Đọc truyện Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa – Chương 10
Tôi tới gần vật trắng ấy và cúi xuống. Tôi nhìn thấy chiếc áo ngoài của Anfisa và chiếc áo cánh nhỏ của cô. Đôi giày ướt sũng cũng lăn lóc ngay đấy.
Polina hét lên, chạy ngược về phía nhà mình. Tôi đi tới bến phà, đánh thức ông lái. Chúng tôi ngồi vào cái thuyền gỗ và bắt đầu chèo, cứ thế bơi hết bờ bên này sang bờ bên kia, chăm chú nhìn xuống nước.
– Đêm thì tìm thế quái nào được cơ chứ! Trời lại mưa thế này! – người lái đò nói và ngáp, ông ta vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn – Xác mà chưa nổi lên thì tìm mấy cũng chẳng được. Ông ạ, cả các cô gái đẹp thần chết cũng không tha đâu. Vậy đấy, ông bạn ạ! Cô ấy cởi xống áo là muốn chết cho được nhẹ nhàng hơn đấy. Khốn nạn cho cô ấy!
Sáng hôm sau người ta tìm thấy Anfisa ở gần đập nước.
Nằm trong quan tài, cô vẫn đẹp khôn tả với những bím tóc tết vàng óng, nặng và ướt, với nụ cười biết lỗi trên đôi môi nhợt nhạt.
Một bà lão nào đó nói với tôi:
– Này anh con trai, chớ có dòm. Chớ! Cô ấy đẹp đến nỗi tim anh có thể vỡ ra bất thần đấy.
Nhưng tôi không thể không nhìn Anfisa. Lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến tình yêu vô bờ bến của người đàn bà, cái tình yêu còn mạnh hơn cái chết. Trước lúc ấy tôi chỉ biết về tình yêu qua những cuốn sách và không tin ở nó lắm. Không hiểu sao lúc đó tôi lại nghĩ rằng phần nhiều chỉ đàn bà Nga mới có một tình yêu như thế.
Đám tang rất đông người đi đưa. Kolya đi mãi tít đàng sau, nó sợ người nhà Anfisa. Tôi đã định đến bên nó, nhưng nó chạy vội đi, ngoặt vào một ngõ hẻm và mất hút.
Tâm hồn tôi bị đảo lộn hoàn toàn và tôi không thể nào viết thêm lấy một dòng. Buộc lòng, tôi phải rời ngoại ô vào thị trấn, nói cho đúng hơn là đến ga, tới ngôi nhà mờ tối và thấp của bác sĩ đường sắt – bà Marya Dmitrievna Satzkaya.
Trước ngày Anfisa chết ít lâu, tôi có lần đi ngang vườn hoa thị trấn. Bên cạnh rạp chiếu bóng mùa hè có chừng bốn chục đứa trẻ ngồi lê trên mặt đất. Chắc là chúng đang chờ đợi gì và liến láu như một bầy chim sẻ.
Một người đàn ông tóc bạc, từ rạp chiếu bóng bước ra, chìa vé cho lũ trẻ và chúng chạy ùa vào rạp, vừa chạy vừa chen lấn, chửi bới nhau.
Căn cứ vào bộ mặt còn trẻ, người đàn ông tóc bạc nọ tuổi không quá bốn mươi. Ông ta hồn hậu nheo mắt nhìn tôi, lấy tay vẫy tôi, rồi bỏ đi.
Tôi định bụng hỏi bọn trẻ xem con người kỳ dị đó là ai. Tôi vào rạp, ngồi một tiếng rưỡi đồng hồ để xem một cuốn phim cũ “Những Con Quỷ Đỏ”, nghe lũ trẻ huýt sáo, giậm chân, thở hổn hển, kêu í ới vì thích thú và vì sợ hãi.
Tan rạp, tôi ra cùng lũ trẻ, hỏi chúng xem con người tóc bạc kia là ai và vì sao ông ta lại mua vé cho chúng.
Lập tức một cuộc mít tinh của lũ trẻ lắm điều được tổ chức xung quanh tôi và rồi ít nhiều tôi đã được biết về con người ấy.
Thì ra người đàn ông tóc bạc là anh của nữ bác sĩ đường sắt Marya Satzkaya. Ông này có bệnh, ông ta bị “loạn trí”. Chính phủ trợ cấp cho ông rất hậu. Còn vì sao ông ta được trợ cấp thì không ai biết. Mỗi tháng một lần, cứ vào ngày này, khi người ta mang tiền trợ cấp đến cho ông, thì ông gọi tuốt bọn trẻ con ở khu vực ga lại và dẫn chúng đi xem phim.
Lũ trẻ bao giờ cũng biết chính xác khi nào ông được lĩnh trợ cấp. Ngày hôm đó, từ sáng sớm chúng đã chen chúc nhau quanh nhà ông, ngồi ở cái vườn nhỏ trước ga và làm ra bộ hoàn toàn vô tình tới đó.
Đó là tất cả những gì tôi tìm hiểu được ở lũ trẻ. Tất nhiên, trừ những chi tiết vụn vặt không liên quan đến cái mà tôi cần biết. Thí dụ như lũ trẻ ở xóm thợ Yanskaia cũng lân la xán đến với Satzky, nhưng bị bọn trẻ ở khu nhà ga chống lại kịch liệt.
Bà chủ nhà tôi nằm liệt giường sau cái chết của Anfisa, luôn miệng than thở vì bệnh tim. Một hôm Marya Satzkaia đến thăm bệnh và tôi làm quen với bà. Đó là một phụ nữ vóc cao, tính tình cương nghị, đeo kính trắng. Tuy đã đứng tuổi, bà vẫn giữ được dáng dấp một nữ sinh viên đại học.
Qua bà, tôi được biết anh bà là một nhà địa chất, ông bị đau thần kinh và đúng là ông có được hưởng tiền trợ cấp đặc biệt vì đã có công cống hiến nhiều tác phẩm khoa học nổi tiếng ở trong nước cũng như ở châu Âu.
– Ông chẳng nên ở ngoại ô này làm gì – bà Marya nói với tôi bằng giọng của thầy thuốc, không quen bị phản đối – Mùa thu đến nơi rồi, mưa nhiều, ở đây rồi ngập ngụa, bẩn lắm. Lại còn ảm đạm nữa, làm việc sao nổi. Ông cứ sang bên tôi. Ở nhà tôi chỉ có cụ bà thân sinh ra tôi, ông anh tôi và tôi. Nhà ở gần ga, lại những năm buồng. Anh tôi là một người lịch thiệp, anh ấy không làm phiền ông đâu.
Tôi bằng lòng sang ở nhà bà. Thế là tôi được làm quen với nhà địa chất Vasili Dmitrievich Satzky – một trong những nhân vật tương lai của cuốn truyện dài Kara-Bugaz.
Ngôi nhà này quả yên tĩnh, có thể nói là buồn ngủ nữa. Bà Marya suốt ngày ở trong phòng khám, hoặc đi thăm bệnh nhân, bà lão thân sinh ngồi chơi bài một mình, còn nhà địa chất thì họa hoằn lắm mới ra khỏi phòng.
Từ sáng ông đọc hết các loại báo, không sót dòng nào và hình như đang hối hả viết lách cái gì đó cho đến tận khuya. Trong một ngày ông viết hết vèo một quyển vở học sinh loại dày. Thỉnh thoảng ở cái nhà ga hiu quạnh này mới vẳng lại tiếng còi của chiếc đầu tàu độc nhất đang dồn toa.
Thời gian đầu, Satzky còn lạ tôi, sau ông quen dần và bắt đầu nói chuyện với tôi. Trong những câu chuyện ấy tôi hiểu được đặc tính bệnh của ông. Sáng ngày ra, khi Satzky chưa mệt thì ông là một người khỏe mạnh hoàn toàn và là người tiếp chuyện thú vị. Ông hiểu biết nhiều. Nhưng chỉ hơi mệt một chút là ông bắt đầu nói năng lảm nhảm. Nội dung căn bản của những câu nói lảm nhảm đó là một ý điên rồ, nhưng nó lại phát triển rất lô-gích.
Bà Marya cho tôi xem những quyển vở của Satzky trong đó ông viết chi chít những từ rời rạc. Câu kệ không có. Đại khái những ghi chép đó như thế này: “Những bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ, nước Đức, những Gogensonlern, sự hủy diệt nền văn minh”, “Lipny, sự giảo hoạt, đạo đức giả, dối trá”.
Đó là những từ chọn theo một vần chữ cái nào đó. Nhưng đôi khi trong đó cũng có thể tìm ra những lời kín đáo chỉ vào một ý.
Trong lúc tôi làm việc, Satxki không bao giờ làm phiền, thậm chí ở buồng bên cạnh ông cũng đi rón rén.
Bệnh sử của ông đã được tôi tả lại trong “Kara-Bugaz”. Trong thời gian đoàn địa chất của ông hoạt động ở miền Trung Á, ông bị rơi vào tay bọn basmach[15]. Ngày nào chúng cũng mang ông và những tù binh khác ra bắn. Nhưng Satzky gặp may. Khi chúng bắn những người số 5 theo thứ tự thì ông số 3, khi chúng bắn người số 2 thì ông lại đứng đầu hàng. Ông còn sống, nhưng phát điên. Người em gái khó khăn lắm mới tìm được ông ở Krasnovodsk, ở đó ông sống trong một toa đen rách nát.
[15] Những đơn vị du kích địa phương chống lại nhà cầm quyền xô-viêt trong thời gian sau Cách mạng Tháng Mười.
Ngày nào ông cũng tới bưu điện Lipny và gửi một thư bảo đảm cho Hội đồng Ủy viên Nhân dân. Theo yêu cầu của bà Marya, người phụ trách bưu điện không gửi những bức thư ấy đi Moskva mà đưa lại cho bà để bà đốt đi.
Tôi muốn biết Satzky đã viết gì trong những báo cáo đó. Ít lâu sau tôi đã được biết những điều ấy.
Có lần ông vào phòng tôi, khi tôi còn đang nằm đọc sách. Đôi giày của tôi đặt bên cạnh giường, mũi hướng ra giữa phòng.
– Ông chớ có bao giờ đặt giày như thế, – Satzky cáu kỉnh nói. – Đặt như thế rất nguy hiểm.
– Tại sao?
– Tôi sẽ cho ông biết ngay bây giờ.
Ông bước ra và một phút sau đã mang lại cho tôi một tờ giấy.
– Ông đọc đi! – Satzky – Khi đọc xong, ông gõ vào tường. Tôi sẽ qua phòng ông và nếu có điều gì ông chưa hiểu, tôi sẽ giải thích cho ông rõ.
Ông bước ra và tôi bắt đầu đọc:
“Gửi Hội đồng Ủy viên Nhân dân.
Tôi đã nhiều lần báo trước để Hội đồng ủy viên nhân dân biết mối hiểm họa có cơ làm cho nước ta bị huỷ diệt.
Ai cũng biết rằng trong những địa tầng có chứa một năng lượng vật chất rất lớn (cũng giống như trong than đá, dầu hỏa, đá phiến). Con người đã học cách giải phóng nguồn năng lượng đó và sử dụng nó.
Nhưng ít người biết rằng chính trong những địa tầng còn dồn nén một năng lượng tinh thần của những thời đại mà trong những thời đại đó những lớp đất ấy đã hình thành.
Thị trấn Lipny nằm trên những tầng đá vôi kỷ Devonmạnh nhất ở châu Âu. Trong kỷ Devon trên trái đất chỉ mới nảy sinh một ý thức mờ tối và độc ác, không có một chút dấu hiệu nhân tính. Khối óc u mê của loài thuỷ giáp xác lúc đó chiếm ưu thế.
Năng lượng tinh thần còn phôi thai ấy tập trung cả ở trong những con ammonit thân mềm. Những tầng đá vôi kỷ Devon chứa đầy những con ammonit đã hóa thạch.
Mỗi một con ammonit là một khối óc nhỏ của thời kỳ nọ và nó chứa trong lòng nó một năng lượng tinh thần dữ tợn lớn lao.
Qua nhiều thế kỷ, may mắn thay, người ta vẫn chưa học được cách giải phóng năng lượng tinh thần của những địa tầng kia. Tôi nói: “may mắn thay” là vì nếu ta đưa năng lượng ấy ra khỏi trạng thái tĩnh của nó, thì nó có thể giết chết cả nền văn minh nhân loại. Khi nhiễm phải chất độc của nó sẽ con người biến thành con thú tàn bạo, chỉ còn biết nghe theo những bản năng thấp hèn và mù quáng. Mà điều đó có nghĩa là sự hủy diệt của nền văn hóa.
Nhưng, như tôi đã nhiều lần báo động để Hội đồng ủy viên nhân dân biết, bọn phát xít đã tìm ra cách giải phóng năng lượng tinh thần kỷ Devon ra và làm cho những con ammonit sống lại.
Chính vì những tầng Devon trù phú nhất nằm ngay dưới thị trấn Lipny của chúng ta, cho nên không phải ở một nơi nào khác, mà chính tại đây bọn phát xít định thả năng lượng ấy ra. Nếu như chúng thực hiện được điều đó thì không thể nào ngăn ngừa nổi cái chết trước hết về mặt tinh thần rồi đến thể xác của toàn thể loài người.
Kế hoạch giải thoát năng lượng tinh thần kỷ Devon ở trong vùng Lipny đã được bọn phát xít nghiên cứu rất tỉ mỉ. Nhưng cũng như mọi kế hoạch phức tạp nhất, nó cũng dễ bị phá vỡ. Chỉ cần không tính trước một chi tiết vụn vặt, thế là kế hoạch tan tành.
Vì thế, bên cạnh sự cần thiết phải tức tốc dùng những binh đoàn lớn bao vây Lipny, phải hết sức nghiêm khắc ra lệnh cho nhân dân tỉnh này từ bỏ những thói quen (bởi vì kế hoạch của bọn phát xít chính là dựa trên nếp sống đã quen thuộc của dân chúng Lipny) và tạo ra những thói quen ngược với điều mà bọn phát xít trông đợi. Tôi xin dẫn ra một thí dụ làm sáng tỏ điều này. Tất cả công dân thị trấn Lipny khi đi ngủ đều đặt giày của họ bên cạnh giường, mũi trở ra ngoài. Từ nay về sau cần phải làm ngược lại – đặt mũi giày quay vào tường. Chính chi tiết đó có thể là cái mà kế hoạch của bọn phát-xít đã không tính đến và vì cái mà thực chất là nhỏ nhặt ấy, kế hoạch của chúng sẽ bị vỡ.
Cần phải nói thêm rằng sự thẩm lậu tự nhiên (nói cho đúng, không đáng kể) của bệnh tinh thần truyền nhiễm có xuất xứ từ những tầng Devon ở Lipny đã dẫn đến chỗ phong hóa của dân chúng thị trấn này thô lỗ hơn nhiều so với những thị trấn khác cùng cỡ. Có ba thị trấn nằm trên những lớp đá vôi Devon là: Kromy, Lipny và Elettz. Chả thế mà đã có câu tục ngữ từ xưa “Quân trộm cắp nhà ở Kromy, đẹp vì trộm cắp là thành Lipny, cha đẻ quân trộm cắp là thành Elettz”.
Gián điệp của chính phủ phát xít tại thị trấn Lipny là tên chủ hiệu thuốc ở địa phương”.
Giờ thì tôi đã hiểu tại sao Satzky đã quay mũi giày của tôi vào tường. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy khiếp sợ. Tôi đã hiểu hết tính chất bấp bệnh của sự yên tĩnh trong gia đình Satzky. Sự bùng nổ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Sau mới biết những vụ bùng nổ cũng chẳng hiếm hoi gì, nhưng mẹ Satzky và bà Marya đã khéo che giấu, không cho người ngoài biết.
Tối hôm sau, khi chúng tôi đang ngồi uống trà và nói chuyện bình thường về liệu pháp vi lượng đồng căn thì Satzky vớ lấy vò sữa và bình thản trút sữa vào ống khói ấm samovar. Bà cụ thân sinh ông hét lên. Bà Marya nghiêm khắc nhìn ông và nói:
– Anh làm cái trò gì vậy?
Satzky cười với vẻ biết lỗi, giải thích rằng chính cái hành động man rợ đối với sữa và ấm samovar chắc chắn là điều mà bọn phát xít chưa tính đến trong kế hoạch của chúng, vì thế tất nó sẽ phá vỡ kế hoạch đó và cứu vớt toàn thể nhân loại.
– Đi vào phòng!
Vẫn bằng một giọng nghiêm khắc, bà Marya nói với ông và bà đứng dậy, giận dữ mở toang cửa sổ cho khói sữa cháy bay ra khỏi phòng.
Satzky cúi đầu, ngoan ngoãn đi về phòng mình.
Nhưng trong những “giờ tỉnh táo” Satzky lại rất thích nói chuyện và nói rất nhiều. Lúc đó tôi mới biết ông làm việc lâu năm ở miền Trung Á và là một trong những người đầu tiên khảo sát vịnh Kara-Bugaz.
Ông đã đi xem hết bờ đông của vịnh. Thời gian đó công việc của ông được coi là cực kỳ nguy hiểm. Ông miêu tả những bờ biển đó, ghi vào bản đồ và tìm ra trong những ngọn núi khô cằn gần vịnh một vùng có than đá.
Satzky cho tôi xem rất nhiều ảnh. Trông những ảnh đó mà rợn người. Chỉ có người làm công tác địa chất mới có thể chụp ảnh những ngọn núi bị cày lên bởi một mạng lưới những đường rãnh cổ quái và giống hệt bộ óc người để trần, hoặc ảnh những tầng đất lở hùng vĩ – cái cao nguyên hung dữ Ust-Urt. Nó cất mình lên như một bức tường đen thẳng đứng trên sa mạc.
Nhờ Satzky mà lần đầu tiên tôi được biết về Kara-Bugaz, cái vịnh đáng sợ và bí ẩn của biển Kaspy, về những trữ lượng mirabilit không bao giờ cạn trong biển này, về khả năng tiêu diệt sa mạc.
Satzky căm thù sa mạc sâu sắc, không một chút thương hại. Chỉ có con người mới có thể căm thù đến như vậy. Ông gọi sa mạc là cái nhọt bọc, là cái mụn sâu quảng, là khối u ác đang gặm dần mặt đất, là sự tàn độc không tài nào hiểu nổi của thiên nhiên.
Ông nói:
– Sa mạc chỉ biết giết hại mà thôi. Đó là thần chết. Nhân loại cần phải hiểu điều đó. Tất nhiên, nếu như nhân loại chưa mất trí.
Thật lạ lùng khi nghe những lời lẽ như vậy ở miệng một người điên.
– Phải trói gô nó lại, cái sa mạc ấy, không cho nó thở, đánh liên tục, không thương tiếc, đánh cho kỳ chết. Đánh không mệt mỏi, chừng nào nó tắt thở mới thôi. Và trên xác nó, một thiên đường nhiệt đới ẩm ướt sẽ mọc lên.
Ông đánh thức lòng căm thù sa mạc đã thiếp ngủ trong tôi, cái dư âm thời niên thiếu của tôi.
Satzky nói:
– Nếu người ta chịu bỏ ra chỉ một nửa số tiền và sinh lực vẫn dùng được đem dùng vào việc chém giết lẫn nhau cho công cuộc tiêu diệt sa mạc thì sa mạc từ lâu đã chẳng còn. Người ta vẫn cứ đổ vào chiến tranh tất cả của cải của nhân dân và hàng triệu sinh mệnh. Cả khoa học. Cả văn hóa. Cả đến thơ ca người ta cũng biết cách biến nó thành kẻ cộng sự với việc giết người hàng loạt.
– Vasya! – Từ trong phòng mình bà Marya nói to – Anh cứ yên tâm. Không bao giờ còn có chiến tranh nữa đâu. Không bao giờ!
– Không bao giờ ư? Nói bậy! – bất thình lình Satzky trả lời bà. – Không cần lâu lai gì đâu, chỉ nội đêm nay thôi những con ammonit hóa thạch sẽ sống lại. Các người có biết chúng ở đâu không? Ở ngay bên cạnh cối xay gió của nhà Adam. Ta cùng đi với nhau xem có đúng không.
Cơn mê sảng bắt đầu. Bà Marya dẫn ông ra, cho ông uống thuốc ngủ và đặt ông vào giường.
Tôi chỉ muốn viết cho chóng xong cuốn tiểu thuyết để bắt đầu viết một cuốn mới về việc tiêu diệt sa mạc. Cái ý sáng tác còn chưa rõ của cuốn Kara-Bugaz đã xuất hiện như thế.
Tôi rời thị trấn Lipny vào cuối thu. Trước khi ra đi tôi quay lại từ biệt những người chủ trọ cũ.
Bà lão vẫn chưa dậy được. Ông lão không có nhà. Polina tiễn tôi tới thị trấn.
Trời đã tối. Băng rạn vỡ trong những vết bánh xe. Những vườn cây đã rụng gần hết lá, nhưng đây đó, trên những cành táo vẫn còn lại những chiếc lá khô màu hồng. Trên nền trời đông giá lạnh những đám mây cuối cùng được ánh hoàng hôn lạnh lẽo chiếu sáng cũng đã tắt.
Polina đi bên tôi và tin cậy vịn vào tay tôi. Cử chỉ đó làm cho tôi có cảm giác cô là một cô bé con con và niềm trìu mến của tôi với cô – người con gái cô độc và nhút nhát – tràn ngập tâm hồn tôi.