấy trộm mật thư, học
hết võ công của y. Sau ba năm luyện võ, bà bí mật trở lại chỗ Khất
đại-phu ở, tấn công ông. Song cũng chỉ được trăm chiêu bà bị bại. Lần
này, Khất đại phu kinh ngạc không ít. Ông cố moi óc xem, trong đời, ông
đã gây thù với ai, mà ba năm trước một người thân hình nhỏ bé, rõ ra
dáng phụ nữ, đến tấn công ông, không nói một lời. Sau ba năm, trở lại,
với bản lĩnh không thua ông làm bao. Lạ một điều, võ công người này lại
là võ công Tản-Viên? Tuy thắng đối thủ, song ông không nỡ hại. Cũng
không nỡ gỡ khăn bịt mặt ra. Ông thả cho đi.

Chu Tái-Kênh trở về Thái-hà trang, quyết tâm luyện võ, mong trả thù Khất đại-phu.

Thời gian Đào Kỳ bị làm nô bộc ở trang Thái-hà, là thời gian bà đang mưu phục thù. Bà nghĩ: Muốn thắng Trần Đại-Sinh, cần học nội công âm nhu
phái Long-biên. Đêm đêm bà rình ở nhà tù, đợi Nguyễn Phan cung khai bí
quyết luyện công, lập tức bà lấy cắp luyện. Song bà không thành công.

Cho đến khi Đào Kỳ được Nguyễn Phan truyền nội công âm nhu, cùng kiếm
trấn môn phái Long-biên. Bà núp nghe trộm, từ đó, bà luyện được kiếm
pháp Long-biên. Có điều bà núp xa nghe, không được nhìn tận mắt các
chiêu thức, thành ra kiếm pháp của bà hơi khác kiếm pháp nguyên thủy. Vì vậy đấu với Phương-Dung, tuy bà có nội công cao hơn, kinh nghiệm nhiều, mà không thắng được đối thủ.

Hàng đêm, bà theo dõi Đào Kỳ, do đó bà biết chỗ dấu các thẻ đồng bộ Văn
lang võ học kỳ thư. Bà đào lên, học thuộc các câu quyết rồi lại trả về
chỗ cũ. Vì vậy Đào Kỳ không biết gì cả. Tuy bà luyện được đủ ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng, cả cương lẫn nhu. Song bản lĩnh của bà
không bằng Đào Kỳ, vì Đào Kỳ phát minh ra lối qui liễm chân khí âm,
dương, hợp làm một, công lực ông cao không biết đâu mà lường.

Chu Tái-Kênh luyện xong bộ Văn lang võ học kỳ thư, bà đi tìm Khất đại
phu trả thù. Thì ông đang trên đường tòng chinh Trung-nguyên. Bà lặn lội tới Dương-bình quan, đúng lúc ông đi Lạc-dương với Đào Kỳ. Bà tìm tới
Lạc-dương ông lại trở về Lĩnh-Nam. Bà trở về Lĩnh-Nam, thấy Lĩnh-Nam
phục hồi, Trưng Đế phong các công thần, tổ chức Lĩnh-Nam thành một nước
thái bình. Dân chúng sung sướng. Bà cho rằng Trưng Đế thành công vì nhờ
chồng mình giúp. Uất khí, oán hờn chồng chất, bà tìm chồng khắp nơi,
không thấy. Bà nghĩ đến phá hoàng cung Mê-Linh cho bõ ghét. Không ngờ
khi xuất thủ, kiếm thuật bà thua Phương-Dung, chưởng lực bà thua
Trần-Năng.

…..

Chu Tái-Kênh hỏi Chu Bá:

– Sư phụ cháu đâu? Ta phải giết y để trả thù.

Chu Bá quì xuống đất lạy tám lạy:

– Cô xa cháu năm cháu ba tuổi. Đến nay cháu đã bốn mươi lăm tuổi, mới
trùng phùng. Sư phụ cháu vốn ít nói, tính tình hiền hậu. Ngày cô khởi
binh, người không hưởng ứng, vì thấy khởi binh chỉ đưa đến cái chết cho
hàng mấy ngàn tráng đinh, người mới cản trở, không chịu hợp tác. Hôm
người qua Trường-sa, đến bờ sông Tương-giang, viếng mộ biểu muội Trần
Thiếu-Lan, người khóc đến chảy máu mắt.

Chu Tái-Kênh nhảy lên:

– Sao? Sao? Tại sao mộ Thiếu-Lan lại ở hồ Động-đình?

Trưng Nhị tường thuật tỷ mỉ cuộc đời thảm thiết của Trần Thiếu-Lan cho bà nghe. Bà oà lên khóc nói:

– Thì ra con tôi vẫn còn sống! Hai đứa cháu ngoại vẫn còn. Hỡi ơi! Suốt
mấy chục năm qua, tôi ẩn ở trên rừng, trên núi, không biết tin tức gì
cả.

Bà bảo Chu Bá:

– Cháu! Cháu với cô phải đi Trung-nguyên, giết con ác phụ Mã thái hậu,
tìm vợ chồng Phan Anh, Trần Nghi-Gia giết đi, để trả thù cho em. Đi! Cô
cháu mình đi ngay bây giờ.

Trần Năng đến trước mặt Chu Tái-Kênh quì xuống làm lễ:

– Đệ tử Trần Năng, xin tham kiến sư nương.

Chu Tái-Kênh đỡ Trần Năng dậy:

– Được, ta vì hai đứa bay! Tha cho sư phụ bay!

Phương-Dung cùng Đào Kỳ đã được nghe Khất đại-phu kể về người vợ tên Chu Tái-Kênh. Vì nhiệt thành yêu nước, mà hóa ra con người kỳ quặc. Biết vợ còn sống, ông lặn lội khắp nơi tìm không thấy, không ngờ, bây giờ bà
xuất hiện tại đây.

Phương-Dung nghĩ thầm:

– Bà cụ này võ công kinh nhân. Tài năng mẫn tiệp. Chỉ vì yêu nước, nóng
lòng với dân tộc mà thành quái nhân. Ta hãy khơi lòng yêu nước của bà.
Hầu dùng bà còn hơn để bà bất mãn.

Phương-Dung kính cẩn thưa:

– Lão bá! Đất nước được phục hồi, do công lao của toàn thể dân Lĩnh-Nam, chứ không phải của Trưng sư tỷ! Hay của bất cứ ai. Nếu không có cuộc
khởi nghĩa của song thân Chu sư thúc thì không có cuộc khởi nghĩa của bà với Trần Anh, Trần Thiếu-Lan. Không có cuộc khởi nghĩa của bà, e ngọn
đuốc phục quốc tắt ngấm, chính vì nhờ lão bá, khiến anh hùng ngụt lửa
yêu nước, nay Lĩnh-Nam mới được phục hồi. Hôm nay lão bá lại quang lâm,
dạy dỗ cho cháu nhiều điều. Cháu xin đa tạ lão bá.

Trưng Nhị tiếp:

– Hai sư muội Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa chẳng là cháu ngoại của lão bá đấy ư?
Hai sư muội đang làm đại tướng, trọng nhậm biên cương. Lão bá là bà
ngoại, không lẽ không bằng các cháu ư?

Chu Tái Kênh mở to mắt nhìn Phương-Dung, Trưng Nhị:

– Mấy con lỏi này, biết lẽ phải trái, không giống lão ăn mày. Ta phục
các ngươi. Ừ, ta thuộc lớp người bà nội, bà ngoại các ngươi, không lẽ
thua các ngươi. Ta phải làm điều gì thực vĩ đại mới được. Thôi, bảo Đào
Kỳ giao ấn Đại tư-mã cho ta. Ta đánh lên Lạc-dương chiếm Trung-nguyên
cho hả giận.

Phương-Dung biết lời khích của mình đã thành công, bà đưa mắt nhìn Trưng Nhị:

Trưng Nhị chắp tay kính cẩn:

– Có một việc, tất cả chúng cháu đều không làm được. Trên đời này chỉ
Thái sư thúc Khất đại phu làm được mà thôi. Cháu nghĩ, lão bá chưa chắc
đã làm được. Không biết bây giờ Thái sư thúc ở đâu?

Trưng Nhị nói xong, liếc nhìn Trưng Đế. Cả hai cùng ngơ ngẩn nhìn về chân trời xa. Trưng Đế cũng nói:

– Thái sư-thúc như con rồng, khi ẩn khi hiện, không biết đâu mà lường.
Làm sao tìm được người bây giờ? Khổ một điều ngoài người ra, không ai
làm được cả.

Chu Tái-Kênh, là lọai người ruột để ngoài da. Nghe Trưng Nhị nói vậy, bà không biết mình bị khích, lòng tự ái nổi dậy, bà hét be be:

– Cái gì mà lão làm được, ta lại làm không được ? Nói mau, nói mau, ta
làm cho mà coi. Nói mau, nếu không ta đánh cho mấy bạt tai bây giờ !

Phương-Dung đổ dầu thêm vào ngọn lửa:

– Đúng đấy, phải đi tìm Khất đại-phu về mới xong. Khắp thiên hạ ngoài ngài không ai làm được việc này.

Chu Tái-Kênh tức quá, tóc dựng đứng, mắt mở to, miệng lắp bắp:

– Việc gì, nói đi! Ta quyết làm. Nói mau.

Trưng Đế thấy khích bà như vậy đã đủ. Ngài phán:

– Nếu lão bà quyết tâm, vậy chúng ta cứ nhờ người làm dùm. Thử xem biết đâu !

Trưng Nhị nói:

– Thưa lão bà, hiện con gái của Chu sư thúc là Chu Tường-Qui, được
Quang-Vũ phong là Tây-cung quí phi. Tường-Qui tuy làm quí phi, mà lòng
dạ lúc nào cũng nghĩ đến Lĩnh-Nam. Sư muội ở cạnh triều Hán, kết thân
với đại thần, khiến mọi người cản trở Quang-Vũ khởi binh đánh Lĩnh-Nam.
Chỉ cần y để Lĩnh-Nam yên năm năm, chúng ta không sợ y nữa. Trước kia
Tường-Qui được mẫu thân giả làm cung nữ, ẩn trong Tây-cung giúp đỡ. Sau
này Chu sư thẩm tuẫn quốc, Tường-Qui thân cô thế cô giữa hang hùm, miệng rắn.

Chu Tái-Kênh nước mắt đầm đìa:

– Tội nghiệp cháu tôi quá! Sao hoàng đế không gửi người sang giúp cháu tôi. Nước mình nhân tài nhiều quá mà.

Phương-Dung tiếp:

– Hôm rời Trường-sa về Giao-chỉ. Chúng cháu định cử Đào Phương-Dung,
Đinh Hồng-Thanh sang giúp Tường-Qui. Song Đinh Hồng-Thanh đã tuẫn quốc
mất rồi. Và Đào Phương-Dung, võ công tuy cao, song cũng không địch lại
Liêu-đông tứ ma. Chúng cháu muốn nhờ Khất đại-phu sang Trung-nguyên, lấy cớ chữa bệnh giúp triều đình nhà Hán, hầu giúp Tường-Qui. Song nay lão
bá quyết tâm ra tay chúng cháu xin kính cẩn nhờ lão bá.

Tái-Kênh chỉ vì quá yêu nước mà thành người nóng nảy. Nay nghe việc giúp Tường-Qui không ai làm được, chỉ mình bà làm nổi, bà đã hả dạ. Bà nói:

– Được! Ta đi giúp đỡ. Ngặt nó không biết mặt ta. Làm sao ta giúp nó được.

Chu Bá nói với Phương-Dung:

– Chúng ta cần có thêm người võ công cao, theo cô mẫu. Không biết cử ai đi được?

Phương-Dung ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:

– Chúng ta cần hai người giúp lão bá. Một người lớn tuổi võ công cao,
một người biết điều khiển Thần-ưng thông tin. Ngặt một điều, chúng ta
đều đã xuất hiện. Người Hán biết mặt hết rồi. Tôi nghĩ chỉ có hai người
đi được. Song tôi không dám sai. Hai người này, ngoài Trưng sư tỷ ra,
không ai dám cử đi.

Trưng Đế gật đầu cười:

– Ta hiểu rồi! Người thứ nhất là Đào vương phi. Người thứ nhì là Tây-vu Quách A. Có phải thế không?

Phương-Dung gật đầu. Trưng Đế cười:

– Đào vương phi một lòng với đất nước như Thái sư thẩm đây. Chắc chắn
tôi nhờ, người sẵn sàng ngay. Còn Quách A mới lấy chồng, bắt xa chồng
thì tội nghiệp. Tôi nghĩ nên cử Tây-vu tiên tử có lẽ hay hơn.

Trưng đế sai viết chiếu chỉ mời Đào vương phi đến Mê-linh, rồi sai Thần-ưng mang đi.

Trưng Đế giao cho Chu Bá, Trần Năng tiếp đón, làm tiệc đãi Chu Tái-Kênh. Các đại thần thuộc phái Tản-viên như Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công đều ở vai dưới của Khất đại phu đến hai, ba bậc. Họ kính trọng ngài như
tiên ông, vì vậy họ đối với Tái-Kênh cực kỳ cung kính. Bà bớt phẫn hận
chồng phần nào.

Trong tiệc trà, bà được Trưng Nhị tường thuật tỷ mỷ công cuộc phục hồi
Lĩnh-Nam trải qua không biết bao nhiêu cay đắng cho bà nghe. Bà mới tỉnh ngộ rằng: Trước đây mình vô lý, muốn nuốt mặt trời, mặt trăng. Bà hối
hận, muốn tìm Khất đại phu, tạ lỗi, nhưng không biết ông ở đâu.

Trong khi bàn về võ công, bà tự hiểu bản lĩnh mình hiện còn thua chồng
với Đào Kỳ xa. Lòng tự kiêu giảm bớt đi rất nhiều. Tiệc đang vui, Quách A chạy vào tâu với Trưng Đế:

– Sư tỷ! Em đến chịu lỗi với sư tỷ.

Nàng bưng mặt oà lên khóc.

Trưng vương dắt Quách A ngồi xuống, hỏi:

– Có việc gì xảy ra.

Quách A khóc:

– Em làm tổng trấn Mê-linh, không biết kiểm soát, để gian nhân vào phá
ngục cứu Tô-Định với bọn Đức-Hiệp ra. Chúng giết chết mười hai người coi ngục. Em đã cho Thần-ưng tìm, trong khoảng trăm dặm không thấy tung
tích chúng đâu.

Phương-Dung nhờ Lễ-bộ thượng thư Nguyễn Quí-Lan tra xét dùm. Nguyễn Quí-Lan đi một lúc trở về, báo:

– Quách A không có lỗi. Gian nhân đột nhập nhà ngục, dùng chưởng lực
đánh vỡ hết then cửa, chặt xích, cứu tù nhân, giết mười ba quân coi
ngục. Dù Quách-A có hiện diện cũng không phải đối thủ của chúng.

Nàng đưa ra cái gông bằng gỗ, bị chưởng lực tiện đứt như con dao sắc, cắt một củ khoai. Phương-Dung cầm lấy coi nói:

– Trên đời này, e chỉ có Bồ-tát Tăng-Giả Nan-Đà với Đào tam lang mới có
chưởng lực mạnh dường này. Không ngờ còn có người thứ ba đạt tới trình
độ không thể tưởng tượng được.

Trần Năng hít một hơi, vận Thiền-công phóng vào gông. Cái gông bật lên,
bị tiện đứt đôi, song vẫn có chỗ gồ ghề, chứ không đứt ngọt, trơn như bị gian nhân đánh. Tái-Kênh vận khí, phát chiêu Phục ngưu thần chưởng đánh xuống. Cái gông bị vỡ ra làm nhiều mảnh nhỏ vụn. Bà nói:

– Kẻ nào mà võ công đến dường này?

Nguyễn Quí-Lan thở dài nói tiếp:

– Điều kỳ lạ hơn nữa. Gian nhân giết chết hai mươi người trông coi năm
dàn Thần-nỏ ở cửa đông thành Mê-linh. Chúng tháo Thần-nỏ ra từng mảnh,
chở đi mất.

Phương-Dung lo ngại:

– Chắc chắn cũng người cứu bọn Đức-Hiệp đã làm điều đó. Nếu chúng tháo
mang đi, bắt chước chế tạo, làm phản thì không ngại. Đáng ngại, là chúng ăn cắp trao cho Quang-Vũ. Quang-Vũ chế tạo, đánh chúng ta mới nguy.

Chu Tái-Kênh hỏi Chu Bá:

– Này cháu! Lê Đạo-Sinh có mười đệ tử. Phùng Chính-Hòa bị Nghiêm Sơn
chặt đầu. Vũ Nhật-Thăng bị Đào Thế-Hùng giết. Hoàng Đức theo Lĩnh-Nam.
Vợ cháu thì tuẫn quốc. Như vậy còn năm người vượt ngục cùng với Tô Định. Có phải vậy không?

Chu Bá kính cẩn đáp:

-Thưa cô mẫu, đúng như vậy. Vợ chồng Vũ Hỷ bị Phương-Dung cắt mất hai tai. Tuy vậy võ công chúng vẫn còn nguyên.

Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Phương-Dung phải viết thư, truyền tin này đến tất cả lạc vương, cùng

bảy đại tướng quân thống lĩnh bảy đạo quân, nhờ báo cho cả đạo Trường-sa của Phật-Nguyệt. Mặt khác chị sẽ viết thư cho Công-tôn-Thiệu, Thục-đế
hầu họ đề phòng. Cuộc vượt ngục này, ắt có liên hệ với Mã thái-hậu, Mã
Viện chứ không sai.

Hơn tháng sau. Hoàng môn tâu:

– Có Đào vương phi ở Cửu-chân xin vào yết kiến.

Trưng Đế tuyên lệnh cả triều thần ra đón.

Uy tín Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt cực kỳ lớn tại Lĩnh-Nam. Chỉ nguyên
em ruột là Đào Thế-Hùng, em vợ là Đinh Đại, cũng từng nổi danh hơn mười
năm qua, về lòng yêu nước. Các đệ tử Cửu-chân: Đào-Kỳ, Phương-Dung,
Hiển-Hiệu, Quí-Minh v.v. đều đang giữ quyền nghiêng nước.

Đào vương phi thấy Trưng Đế định làm lễ. Trưng Đế vội ôm lấy bà:

– Sư thúc đừng quá câu nệ.

Phương-Dung, Trần Năng vội quì xuống hành lễ với vương phi. Vương phi đỡ dậy nói:

– Ta được chiếu chỉ của hoàng đế tuyên triệu, vội lấy ngựa đi ngay. Mọi
việc ở Cửu-chân đều tốt đẹp. Đô Dương giỏi lắm. Hừ! Bố còn sống, cũng
không bằng. Hai mùa vừa qua đều trúng. Nhà nhà đầy lúa gạo. Lợn, gà,
trâu, bò khắp đồng. Đi đến đâu cũng chỉ thấy trẻ con đọc sách, nghe cụ
già kể truyện thời Văn-Lang, Âu-Lạc.

Trưng Đế truyền mời Đào vương phi vào điện Kinh-dương.

Nguyên sau khi phục hồi Lĩnh-Nam. Trưng Đế truyền xây thành Mê-linh làm
thủ đô. Thành dài ba mươi dặm, rộng hai mươi dặm. Trong thành còn lớp
thành nữa, gọi là Hoàng-thành, dài khoảng năm dặm, rộng khoảng ba dặm.
Trong thành có các điện Kinh-dương để tiếp khách, thiết triều. Tập-hiền
để hàng ngày hoàng đế cùng triều đình làm việc. Cung Âu-Cơ là chỗ để
hoàng đế ở. Ngoài ra còn cung Văn-đức, Lạc-đức.

Đào vương phi liếc nhìn điện Kinh-dương: Trên tường vẽ lịch sử Lạc-Long
Quân kết hôn với Âu Cơ. Sự tích bánh dầy, sự tích dưa hấu, sự tích vua
An Dương dựng nước, Cao-cảnh hầu chế nỏ thần v.v…Phương-Dung nói với
Đào vương phi:

– Thưa mẹ, hoàng đế ban chiếu triệu hồi mẹ về triều kiến. Vì hiện
Lĩnh-Nam có một việc rất khó khăn, không ai đương nổi, ngoài phu nhân
của Khất đại phu với mẹ. Con nghĩ, mẹ sẽ vui lòng.

Đào vương phi cười:

– Nhà họ Đào mình, trải bảy đời. Đời nào cũng đem hết tâm huyết mong
phục hồi Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam phục hồi. Chú con tuẫn quốc, bố con vì mừng
vui mà qua đời. Ta thấy thanh bình trở lại, việc cai trị Cửu-chân đã có
Đô Dương. Ta ở không chẳng có việc gì làm. Nếu hoàng thượng cần đến sức
mọn của ta. Ta xin tuân chỉ.

Trưng Đế thuật sơ lược vụ Tường-Qui, Mã thái-hậu, Liêu-đông tứ ma, Mã Viện v.v… cho bà nghe, rồi kết luận:

– Trẫm xin vương phi đừng quản ngại, cùng phu nhân Khất đại phu sang
Lạc-dương. Trẫm sẽ cử Tây-vu tiên tử mang theo hai mươi Thần-ưng làm cầu liên lạc. Khi thu được tin tức gì, xin Vương phi báo cho Đào tam đệ.
Tam đệ dùng Thần-ưng chuyển về đây.

Thượng thư Bộ-hình Vũ Công-Chất tâu:

– Thần trộm nghĩ: Triều thần Lĩnh-Nam làm việc, do lòng son đối với đất
nước. Mong cho nước mạnh, dân giàu. Người người hạnh phúc. Còn triều
thần nhà Hán, mười người làm quan, chín người chỉ mong phú quí. Quí thì
Tây-cung quí phi Chu Tường-Qui có thể hứa với họ. Còn phú, chúng ta
chẳng nên tiếc vàng bạc. Có vàng, việc gì cũng xong.

Chu Bá cũng tâu:

– Lời Hình-bộ thượng thư đúng. Thần xin bệ hạ trích trong số kho tàng
lấy được tại thành Bạch-đế, hiện chưa dùng tới, giao cho cô mẫu với Đào
vương phi, mang theo. Khi cần thì bỏ ra, hối lộ cho triều Hán. Thà ta
mất chút ít vàng bạc, còn hơn mất tiền, mất của nuôi quân chinh chiến.

Tây-Vu tiên tử tâu:

– Bệ hạ truyền chỉ thần đi Trung-nguyên, thần xin lĩnh mạng. Có điều
thần phải giả làm cung nữ Hán, mà không biết tiếng Hán sao cho tiện?

Tái-Kênh cười:

– Tiên-tử đừng lo. Mỗi cung nhà Hán có hàng trăm cung nữ. Ta sẽ nói với
Tường-Qui truyền cho mọi người biết, ngươi được gửi từ Lĩnh-Nam sang phụ trách nấu ăn cho quí phi. Người không biết nói tiếng Hán càng tốt.

Bỗng Quách A vào tâu:

– Tâu bệ hạ, có biểu của Bắc-bình vương tấu trình:

Phương-Dung cầm lấy, đệ trình lên. Hoàng-đế đọc xong, đưa cho Phùng Vĩnh-Hoa. Phùng Vĩnh-Hoa mở ra đọc, vỏn vẹn có mấy chữ:

Khẩn cấp tấu trình. Đặng Vũ được triệu hồi về Lạc-dương. Mã Viện thay Đặng trấn thủ Nam-dương. Phía Thục, Thục đế lâm bệnh.

Phùng Vĩnh-Hoa tâu:

– Đặng Vũ được triệu hồi về kinh, càng có lợi cho Lĩnh-Nam. Vậy xin Đào vương phi lên đường gấp rút cho.

Phương-Dung truyền chọn ba con ngựa thực tốt, gói vàng, ngọc, giao cho
Đào vương phi. Hôm sau bà cùng Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử lên đường. Đoàn
Thần-ưng hai mươi con bay trước, dọ thám.

Tái-Kênh, Đào vương phi đều kinh lịch nhiều. Chỉ có Tây-vu tiên tử, tuổi trên năm mươi, mà chưa rời khỏi Giao-chỉ bao giờ, nên cái gì đối với bà cũng lạ hết. Bà luôn thắc mắc.

Bốn ngày sau, đi vào địa phận Phiên-ngung. Đào-Kỳ đã được Thần ưng báo
trước. Ông dẫn Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục, Đào Nhất-Gia ra ngoài thành tiếp
đón.

Đào vương-phi (Đinh-xuân-Hoa) thấy con út, mới hồi nào còn vòi ăn, khóc
nhè. Bây giờ tước tới Bắc-bình vương, làm Đại tư-mã, thống lĩnh binh
quyền Lĩnh-Nam. Bà mừng không kể xiết. Lê Ngọc-Trinh thấy Tái-Kênh vội
quì xuống hành đại lễ:

– Đệ tử Lê Ngọc-Trinh, xin bái kiến sư nương. Kính chúc sư nương sống lâu trăm tuổi.

Tái-Kênh đỡ nàng dậy:

– Ông chồng ta dạy học trò hay thực. Trần Năng võ công cao hơn ta. Lê
Ngọc-Trinh lĩnh ấn Chinh-thảo đại tướng quân. Oai thực. Còn Quỳnh-Hoa,
Quế-Hoa đâu?

Đào Kỳ thưa:

– Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đóng quân cách đây hơn ba trăm dặm. Hai người đều
lĩnh ấn Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Nhật-nam. Vì vậy chưa về kịp.

Có tiếng nói vọng vào:

– Đào tam ca. Bọn em về đây.

Đào Kỳ chỉ Tái-Kênh:

– Đây là bà ngoại của hai em.

Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa bị mồ côi cha mẹ từ sớm. Trước đến nay chỉ biết có
ông ngoại. Nay thêm bà ngoại, thì mừng lắm. Hai bà nhảy đến ôm Tái-Kênh. Ba bà cháu lặng đi giờ lâu, không nói một lời. Tái-Kênh bưng mặt hai
cháu lên nhìn. Bà tát yêu nói:

– Hai đứa này, giống mẹ nó như đúc. Võ công hai cháu học đến đâu rồi?

Hai nàng chưa kịp trả lời, Tái-Kênh vung chưởng đánh liền. Quế-Hoa kinh
ngạc. Song thấy chưởng của bà ngoại mạnh quá, nàng vội vận khí ra Thủ
tam dương kinh đỡ. Bình, người bà rung động, phải lùi đến ba bước để hoá giải. Tái-Kênh khen:

– Năm nay cháu mới hai mươi mốt tuổi, mà võ công đã đến trình độ này,
thì khi bằng tuổi ta, công lực sẽ cao đến chỗ không biết đâu mà lường.
Cháu hơn ta, hơn cả mẹ cháu.

Hai hàng lệ chảy xuống, bà than:

– Trước đây, ta không nghe lời ông cháu, cùng bố, mẹ cháu khởi binh. Kết quả thảm bại khôn cùng. Bây giờ, hai cháu lĩnh ấn đại tướng quân, đến
nằm mơ ta cũng không thể ngờ tới.

Đào Kỳ truyền bày tiệc, giới thiệu các anh hùng với Đào vương phi và
Tái-Kênh. Đào Nhất-Gia (Sún Lé) ngồi cạnh Tây-vu tiên tử, giảng cho bà
những kinh nghiệm chỉ huy Thần-ưng, cùng chi tiết về triều đình nhà Hán.

Vũ Trinh-Thục nói với Đào vương phi:

– Hiện trong triều, tam công, tể tướng, cho đến Mã Vũ, Phùng Tuấn đều có cảm tình với Lĩnh-Nam. Tháng trước đây, nhân sinh nhật Hàn thái-hậu, sư huynh Trần Tự-Sơn, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa đều về Lạc-dương dự lễ. Cháu
cho theo dõi, tìm tông tích Liêu-đông tứ ma, mà không thấy. Vậy sư bá
cần phải đề phòng.

Đào vương phi chỉ ở lại Phiên-ngung có hai ngày, rồi lên đường. Đào Kỳ
dặn bà không nên ghé bản dinh Phật-Nguyệt ở hồ Động-Đình, sợ lộ diện, cứ âm thầm vượt Trường-giang đến Nam-dương. Sang địa phận Nam-dương, nếu
quan binh có hỏi, thì đưa thẻ bài của Đặng Vũ ra. Đặng Vũ hiện lĩnh đại
tư mã, thống lĩnh binh quyền thiên hạ.

Vượt hồ Động-đình lên phía Bắc, vừa đi được mấy dặm. Đoàn Thần-ưng bay
trên trời kêu ré lên báo động, rồi lao về phía trước. Tây-vu tiên tử
ngạc nhiên, nhìn lên:

– Dường như phía trước có gì khác lạ. Thần-ưng báo động cho chúng ta biết mà đề phòng.

Quả nhiên phía trước có bốn người, chia làm hai cặp đang giao chiến. Họ
đều dùng kiếm. Cạnh đó, một người cầm kiếm ngồi trên ngựa, chỉ huy trên
trăm võ sĩ bao vây. Chúng mặc áo quần thị vệ của Hán. Đào vương phi nói
với Tái-Kênh.

– Người già, cao, mặt trắng, với người trẻ hùng vĩ kia xử dụng võ công
phái Thiên-sơn. Còn hai người mặc theo lối thị vệ nhà Hán không biết
thuộc phái nào. Hai người thuộc phái Thiên-sơn võ công cao thâm khôn
lường. Song dường như họ bị thương thì phải.

Bốn người giao đấu, chia làm hai cặp. Người cầm kiếm lược trận, thấy Đào vương phi. Y lên tiếng:

– Chúng ta đang có truyện tính toán với nhau. Người ngoài cuộc hãy tránh xa. Nhược bằng cứ tiến tới, đao thương vô tình, đừng có trách.

Đào vương phi tính ôn nhu văn nhã, bà lùi ngựa lại, bỏ ra ngoài lời nói
ngạo mạn của y. Còn Chu-tái-Kênh tính tình ương ngạnh đã quen. Bà nghe
người lược trận nói như đe dọa. Tam bành lục tặc nổi lên. Bà thò tay vào túi móc ra hai viên ám khí, để trên đầu tay búng một cái. Tiếng ám khí
kêu vo vo bay đến trước mặt người lược trận. Người này thấy kình lực ám
khí kêu lớn, vội rút kiếm gạt. Song kiếm vừa cử lên, hai viên ám khí
quay nhanh qua, vỡ tung, biến thành đám bụi mù. Y gạt hụt, tức quá chửi
thề:

– Mẹ cha con đượi nào kia. Mi định làm gì ông đấy.

Nguyên lối dùng thứ kình bắn ám khí thuộc tuyệt kỹ của phái Tản-viên.
Đào Kỳ đã dùng bắn thư của Phùng Vĩnh-Hoa cho Hồ Đề trong trận hồ Tây.
Khất đại phu dùng trong trận đánh Thục. Tái-Kênh học được võ công
Văn-Lang, bà cũng biết xử dụng. Song bà dùng thuốc độc chế thành viên ám khí.

Tên lược trận vừa chửi dứt lời, con ngựa y cỡi, kêu một tiếng thảm
thiết, nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất, dẫy mấy cái, rồi nằm im, miệng
ứa máu ra.

Tên chỉ huy thị vệ, nhảy vọt người lên cao, đáp xuống bãi cỏ. Y ngoạc miệng ra chửi:

– Ba con đượi kia! Bọn mi đừng có trách ta tàn độc.

Miệng tuy chửi, mà trong lòng y kinh hãi không ít. Y liếc nhìn Chu
Tái-Kênh, người gầy gò, tóc lốm đốm bạc. Không hiểu sao laị có kình lực
bắn ám khí đến trình độ viên ám khí quay nhanh quá, vỡ thành bụi, chụp
xuống đầu ngựa, khiến ngựa chết ngay. Y hú hồn chửi thầm:

– Giả thử viên ám khí đó bắn vào người ta, thì ta đã chết rồi.

Tuy miệng chửi bới, mà y đứng im bất động.

Chu Tái-Kênh cười nhạt:

-Chúng ta là khách qua đường. Các ngươi đánh nhau mặc các ngươi. Tại sao ngươi dám đe dọa ta ? Lão nương dung tình cho mi một lần. Nếu còn nói
năng vô lễ, đừng trách lão nương tàn ác.

Mấy người đánh nhau đã đến hồi kịch liệt. Lão già cao chém liền ba
chiêu, đẩy lui đối thủ, rồi bước lại dựa vào gốc cây thở hổn hển. Người
trẻ tuổi hùng vĩ vừa đánh vừa hỏi:

-Sư huynh! Chúng ta chỉ cần cố gắng một chút nữa, ắt có người Lĩnh-Nam
tiếp viện. Sáng nay tiểu đệ đã cho Thần-ưng đưa thư đến Phật-Nguyệt cầu
cứu rồi.

Tên cầm kiếm xua đám thị vệ xúm vào bao vây người trắng cao. Người này
dựa lưng vào cây, tay cầm kiếm thủ. Bọn thị vệ không dám xông vào.

Đào vương phi nghe hai người phái Thiên-sơn nói với nhau, bà nói nhỏ với Chu Tái-Kênh:

– Phu nhân! Đây thuộc đất Lĩnh-Nam. Từ bên kia sông lên phía bắc phải
qua bốn thành, trải sáu trăm dặm mới tới địa phận Hán. Đám thị vệ này
làm cách nào, vượt qua vòng kiểm soát của quân Thục mà tới đây ? Hai
người kia thuộc phái Thiên-sơn, chắc có liên hệ với mình, nên họ mới gửi thư cầu cứu Phật-Nguyệt. Vậy phu nhân hãy tìm cách gây sự với đám thị
vệ, ta cứu người, trong lúc nguy cập quá.

Bản tính Chu Tái-Kênh vốn ngang ngược. Đến Trưng-Trắc, bà cũng không
kiêng nể. Phương-Dung bà còn gọi là con lỏi. Từ hôm đi cùng Đào vương
phi, tính tình ôn nhu, kiến thức quảng bác của Vương-phi, khiến bà nể
phục, nhất nhất tuân lệnh. Nghe Đào vương phi bảo bà kiếm truyện với đám thị vệ, chính là điều sở trường của bà. Bà thích quá, tủm tỉm cười.

Phía trước, hai người phái Thiên-sơn mệt quá, đứng dựa lưng vào nhau,
chống trả với đám thị vệ một cách yếu ớt, rời rạc. Tên chỉ huy thị vệ
cười ha hả:

– Công-tôn Thiệu, Vũ Chu, các người tự thị đệ nhất cao thủ đương thời.
Không ngờ hôm nay các người chết về tay ta. Nếu các ngươi muốn sống, hãy quì xuống đầu hàng. Ta tha cho cái mạng kiến ruồi của ngươi.

Đào vương phi nghe tên chỉ huy thị vệ nói vậy, bà kinh hoàng:

– Công-tôn Thiệu, tước phong Trường-sa vương, hiện cầm quân trấn đóng
phía Bắc Kinh-châu, bao vây Nam-dương. Còn Vũ Chu trấn đóng Nam-quận.
Tại sao lại bị bọn thị vệ bao vây?

Chu Tái-Kênh lững thững tiến lên phía trước. Tên chỉ huy thị vệ đã nếm mùi thất bại với bà. Y quát lớn:

– Mụ kia! Đứng lại. Mụ đi đâu đấy?

Chu Tái-Kênh rất giỏi về nghề gây sự. Bà nói ngang:

– Thằng lỏi con kia! Đất nhà ta, ta đi. Cái mặt mi mà dám hỏi ta à?

Tên chỉ huy thị vệ quát:

– Mụ điên rồi sao? Đất nào của nhà mụ?

Chu Tái-Kênh mắng:

– Thằng chó má này! Đây thuộc hồ Động-đình, thuộc lãnh địa Lĩnh-Nam. Ta
là người Lĩnh-Nam, ta đi trên đất nước ta. Còn mi! Mi người Hán, mi đến
đất nhà ta, mi còn cấm ta đi ư?

Vừa dứt câu, bà đã đến sát người tên chỉ huy thị vệ. Tên này rút kiếm chĩa về phía trước nói:

– Mụ mà không ngưng lại, đừng trách ta ác độc.

Chu Tái-Kênh cứ đi tới. Tên chỉ huy thị vệ đâm thẳng kiếm vào ngực bà.
Thấp thoáng một cái, ba tiếng lách cách vang lên. Thanh kiếm trên tay y
đã bị Tái-Kênh đoạt mất. Bà búng tay một cái, thanh kiếm gãy làm ba
mảnh, bay véo đến, cắm ngập vào một cành cây gần đó.

Động tác đoạt kiếm, bẻ kiếm, phóng mảnh kiếm nhanh không thể tưởng tượng được. Tên chỉ huy thị vệ nhảy lùi lại liền ba bước. Hai tên cao thủ
đánh nhau với Công-tôn Thiệu, Vũ Chu rút kiếm nhảy đến tấn công
Tái-Kênh. Chỉ thấy loáng một cái, có hai tiếng keng. Hai thanh kiếm của
đối thủ rơi xuống đất. Cườm tay chúng máu tươi ứa ra. Chu Tái-Kênh đã
tra kiếm vào cười nhạt.

Bất giác bọn thị vệ đều bật lên tiếng la hoảng, chúng rút vũ khí bao vây Chu Tái-Kênh.

Công-tôn Thiệu lên tiếng:

– Lão tiền bối! Công-tôn Thiệu này mắt kém, không hiểu tiền bối với nữ
vương Phật-Nguyệt Tổng trấn hồ Động-đình, Thừa-tướng Lĩnh-Nam Nguyễn
Phương-Dung là thế nào?

Chu Tái-Kênh cười:

– Chả là thế nào hết, mà cũng là thế nào hết. Chồng lão bạn với Nguyễn
Phan tiên sinh. Lão ở trên Phật-Nguyệt một vai, trên Phương-Dung đến ba
vai. Lão gọi chúng là hai con lỏi tỳ.

Bà chỉ Đào vương-phi:

– Vị kia là mẹ chồng của Phương-Dung.

Công-tôn Thiệu la lên:

– Tại hạ Công-tôn Thiệu, thuộc phái Thiên-sơn, xin tham kiến lão tiền
bối và Đào vương phi. Anh em tại hạ là chỗ bằng hữu với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, đệ tử của Đào vương gia. Đáng lẽ tiểu bối phải hành đại lễ.
Song anh em tại hạ bị thương, không đủ lễ, mong lão tiền bối với Đào
vương phi tha tội cho.

Chu Tái-Kênh ngang ngược thực, song nếu ai kính trọng bà. Bà tỏ ra thân thiết ngay. Bà lễ phép đáp:

– Lỗi với chả lỗi. Đây thuộc Lĩnh-Nam, mà chị em lão không bảo vệ cho
quí khách, để bọn thị vệ vô lễ với các vị… Chính chị em lão phải tạ
lỗi với quí khách mới phải.

Bà bảo tên chỉ huy thị vệ:

– Tên chó má kia, ngươi xưng tên đi! Lão nương không muốn đánh bọn vô danh. Dù bọn vô danh làm tôi tớ cho con mụ Mã thái hậu.

Công-tôn Thiệu nói:

– Nó là Vũ-vệ hiệu-úy, chỉ huy thị vệ Hán, họ Mã tên Huy. Còn hai tên
đánh nhau với chúng tôi là đệ tử của bọn Liêu-đông tứ ma. Thằng đen tên
Triệu Đức, còn tên lùn kia tên Tiên Minh.

Tái-Kênh bảo Mã Huy:

– Mi mau quì xuống tạ lỗi với quí khách của ta.

Miệng nói, tay bà vung lên, một viên ám khí trúng đầu gối Mã Huy. Y đau
quá, ngã quị xuống trước mặt Công-tôn Thiệu, giống như quì lạy.

Triệu Đức, Tiên Minh hô bọn thị vệ nhảy vào tấn công. Tái-Kênh xuyên bên tả, chạy bên hữu. Chỉ lát sau, đám thị vệ hầu hết bị thương ở chân, nằm ngổn ngang rên la. Triệu Đức hô lên một tiếng. Những tên còn lại bỏ
chạy về phía bắc. Tái-Kênh móc trong bọc ra năm ám khí, bà vung vèo, vèo theo. Chúng chưa chạy quá trăm trượng, đều ngã xuống rên la thảm thiết.

Đào vương phi nói:

– Phải đuổi theo, bắt hai tên Triệu Đức, Tiên Minh lại.

Bà rút kiếm cùng Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử đuổi theo. Được khoảng nửa dặm gặp Triệu, Tiên đang chạy trở lại. Mặt chúng tái mét. Phía trước, có

nhiều tiếng gầm gừ vọng đến. Tây-vu tiên tử nói:

– Phía trước kia có người của ta.

Tái-Kênh hỏi:

– Sao em biết?

Tây-vu tiên tử chỉ lên trời:

– Đoàn Thần-ưng đang bay lượn, đuổi hai tên Triệu, Tiên bỗng ré lên
tiếng vui mừng. Tiếng kêu biểu hiệu chào đón chúa tướng. Nếu phía trước
có người lạ, chúng đã nhào xuống tấn công.

Tây-vu tiên tử vừa dứt lời, một đoàn beo, con nào cũng to lớn, lông đen
như gấm, gầm gừ rượt theo Triệu, Tiên. Tái-Kênh nhảy nhót mấy cái, đã
bắt được hai tên này. Bà thấy đàn beo thì lùi lại. Tay rút kiếm. Nhưng
Tây-vu tiên tử đã tiến lên, ôm cổ mấy con beo gấm, như đùa với chó. Mấy
con beo thấy bà, cũng vẫy đuôi, chồm lên chào mừng. Con thì liếm tay bà, con thì cọ lưng vào cùi chỏ bà, giống như đàn chó, lâu ngày gặp chủ.

Tây-vu tiên tử hỏi lớn bằng tiếng Mường. Phía trước một thiếu niên anh
tuấn, dáng điệu tiêu sái, ngồi trên mình voi, sau lưng có hơn trăm con
dã nhân vác đao đi theo. Hàng lối ngay thẳng.

Thiếu niên thấy Đào vương phi, vội nhảy khỏi bành voi, lạy phục xuống đất:

– Đệ tử Đào Ngũ-Gia kính cẩn tham kiến sư mẫu. Kính chúc sư mẫu an khang. Không hiểu sao sư mẫu lại có mặt ở chỗ này?

Đào vương phi không ngờ gặp Sún Hô. Bà hỏi:

– Ngũ-Gia, con đem binh tướng đi đâu đấy?

Sún Hô đáp:

– Thần-ưng tuần phòng, báo hiệu cho biết có đoàn hai mươi Thần-ưng từ
phía Trường-sa tới. Con biết là người của mình. Thần-ưng cũng báo, có
giặc đột nhập lãnh địa. Con đem đoàn Thần-beo, với trăm Dã nhân tuần
tiễu, thì vừa gặp hai tên này. Con cho đuổi theo, tới đây gặp sư mẫu.

Đào vương phi hỏi Sún hô:

– Con mau ra mắt Trần phu nhân đi. Người là phu nhân của Khất đại phu đó.

Tâm lý con người đời nào cũng thế: Trẻ con, người già dễ hiểu nhau. Sún
Hô thấy Chu Tái-Kênh, tóc đã bạc, sinh kính trọng. Nghe bà là vợ Khất
đại phu. Chàng vội chắp tay hành đại lễ. Chu Tái-Kênh vẫy tay:

– Miễn lễ! Đệ tử Đào gia giỏi thực.

Bà quay lại: Đàn Dã-nhân, Thần-báo đã vây bọn Triệu, Tiên với hơn trăm
thị vệ bị thương vào trong. Đào Ngũ-Gia thấy Công-tôn Thiệu, chàng kêu
lớn:

– Sư huynh! Tại sao sư huynh lại ở đây? Dường như sư huynh bị thương phải không? Ai đã làm sư huynh bị thương?

Công-tôn Thiệu ngồi xuống đất, nước mắt chảy ròng ròng. Sún Hô chạy lại
đỡ ông dậy. Chàng móc trong túi ra một bình nhỏ, lấy hai viên thuốc bỏ
vào miệng ông với Vũ Chu. Chàng ôm ông, để lên bãi cỏ bằng phẳng, đưa
mắt nhìn bọn thị vệ:

– Bọn chó săn thị vệ này làm sư huynh bị thương phải không? Để em cho báo ăn thịt bọn chúng trả thù cho sư huynh.

Sún Hô nói là làm. Chàng hú lên một tiếng lớn. Đoàn báo gầm gừ xông lại định ăn thịt bọn thị vệ.

Đào vương phi can:

– Đồ nhi! Khoan. Con hãy hỏi cung chúng rồi cho báo ăn thịt cũng chưa
muộn. Chúng ta cần trị thương cho Trường-sa vương với Vũ Chu sư huynh
đã.

Sún Hô chặt cây, làm hai cáng. Chàng bắt bốn tên thị vệ bị thương nhẹ
khiêng hai người. Đám còn lại, Tây-vu tiên tử sai Dã nhân trói thành một xâu dài.

Sún Hô nói:

– Xin lão tiền bối, cùng sư mẫu ghé bản dinh của con ở gần đây, trước
điều trị cho Công-tôn huynh và Vũ sư huynh. Sau hỏi cung bọn này.

Sún Hô lấy bút viết mấy chữ, gọi một Thần-ưng, bỏ thư vào ống tre dưới
chân, rồi ra hiệu. Thần-ưng cất cánh bay bổng lên cao. Chàng nói:

– Thưa sư mẫu, đệ tử dám lớn mật xin sư mẫu với các vị vào thành
Trường-sa an nghỉ. Sư tỷ Phật-Nguyệt nghe sư mẫu giá lâm, chắc sẽ hoan
hỷ lắm.

Sún Hô rất quan tâm đến Công-tôn Thiệu với Vũ Chu. Chàng đi cạnh cáng
của hai người. Hai người được uống thuốc trấn thống, buồn ngủ quá, thiếp đi. Dọc đường, Sún Hô hỏi thăm tình hình Giao-chỉ, Cửu-chân. Đào vương
phu thuật lại chi tiết cho chàng nghe. Khi bà thuật đến Chu Tái-Kênh,
Sún Hô thích lắm. Chàng nói với bà:

– Thưa sư mẫu, Lĩnh-Nam đã có Tiên ông Trần Đại-Sinh, cũng phải có dị
nhân Chu lão bà mới hợp. Hồi trước Khất đại phu giảng: Vợ chồng âm,
dương phải hòa hợp. Như tính ông nóng nảy, tính bà thâm trầm. Bởi vậy
Khất đại phu làm gì cũng tính toán, cẩn thận, còn lão bà lòng nhiệt
thành quá với đất nước, đến nỗi phu thê bất hòa.

Đến bờ hồ Động-đình, Sún Hô chỉ vào ngọn núi Tam-sơn nói:

– Thưa sư mẫu, kia là núi Tam-sơn, trên núi có một thành nhỏ. Bản dinh
của đệ tử đóng ở đó. Bây giờ thỉnh sư mẫu với các vị xuống thuyền, vượt
hồ Động-đình đi Trường-sa.

Chu Tái-Kênh quan sát quân phong, quân khí hùng tráng, kỷ luật. Dưới hồ
thủy quân đậu có hàng lối. Trên trời Thần-ưng ứng trực bay lượn tuần
phòng. Bà cất tiếng khen:

– Cháu giỏi thực. Tuổi mới mười tám, mười chín, lĩnh ấn đại tướng, trấn
thủ bắc hồ Động-đình, canh gác thế này, giặc không thể nào đánh úp được. Lực lượng trực tiếp của cháu có bao nhiêu người.

Sún Hô kính cẩn thưa:

– Thưa lão bá, ở đây lớn nhất là sư tỷ Phật-Nguyệt. Hoàng đế phong sư tỷ làm Công-chúa, tổng trấn Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình. Tức vùng
biên giới tiếp giáp với Kinh-châu của Thục. Phía đông giáp Nam-hải của
Lạc vương Trần Nhất-Gia, có lực lượng của sư tỷ Thánh-Thiên. Phía Tây
giáp Thục. Mặt tây rừng núi hiểm trở, không cần đề phòng. Điều cần thiết quân phải ứng trực sẵn sàng. Nếu Hán đánh Kinh-châu, Nam-hải, thì ta
tiếp cứu ngay. Dù Hán có chiếm được Kinh-châu, muốn vượt Trường-giang
đánh xuống phía nam, cũng muôn vàn khó khăn. Tuy vậy việc phòng bị vẫn
phải nghiêm chỉnh.

Chu Tái-Kênh đã từng cầm quân đánh Hán, bà gật đầu hỏi tiếp:

– Phật-Nguyệt tổ chức đồn trú như thế nào?

Sún Hô đáp:

– Sư tỷ Phật-Nguyệt với đại lực lượng đóng ở Trường-sa. Lực lượng trừ bị do Trung-nghĩa đại tướng quân, tước Động-đình công Đô Thiên đóng ở
Linh-lăng. Lực lượng trừ bị thứ nhì đóng ở Quế-dương, do sư tỷ Lê
Thị-Lan, lĩnh ấn Trấn-tây đại tướng quân. Đa số kị binh đồn trú tại đây. Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương lĩnh ấn đô đốc thủy quân hồ Động-đình. Thủy quân chia làm năm đạo. Đạo trung quân chính sư tỷ Đinh Bạch-Nương
thống lĩnh. Đạo trấn tây do Đinh Tĩnh-Nương, đạo trấn bắc do sư huynh
Cao Cảnh-Khê, đạo trấn đông do đệ tử, đạo trấn nam do sư huynh Trần
Quốc-Dũng. Tiên-yên sư bá tiếp cứu chung.

Đào vương phi hỏi:

– Hồ Đề đóng ở Phiên-ngung với anh Kỳ của con. Đạo Tây-vu chia làm tám
quân đoàn. Mỗi quân đoàn Tây-vu yểm trợ cho một đạo quân. Con chỉ huy
quân đoàn nào?

Sún Hô đáp:

– Con chỉ huy quân đoàn bảy. Mỗi Quân đoàn gồm có tám sư đoàn: Thần-ưng, tượng, long, hầu, phong, ngao, hổ, báo.

Thuyền dương buồm, đi thẳng về phía nam. Dọc đường, Công-tôn Thiệu, Vũ Chu vẫn ngủ ly bì. Đào vương phi lo lắng:

– Công-tôn Thiệu lĩnh tước Trường-sa vương, tổng trấn Kinh-châu, Vũ Chu
lĩnh ấn Trấn-đông tướng quân. Hai người thuộc loại đệ nhất cao thủ của
Thục, uy quyền nghiêng nước. Không hiểu sao họ lại một người, một ngựa
vượt Trường-giang đến địa giới Lĩnh-Nam, bị bọn thị vệ Hán vây đánh?

Chu Tái-Kênh gật đầu:

– Ta lo Kinh-châu có biến cố gì chăng? Hoặc giả hai người vượt sông thăm Phật-Nguyệt rồi bị thị vệ Hán vây đánh? Cháu đã thẩm vấn bọn tù binh
Hán chưa?

Sún Hô đáp:

– Cháu đã truyền thẩm vấn bọn chúng. Nếu có kết quả, họ sẽ gửi Thần-ưng
mang đến cho chúng ta. Hoặc lát nữa Công-tôn sư huynh tỉnh dậy ắt biết
rõ ngọn nguồn.

Từ xa xa, hơn chục chiến thuyền dàn hành chữ nhất, trên cột buồm, cờ Lĩnh-Nam bay phất phới. Sún Hô chỉ đoàn thuyền:

– Thưa sư mẫu, đoàn thuyền của sư huynh Trần Quốc-Dũng, con lớn sư bá
Trần Quốc-Hương ở Thiên-trường đang đi tuần. Các chiến thuyền này trước
đây của Hán. Hồi mình đánh Trường-sa, chiếm được. Mỗi chiến thuyền chở
khoảng năm trăm thủy thủ.

Chu Tái-Kênh đứng ngắm đoàn thuyền. Lòng bà phơi phới tràn ngập niềm vui khôn tả. Bà nói với Đào vương phi:

– Nhà tôi có ba anh em. Hồi khởi binh, anh cả tôi tuẫn quốc. Cháu Chu Bá mới ba, bốn tuổi, lạc mất tưởng chết, không ngờ nó ở ngay trước mặt mà
tôi không biết. Còn người em út của tôi, lúc đó tuổi khoảng mười hai,
mười ba cũng bị lạc. Nếu nó còn sống trên thế gian này, năm nay cũng
khoảng năm mươi lăm, năm mươi sáu tuổi. Biết đâu nó chẳng ở gần chúng
ta.

Sún Hô nói:

– Lão bá đã xuất hiện. Chỉ cần đi thăm các nơi, nếu em lão bá còn sống,
nhất định sẽ ra mặt, tương kiến với lão bá… Chỉ bọn cháu, cha mẹ bị
quân Hán giết chết, không biết nguồn gốc ra sao, may được sư phụ thương
tình cho mang họ Đào.

Thuyền áp vào bờ. Mọi người lên ngựa đi. Được hơn giờ, Sún Hô ghé ngựa sát lại cạnh Đào vương phi, Chu Tái-Kênh nói nhỏ:

– Phía trước kia có ba gian tế, võ công rất cao. Chúng đi ngược chiều với mình. Xin sư mẫu quyết định.

Đào vương phi hỏi:

– Sao con biết?

Sún Hô chỉ lên trời:

– Thần-ưng báo cho biết.

Đào vương phi nhìn lên trời: Đoàn Thần-ưng mười con, thì ba con tách ra
bay tà tà trên đầu ba kị mã. Còn bảy con bay lượn thư thả. Bà đáp:

– Sư mẫu không nắm vững tình hình. Ý con định thế nào?

Sún Hô đáp:

– Con không mang quân mã theo. Ở đây chỉ có bốn người khiêng cáng cho
Công-tôn sư huynh với Vũ Chu. Nếu được lão bá với sư mẫu ra tay thì
thôi. Bằng không, con báo cho sư huynh Trần Quốc-Dũng theo dấu Thần-ưng, đem quân vây bắt.

Chu Tái-Kênh gạt ngang:

– Khỏi cần ai hết. Chúng ta bắt chúng giản dị hơn.

Ba kị mã tới gần. Sún Hô gò ngựa ngăn đường hỏi bằng tiếng Việt:

– Các ngươi là ai? Mau đưa thẻ bài ta coi?

Ba người kị mã, một già, hai trẻ gò ngựa lắc đầu tỏ vẻ không hiểu. Sún Hô vội nói tiếng Hán. Người già quát lớn:

– Thằng bé con kia! Mi hết nuốn sống hay sao, mà dám hỏi thẻ bài của ta?

Sún Hô đáp:

– Ta là đại tướng quân, trấn thủ đông hồ Động-đình.

Tên kị mã cao liếc nhìn người già. Người già gật đầu. Lập tức y vọt khỏi mình ngựa, phóng người lên không, phát chưởng đánh Sún Hô. Sún Hô quát
một tiếng, giật cương cho ngựa lùi lại hai bước. Người kia đánh hụt. Y
đáp xuống đường. Người vừa xuống đất, y nhảy vèo tới, phóng chưởng tấn
công tiếp. Sún Hô vọt mình từ ngựa xuống, phát chiêu Ngưu tẩu như phi
phản công. Binh, người chàng bật lên cao. Đối phương vọt theo, đánh tiếp chưởng từ dưới lên trên. Ở trên cao, Sún Hô, phát chiêu Thanh ngưu qui
gia đánh vào chưởng của y. Người chàng lại bay vọt lên. Chàng đá gió một cái, tà tà đáp xuống đất.

Tên kị mã già cười:

– Tưởng Lĩnh-Nam thế nào, thì ra chỉ có vậy thôi sao. Hoàng Tứ, ngươi hãy kết thúc đi thôi.

Giọng nói của y coi Sún Hô không ra gì. Hoàng Tứ phóng liền ba chưởng như vũ bão. Đào vương phi đứng ngoài khen thầm:

– Tên này tuổi bất quá hai mươi lăm, hai mươi sáu, bản lĩnh đã tới dường này. Bản lĩnh của ta với Đinh Đại, hồi ở hải đảo, chưa chắc đã hơn y.
Cũng may Ngũ Sún được Đào Kỳ dạy nội công Long-biên, hợp với nội công
Tản-viên, Cửu-chân, biết qui liễm âm, dương. Nếu không, e một chiêu đầu, đã mất mạng rồi.

Sún Hô thấy chưởng đối phương mãnh liệt. Chàng vận khí ra Thủ-tam dương
kinh, phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh của phái Cửu-chân. Bình, Hoàng Tứ, bật lùi lại hai bước.

Tên kị mã già kêu lên:

– Ái cha!

Hoàng Tứ phát chiêu nữa. Sún Hô tỉnh ngộ:

– Tên này dùng võ công Trung-nguyên. Ta phải dùng võ công Cửu-chân mới được.

Chàng phát chiêu Hải triều lãng lãng. Chưởng phong ào ào chụp xuống.
Bình. Cả hai đều bật lùi lại hai bước. Lớp thứ nhì của chiêu Hải-triều
lãng lãng phát ra. Hoàng Tứ bay bổng lên cao. Sún Hô vọt theo phát lớp
thứ ba. Tên kị mã già thấy vậy vội phát chưởng tấn công Sún Hô, cứu đồng bọn.

Chu Tái-Kênh đứng ngoài, thấy chưởng phong của y có hơi nóng, hùng mạnh
vô cùng. Nếu chiêu này đánh xuống, Sún Hô ắt tan xương nát thịt mà chết. Bà vội phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần chưởng
tấn công y. Y thấy chưởng phong của bà mạnh đến long trời lở đất, vội
đổi hướng chưởng về đỡ chưởng của bà. Bình. Hai người đều bật lùi trở
lại.

Đào vương phi kinh ngạc:

– Tên này là ai? Chiêu vừa rồi của Chu Tái-Kênh, e rằng chỉ có Khất đại
phu, Đào-Kỳ, Lê-đạo-Sinh đỡ được mà thôi. Không ngờ chỉ ngang tay với y?

Bà quày lại, tên kị mã lùn, đã phát chưởng đấu với Sún Hô. Hai người
ngang tay. Còn Hoàng-Tứ nằm dưới đất, miệng ứa máu, thoi thóp thở.

Bỗng có tiếng rên bên cạnh. Bà quay lại: Công-tôn Thiệu đã tỉnh dậy. Y
vẫy tay gọi bà. Bà vội đến bên y. Y chỉ vào tên kị mã già nói:

– Vương phi! Tên này có biệt hiệu Bắc-sơn hùng vương. Tên gọi Vương
Hùng, một trong Liêu-đông tứ ma. Chúng cầm đầu tế tác dò thám Lĩnh-Nam,
Thục. Cần bắt lấy nó, để nó thoát đi rất uổng.

Đào vương phi chợt nhớ: Hôm trước Đào Kỳ thuật lại rằng Mã thái hậu mới
chiêu mộ được Liêu-đông tứ ma, võ công cao bậc nhất Trung-nguyên, mỗi
tên đều có bản lĩnh ngang với Lê Đạo-Sinh. Bọn chúng đã vây đánh Nam-hải nữ hiệp, Lê Thị-Hảo, khiến hai bà tuẫn quốc. Vương phi lên tiếng:

– Trần phu nhân! Ma đầu này là một trong Liêu-đông tứ ma, tên Vương
Hùng. Chính y đã hạ sát Nam-hải nữ hiệp, với phu nhân của Chu Bá sư
huynh. Mong phu nhân bắt y, trả thù cho người quá cố.

Chu Tái-Kênh đánh ba chưởng binh, binh, binh, quát hỏi:

– Lời Đào vương phi nói có đúng không?

Vương Hùng cười nhạt:

– Đúng thì đã sao? Ta sắp giết thêm con đượi thứ ba nữa đây.

Chu Tái-Kênh nổi cơn điên. Bà vận âm kình, phát chiêu Tứ ngưu phân thi
đánh ra. Xịt. Chưởng Vương Hùng mất tích. Y lùi lại, mặt tái mét. Y phát liền ba chưởng, rồi nhảy ra ngoài vòng chiến bỏ chạy. Y vừa vọt được
vài bước, thì giật mình đứng lại. Bên ngoài, một đội giáp sĩ đã vây kín
từ hồi nào. Tiên-yên nữ hiệp quát:

– Vương Hùng! Hôm nay mi phải đền tội.

Vương Hùng biết không trốn được. Y dừng lại nói:

– Bọn Lĩnh-Nam nhà ngươi, tự thị anh hùng, mà lại dùng giáp sĩ vây bắt bọn ta. Bọn mi có giỏi, một chọi một, ta mới phục.

Chu Tái-Kênh cười nhạt:

– Được! Ta đấu với ngươi.

Bà vận âm kình, phát chưởng tấn công. Vương Hùng vung chưởng đỡ. Đấu với nhau được hai chục hiệp. Vương Hùng yếu thế, chỉ còn lo chống đỡ. Y vừa đánh vừa lui. Vòng vây giáp sĩ dãn ra. Bất thình lình Vương Hùng đánh
liền ba chưởng, rồi vọt người ra ngoài vòng vây bỏ chạy vào rừng. Vừa
chạy được mấy bước, y vướng chân vào một sợi dây, ngã lăn ra. Rồi hai,
ba bốn sợi dây cột khắp người y. Năm sợi dây siết chặt, khiến y không
dậy được nữa.

Sún Hô chạy lại, dùng dây trói y. Bấy giờ y mới biết mình không vấp vào dây, mà bị năm con trăn quấn chặt.

Một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bảy, dáng điệu tinh anh, thổi ống tre ba tiếng. Mấy con trăn buông y ra. Sún Hô reo lên:

– Vi Lan! Em tới bao giờ vậy?

Cô bé cười:

– Bọn em đi tuần trong thành Trường-sa, trông thấy Thần-ưng bay lượn báo động. Biết anh đang giao chiến với địch. Em tin cho sư bá Tiên-yên
biết. Người với em đem giáp sĩ đến tiếp viện. Em thấy tên này bỏ chạy,
tung trăn bắt sống.

Sún Hô giới thiệu với mọi người:

– Đây là sư muội Vi Lan. Trong quân đoàn của cháu có tám sư trưởng. Vi Lan giữ chức sư trưởng Thần-long.

Đào vương phi thấy Vi Lan xinh đẹp, linh lợi, muốn ôm lấy nàng. Song
trên cổ nàng có hai con trăn quấn. Trên vai, tay, đầy rắn lục, làm bà ớn da gà. Sún Hô biết ý bà, nói:

– Sư muội đừng đeo Thần-long trên người, làm sư mẫu của anh không thích.

Vi Lan cười, tung trăn, rắn lên chiếc xe. Trong lòng xe có hơn trăm con
vừa rắn, vừa trăn quằn quại, ngóc đầu dậy táp, trông mà rợn người.

Đoàn người đến Trường-sa. Phật-Nguyệt được tin vội ra cổng thành đón.
Chu Tái-Kênh nghe nói rất nhiều về Phật-Nguyệt: Kiếm pháp thần thông,
lĩnh ấn Trấn-bắc đại tướng quân, trực tiếp phòng Hán. Bà những tưởng
nàng linh lợi như Phương-Dung, Trưng-Nhị. Hay ít ra cũng lý lắc như
Trần-Năng. Không ngờ nàng chỉ là một thiếu nữ mảnh mai, ôn nhu, khiêm
cung, ít nói. Nàng vội xuống ngựa chắp tay:

– Đệ tử kính cẩn ra mắt sư thúc.

Chu Tái-Kênh vẫy tay:

– Đừng quá câu nệ! Cháu đứng dậy đi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.