Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa

Chương 27


Đọc truyện Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa – Chương 27

Nhưng Prishvin chiếm một địa vị đặc biệt trong những nhà văn ấy. Những hiểu biết rộng rãi của ông trong địa hạt nhân chủng học, sinh vật-khí hậu học, thực vật học; động vật học, nông học, khí tượng học, sử học, điểu loại học, địa lý học, văn học dân gian, địa phương học và những khoa học khác nữa, đã trở thành bộ phận hữu cơ trong đời sống nhà văn của ông. Nhưng chúng không nằm ì như một đống hàng chết. Những khoa học ấy sống trong ông, chúng liên tục phong phú thêm nhờ kinh nghiệm của ông, nhờ óc quan sát của ông, bởi cái đặc tính may mắn mà ông có là nhìn được những hiện tượng khoa học trong biểu hiện thơ của chúng, trong những thí dụ nhỏ hoặc lớn, nhưng đều bất ngờ như nhau.

Khi Prishvin viết về con người, hình như ông phải nheo mắt lại vì cái nhìn sáng suốt của mình. Ông không chú ý đến cái ngoại lai. Ông say mê những mơ ước trong lòng mỗi người, bất kể người đó là ai: sơn tràng, thợ giày, thợ săn hay nhà bác học lừng danh.

Đưa cái mơ ước thầm kín của con người ra ngoài ánh sáng – đó chính là nhiệm vụ của ông. Nhưng làm được việc đó rất khó. Không có gì bị con người giấu kín bằng mơ ước. Có lẽ vì mơ ước không chịu nổi một sự chế giễu nhỏ, cả đến một câu đùa bỡn, và tất nhiên, nó không chịu để những bàn tay hờ hững đụng vào.

Chỉ có với người đồng tâm với ta, ta mới có thể thổ lộ mơ ước của ta mà không có hại. Prishvin là người cùng tư tưởng của các nhà mơ mộng vô danh của chúng ta. Các bạn hãy nhớ đến truyện ngắn “Đôi giày” của ông về những người thợ giày “Vonchki” ở vùng Marina Rosa, những người định đóng một đôi giày tráng lệ nhất và nhẹ nhàng nhất thế gian cho người phụ nữ.

Prishvin mất đi còn để lại nhiều ghi chép và nhật ký. Trong những ghi chép ấy có rất nhiều suy tưởng của Prishvin về nghệ thuật viết văn. Trong lĩnh vực này ông cũng đi sâu không kém gì trong quan hệ đối với thiên nhiên.

Tôi nghĩ rằng có một truyện ngắn của Prishvin về cái giản dị của văn xuôi đáng được coi là kiểu mẫu về cách suy nghĩ đúng đắn. Truyện ngắn ấy tên là “Người sáng tác”. Trong truyện ngắn có đoạn đối thoại về văn học giữa nhà văn và một chú bé chăn bò.

Câu chuyện họ nói với nhau như thế này. Chú bé chăn bò bảo Prishvin:

“- Nếu thực bác viết văn thì có dễ bác toàn bịa ra cả đấy nhỉ?.

– Không phải toàn bịa đâu – tôi trả lời – Nhưng của đáng tội cũng có bịa tí ti.

– Cháu mà viết ấy à, cháu sẽ viết rất tuyệt!

– Viết đúng y như thật?

– Hoàn toàn như thật. Giả dụ, nếu cháu viết về đêm, cháu sẽ viết đêm trôi qua trên đầm lầy như thế nào.

– Cháu viết thế nào nào?

– Viết thế này! Đêm! Một bụi cây to thực là to, bên cạnh hố nước. Cháu ngồi dưới bụi cây, còn lũ vịt con thì cứ vít, vít, vít…

Nó ngừng lời. Tôi nghĩ rằng hẳn nó đang tìm chữ hoặc đang đợi hình ảnh. Nhưng nó rút ra chiếc zhaleyka và bắt đầu khoét lỗ.

– Ờ, thế rồi sao nữa? – tôi hỏi – Cháu muốn tả đêm kia mà.

– Thì cháu đã tả rồi mà – nó trả lời – Hoàn toàn đúng sự thật. Một bụi cây to thực là to! Cháu ngồi dưới bụi cây, còn lũ vịt con thì cứ suốt đêm vít, vít, vít…

– Thế ngắn quá!

– Sao vậy, lại còn “ngắn”! – chú bé chăn bò ngạc nhiên – Suốt đêm chúng nó kêu vít, vít…

Hiểu rõ câu chuyện chú bé kể, tôi nói:


– Hay quá!

– Không đến nỗi tồi, bác ạ! – nó trả lời. “

Trong sự nghiệp viết văn của ông, Prishvin là kẻ chiến thắng. Bất giác tôi nghĩ đến một câu nói của ông: “… Nếu như chỉ có những đầm lầy hoang dại là nhân chứng cho thắng lợi của anh thì chúng sẽ tỏa ra một sắc đẹp kỳ lạ, và mùa xuân sẽ còn với anh mãi mãi”.

Đúng như thế, mùa xuân của văn xuôi Prishvin sẽ còn mãi mãi trong cuộc sống và trong nền văn học xô-viết của chúng ta.

ALEKSANDR GRIN

Lúc tôi còn nhỏ, tất cả lũ học trò trung học chúng tôi đều mê mải đọc những cuốn trong “Tủ sách tổng hợp”. Đó là những cuốn sách nhỏ, bìa vàng in chữ nhỏ.

Giá những cuốn sách ấy rất rẻ. Chỉ mất mười kopek là đã được đọc “Tartarin” của Daudet hoặc “Bí Mật” của Hamsun, còn mất hai mươi kopek là đã có “David Coperfield” của Dickens hoặc “Don Quixote” của Cervantes.

“Tủ sách tổng hợp” chỉ in sách của các nhà văn Nga trong trường hợp ngoại lệ. Vì thế, khi tôi mua cuốn sách vừa xuất bản với cái tên kỳ quặc “Thác Xanh Teturi” và thấy tên tác giả Aleksandr Grin ở ngoài bìa thì dĩ nhiên tôi yên trí Grin là người nước ngoài.

Cuốn sách có vài truyện ngắn. Tôi còn nhớ lúc ấy đứng bên cạnh quán sách, nơi tôi mua cuốn đó, tôi đã giở ngay nó ra và đọc hú họa.

“Không có hải cảng nào vô tích sự và thần tiên hơn là Liss. Cái thành phố đa ngữ này giống như một tên du đãng đã quyết dấn thân vào mớ bòng bong của cuộc sống định cư. Nhà ở dựng lung tung giữa vài cái gọi là phố. Không thể có phố xá trong nghĩa đen ở Liss, bởi vì thành phố này mọc lên trên những vách đá và đồi núi, nối với nhau bởi những bậc thang, những cây cầu và… những lối mòn nhỏ hẹp.

Tất cả những cái đó ngợp trong cây cối rậm rạp miền nhiệt đới, trong những bóng cây hình quạt long lanh, những đôi mắt thơ ngây nồng cháy của đàn bà con gái. Đá vàng, bóng cây xanh, những vết rạn đẹp như tranh vẽ ở những bức tường cũ kỹ. Trên một cái sân hình nấm một gã lầm lì, ngậm tẩu đang sửa chữa một con thuyền lớn. Tiếng người hát xa xa và tiếng vang của những giọng ca trong khe núi. Những khu chợ dựng trên những cọc chống, dưới những tấm vải bạt và những chiếc ô lớn. Ánh lấp lánh của vũ khí, màu áo đàn bà sặc sỡ, hương thơm của hoa và cây cối làm dậy lên trong lòng nỗi buồn nhớ âm thầm như trong mộng – nỗi nhớ tình yêu say đắm và những cuộc hẹn hò. Bến tàu nhếch nhác như một gã nạo ống khói trẻ tuổi. Những cánh buồm cuốn, giấc mộng của chúng và buổi sáng có cánh, nước màu xanh chàm, những núi đá dựng đứng, chân trời đại dương. Ban đêm – đám cháy từ tính của những vì sao, những con thuyền với những giọng cười – đó là Liss!”

Tôi đứng trong bóng mát một cây dẻ của thành phố Kiev mà đọc, đọc ngấu nghiến, cho đến hết cuốn sách kỳ lạ, quái dị như một giấc mơ.

Bất thần tôi cảm thấy buồn nhớ cái ánh lấp lánh của gió, mùi nước biển mằn mặn, nhớ Liss, những ngõ hẻm nóng nực, những đôi mắt nồng cháy của các cô gái, tảng đá xù xì màu vàng với những vỏ hà vỏ hến màu trắng còn lại, khói hồng của những đám mây bay vút lên trời xanh.

Không, đó chẳng phải là nỗi buồn, mà là niềm mong ước da diết muốn được tự mắt trông thấy tất cả những cái đó và được vô tư lự hòa mình vào trong cuộc sống tự do miền ven biển kia.

Nhưng ngay lúc đó tôi sực nhớ ra rằng có một số nét của cái thế giới rực rỡ ấy tôi đã từng biết.

Nhà văn Grin xa lạ chỉ gộp những cái đó lại trong một trang giấy. Nhưng tôi đã thấy chúng ở đâu nhỉ?

Tôi nhớ ra ngay. Tất nhiên, những cái đó ở Sevastopol, trong cái thành phố như nhô lên khỏi những đợt sóng màu lục của biển cả, phơi mình dưới ánh mặt trời trắng lóa và trong những bóng râm bị cắt thành từng dải xanh như da trời. Tất cả cái hỗn độn vui vẻ của Sevastopol ở đây, trên những trang sách của Grin.

Tôi đọc tiếp và gặp một bài ca thủy thủ:

Sao Thập tự phương Nam rực rỡ chân trời


Khi gió nổi – là địa bàn tỉnh giấc

Chúa ơi, hãy phù hộ cho những con tàu

Và rủ lòng thương lấy chúng tôi.

Lúc đó tôi chưa biết là chính Grin đã đặt ra những ca khúc cho những truyện ngắn của mình.

Con người ngây ngất say vì rượu, vì ánh nắng lấp lánh, vì niềm vui vô tư lự, vì cuộc đời hào phóng dẫn ta đi mãi vào cái óng ánh và cái mát mẻ của những ngóc ngách đầy cám dỗ của nó, và sau hết, con người say vì “cảm giác cao thượng”.

Tất cả những cái đó đều có trong những truyện ngắn của Grin.

Khi tôi biết Grin là người Nga và tên thực của ông là Aleksandr Stepanovich Grinyoky thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên lắm về chuyện đó. Có lẽ đối với tôi lúc đó Grin đã rành rành là một cư dân Hắc hải, trong văn học là người đại diện cho một bộ lạc nhà văn trong đó có cả Bagritzky, cả Kataev và nhiều nhà văn Hắc hải khác.

Tôi chỉ ngạc nhiên khi biết tiểu sử của Grin, khi tôi được biết về cuộc đời cay cực chưa từng thấy của một con người bị xã hội ruồng bỏ, của một kẻ giang hồ thâm căn cố đế. Không hiểu sao con người kín tiếng và bị những tai ương đánh cho tơi tả ấy, qua một cuộc đời đầy cực nhọc, lại có thể giữ được cho mình cái thiên tư vĩ đại của trí tưởng tượng trong trắng và mạnh mẽ, lòng tin ở con người và nụ cười hiền lành ngượng ngập. Chả thế mà Grin đã viết về mình: “Bao giờ tôi cũng nhìn thấy cảnh trời mây bên trên những rác rưởi thối tha của những ngôi nhà thấp bé”.

Ông hoàn toàn có quyền nói về ông bằng lời của nhà văn Pháp Jules Renard: “Quê hương tôi là nơi có những đàn mây trắng tuyệt vời lang thang”.

Nếu như Grin chết đi để lại cho chúng ta một bài thơ bằng văn xuôi “Những Cánh Buồm Đỏ Thắm” không thôi, thì thế cũng đã đủ để chúng ta đặt ông ngang hàng với những nhà văn xuất chúng đã tung ra lời kêu gọi làm rung động trái tim người: đạt tới cái hoàn mỹ.

Hầu hết các tác phẩm của mình được Grin viết ra để bênh vực cho ước mơ. Chúng ta cần phải biết ơn ông vì điều đó. Chúng ta biết rằng tương lai mà chúng ta đang hướng tới sinh ra từ một đặc tính vô địch của con người – biết yêu và mơ ước.

EĐUARĐ BAGRITZKY

Ta có thể báo trước cho những người nghiên cứu tiểu sử Eđuarđ Bagritzky biết rằng họ sẽ phải chịu nhiều khốn khó, hoặc nói theo cách người ta thường nói “phải biết giá bao nhiêu nửa ký đắng cay”, bởi vì tìm ra tiểu sử của Bagritzky không phải là chuyện dễ dàng.

Bagritzky kể không biết bao nhiêu chuyện không có thực về mình, những chuyện ấy cuối cùng gắn chặt vào đời ông, đến nỗi có lúc không còn sao biết được đâu là thực đâu là huyền thoại nữa. Không thể nào khôi phục được sự thật, “chỉ một sự thật mà thôi và không có gì khác ngoài sự thật”.

Hơn nữa, tôi không tin là cần thiết phải làm cái việc uổng công vô ích ấy. Những chuyện bịa của Bagritzky là một phần đặc sắc trong tiểu sử ông. Chính ông cũng thành thật tin vào những chuyện bịa của mình. Không thể hình dung nhà thơ có đôi mắt xám tươi cười và giọng nói hổn hển, nhưng lại như ca hát ấy, nếu không có những chuyện bịa của ông.

Trên bờ biển Egée có một bộ lạc rất đẹp của những người “levanti”. Họ là những người ham hoạt động và vui vẻ. Bộ lạc ấy liên hợp những người đại diện của nhiều dân tộc khác nhau: người Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, người Ả Rập và Do Thái, Sirya và Ý.

Liên bang Xô viết của chúng ta cũng có những “levanti” của nó. Đó là “người Hắc hải”. Họ cũng là những người thuộc các dân tộc khác nhau nhưng cùng là những người yêu đời, hay giễu cợt, quả cảm và yêu đến mê mệt Hắc hải của họ, yêu mặt trời khô khan, cuộc sống hải cảng, yêu “mẹ Ôđessa”, yêu những quả mơ và những trái dưa hấu, yêu cuộc sống sục sôi muôn màu sắc bên bờ biển.

Eđuarđ Bagritzky là người thuộc bộ lạc đó.


Ông, lúc thì giống như tay thủy thủ lười biếng trên chiếc thuyền buồm tỉnh Kherson, lúc thì giống như một “lỏi” đánh bẫy chim ở cảng Ôđessa, lúc thì giống anh bộ đội ngang tàng trong sư đoàn Kotoky, lúc thì lại giống như Til Ulenshpigel.

Nếu thêm tính yêu thi ca tha thiết và tài thơ uyên bác cao rộng vào bên những tính chất tưởng như không thể hòa hợp với nhau thì tất cả những cái đó sẽ hợp thành tính cách toàn vẹn và duyên dáng của ông.

Lần đầu tiên tôi gặp Bagritzky là trên đê chắn sóng ở cảng Ôđessa. Ông vừa viết xong bài thơ về trái dưa hấu – một trường ca chính cống, kỳ lạ vì chất tươi ngon của những cảm xúc và từ ngữ, tựa hồ nó bị một ngọn sóng trong bão tố Hắc hải làm bắn nước lên mình.

Chúng tôi câu cá bống và cá phèn bằng dây câu thả dài ngoẵng quăng xuống biển. Những con thuyền chất đến ngọn toàn dưa hấu da sọc, căng những cánh buồm vá víu đi ngang mặt chúng tôi. Gió gió mát nổi lên, những con thuyền nghiêng ngả và chìm xuống tận boong, làm bọt bắn tung tóe quanh chúng.

Bagritzky đưa lưỡi liếm đôi môi mặn và thở gấp, bắt đầu ngân nga đọc bài “Dưa Hấu”.

Cô gái bắt gặp trên bờ biển một quả dưa hấu có khắc hình trái tim do sóng vứt lên. Chắc là quả dưa đã trôi dạt từ một chiếc ghe bầu bị đắm.

Chẳng ai bảo cho nàng biết

Rằng tim tôi nàng giữ nơi tay!…

Ông sẵn sàng ngâm thuộc lòng thơ của bất cứ thi sĩ nào. Trí nhớ của ông thực kỳ lạ. Trong lúc ông ngâm, thậm chí những bài thơ quen thuộc cũng nổi lên một âm điệu mới, ngân nga. Tôi chưa thấy ai có lối ngâm thơ như thế, trước và sau Bagritzky.

Những âm chất của từng từ, từng khổ thơ bay bổng lên đến mức diễn đạt đầy đủ, mệt mỏi và làm người nghe đau nhói nơi tim. Bất kỳ thơ của ai, “Bài Ca Về John Hạt Đại Mạch” của Burns, “Dona Anna” của Blok hay là “Vì Bến Bờ Tổ Quốc Xa Xôi” của Pushkin mà được Bagritzky ngâm, thì khi nghe ta không thể không thấy nghẹn nơi cổ họng – điềm báo trước của những giọt nước mắt.

Từ hải cảng chúng tôi ra chợ Hy Lạp. Ở chợ có một phòng trà. Cùng với nước trà ở đây người ta bán đường hóa học, một mẩu bánh và phó mát cừu. Từ sáng sớm chúng tôi chưa ăn gì.

Dạo ấy ở Ôđessa có một lão ăn mày. Lão làm cho cả thành phố khiếp đảm vì lão không xin của bố thí theo cách những người hành khất khác thường làm. Lão không hạ mình chìa bàn tay run rẩy ra và hát bằng giọng mũi: “Lạy các ông các bà giàu lòng thương kẻ khó! Xin các ông các bà hãy để mắt đến tấm thân tàn tật của già!”.

Không! Ông lão vóc cao, râu bạc như cước, đôi mắt đỏ kéo màng nọ chỉ đi xin ở các phòng trà. Chưa bước vào cửa lão đã lên giọng khàn khàn, ầm ầm trút những câu chửi rủa lên đầu khách.

Trong Sấm truyền, nhà tiên tri tàn bạo nhất là Eremi, nổi tiếng bậc thầy vô địch về môn nguyền rủa, cũng phải “ra không” trước lão ăn mày nọ, nói theo cách người Ôđessa.

– Lương tâm các người để đâu cả rồi, hả? Các người là người hay không còn là người nữa, hả?! – lão hành khất thét lên và lập tức tự trả lời câu hỏi hùng hồn của lão – Người gì các người khi mà các người điềm nhiên ngồi chén bánh mì với phó mát cừu béo ngậy, còn lão đây thì lang thang từ sáng đến giờ, lòng đói bụng rỗng! Giá mà mẹ các người biết các người đã trở thành những kẻ như thế nào, chắc bà lão phải lấy làm sung sướng vì đã không phải sống đến lúc phải nhìn thấy cảnh càn rỡ này. Tại sao anh lại ngoảnh mặt đi thế, đồng chí? Anh không điếc đấy chứ? Tốt hơn hết là hãy dằn cái lương tâm đen tối của anh xuống mà giúp cho lão già đói khát này!

Mọi người đều bố thí cho lão. Không ai chịu đựng nổi cuộc tấn công dồn dập của lão. Người ta nói rằng lão già lấy tiền góp nhặt được đi buôn muối lậu.

Trong phòng trà người ta đưa ra cho tôi một miếng phó mát cừu hăng xì bọc trong một mảnh giẻ ướt. Ăn loại phó mát cừu này thường bị viêm lợi.

Đúng lúc đó lão ăn mày bước vào, và ngay từ ngoài cửa lão đã chửi rủa ầm ầm.

– Được lắm! – Bagritzky giận dữ nói – Hình như lão đã dẫn thân vào tròng rồi đấy. Cứ mặc cho lão đến chỗ bọn mình. Cứ để lão đến! Lão mà cả gan thì cứ đến chỗ bọn mình!

Tôi hỏi:

– Thì sao?

– Lão sẽ gặp sự chẳng lành đâu. – Bagritzky trả lời. – Ồ, chẳng lành đâu mà! Cứ để mặc lão đến bàn chúng ta.


Lão ăn mày lừ lừ tiến đến. Cuối cùng lão dừng lại bên chúng tôi, mắt long lanh nhìn miếng phó mát cừu trong vài giây và cổ họng lão sôi ầm ầm. Có lẽ lão giận lắm, đến nỗi lão thở hồng hộc và không tuôn cơn giận ra thành lời được. Nhưng rồi lão cũng hắng giọng và quát lên:

– Biết đến bao giờ lương tâm mới thức dậy trong lòng lũ trai trẻ này! Chúng nó đang vội vã hốc cho hết miếng phó mát để khỏi phải cho lão già bất hạnh lấy một phần tư chứ đừng nói gì một nửa.

Bagritzky đứng dậy, lấy tay đặt nơi tim và bắt đầu nói khe khẽ và xúc động, mắt không rời khỏi lão già bị xơ cứng động mạch. Ông nói run run trong nước mắt, bằng một giọng nức nở thê thảm.

Bạn tôi, người anh em mệt mỏi và đau khổ của tôi.

Xin chớ ngã lòng, dù anh có là ai đi nữa!

Lão ăn mày câm bặt. Lão chăm chú nhìn Bagritzky. Mắt lão trợn lên. Rồi lão bắt đầu rút lui và khi nghe đến những chữ “Bạn hãy tin đi, sẽ đến ngày cả Vaan cũng chết” thì lão quay ngoắt lại vấp đổ một chiếc ghế và lảo đảo lết chạy ra cửa.

– Các ngài thấy chưa? – Bagritzky nghiêm trang – Đến cả những tên ăn mày ở Ôđessa cũng không chịu nổi thơ Non.

Cả phòng trà cười phá lên.

Hết ngày này sang ngày khác Bagritzky mất hút trong cánh đồng cỏ đàng sau vịnh Sukhoy để bẫy chim.

Trong căn phòng quét vôi trắng của ông ở Monđavanka có treo hàng chục chiếc lồng, trong đó có những con chim trụi lông. Ông rất hay đem chúng ra khoe, đặt biệt là những con zhurbay dị thường nào đó. Đó là những con sơn ca thảo nguyên xấu xí, cũng xơ xác y như những con chim khác của ông.

Trấu do chim nhè ra từ những lồng chim không ngớt rơi xuống đầu chủ và khách.

Bagritzky dốc những đồng xu cuối cùng của mình mua thức ăn cho chim.

Những tờ báo Ôđessa trả ông rẻ mạt: một bài thơ tuyệt tác chỉ độ năm, mười rúp. Mấy năm sau thanh niên đã biết và đã thuộc lòng bài thơ đó.

Chắc Bagritzky cho rằng như thế là phải giá rồi. Ông không biết giá trị thực của mình và trong những công việc thực tế ông là người nhút nhát. Trong lần đầu tới Moskva, ông không khi nào đến nhà xuất bản một mình. Bao giờ ông cũng phải dẫn theo một người nào đó trong số bạn bè “cho nó vững dạ”. Người bạn đóng vai chính trong cuộc đàm phán, còn Bagritzky chỉ nín lặng và cười tủm tỉm.

Tại Moskva ông ở nhà tôi, trong một căn hầm tại ngõ Obưđensky. Đến nơi, ông báo trước: “Tôi sẽ ở nhà anh lâu đấy”. Và quả nhiên suốt một tháng trời ông chỉ ra phố có hai lần, còn thì lúc nào cũng ngồi bằng tròn xềm xệp trên đi-văng, thở hồng hộc vì suyễn.

Trên đi-văng ông để đầy sách, bản thảo thơ của người khác và những vỏ bao thuốc lá. Ông ghi thơ của mình lên trên mặt bao. Thỉnh thoảng ông đánh mất những cái vỏ bao nọ, nhưng chỉ buồn bực ít lâu.

Cứ thế ông ngồi hết cả tháng, khoái trá với Ulalaehina của Selvinsky, kể những chuyện chẳng đúng sự thực chút nào và tán gẫu với lũ “nhóc văn chương” – những người Ôđessa. Đám này kéo đàn kéo lũ bâu lấy ông khi ông vừa mới ló mặt ra ở Moskva.

Ít lâu sau, ông dọn hẳn về Moskva và thay vào lũ chim, ông mua những bể cá rất lớn. Phòng của ông giống như một thế giới dưới nước. Ông có thể ngồi hàng giờ, nghĩ ngợi và ngắm những con cá đủ mọi màu sắc.

Ta có thể nhìn thấy cũng một thế giới dưới nước hệt như thế khi đứng trên con đê chắn sóng ở Ôđessa: cũng những thân cỏ ngầm trắng bạc đung đưa, giống như những đám san hô và những con sứa chậm chạp bơi qua, dồn ép nước biển từng đợt mạnh mẽ.

Tôi cho rằng việc ông dọn về ở Moskva là một sai lầm. Bagritzky không thể sống tách rời miền Nam, biển cả và Ôđessa, tách rời những món ăn Ôđessa quen thuộc của ông: cà, cà chua, phó mát cừu, cá thu tươi. Toàn thân ông được sưởi ấm bởi phương Nam, sức nóng của thứ đá vôi vàng lỗ chỗ đã dựng nên Ôđessa, hương ngải cứu, muối, cây da hợp và biển cả.

Ông chết sớm, chưa kịp chín muồi, chưa chuẩn bị sẵn sàng để chiếm thêm vài đỉnh cao khó đạt tới của thi ca, như ông thường nói.

Một đại đội kỵ binh đi theo sau linh cữu của ông, móng ngựa đập giòn trên mặt đường lát đá. Và ta lại nhớ đến bài thơ “Nghĩ Về Opanas”, đến con chiến mã của Kotoky “Con ngựa trắng lấp lánh như đường nguyên chất”, đến nền thi ca thảo nguyên rộng lớn vẫn cùng đi với Bagritzky, vịn vào tay ông mà đi, trên những con đường nóng bỏng đầy cát bụi. Thơ ấy là người thừa kế của “Lời Truyền Về Đạo Quân Igor” và của Taras Shevchenko bền như hương cỏ xạ hương, rám nắng như cô gái nhỏ miền ven biển, vui như gió mát “lê-văng” trên Hắc hải thân yêu.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.