Đọc truyện Binh Lâm Thiên Hạ – Chương 799: Bình định Lũng Tây
Quân đội trên đầu thành bất an nhìn quân Hán hạ đại doanh ở bên ngoài, đại doanh với thanh thế đồ sộ kéo dài hơn mười dặm, đây là lần đầu tiên trong mấy chục năm nay bọn chúng nhìn thấy quan binh quy mô khổng lồ như thế.
Mấy năm trước đây, cũng có không ít lần quan binh tới bao vây tiễu trừ, nhưng nhiều nhất là hơn mười ngàn quân, thậm chí chỉ có mấy ngàn người, không quy mô và khí thế như hôm nay.
Đây vẫn chỉ là trí nhớ của một bộ phận cực nhỏ binh lính lớn tuổi, triều đình đã hai mươi năm nay không phái binh tới tiễu trừ bọn họ, đối với lớp binh sĩ trẻ, thậm chí không biết chiến tranh phải đánh thế nào?
Không ít binh lính đều sợ hãi ngồi chồm hỗm xuống, lấy tay che mặt, sắc mặt Tống Kiến nhợt nhạt nhìn ra đại doanh ngoài thành, lão cũng ý thức được, lần này khác với trước đây, nhưng lão đã không còn lựa chọn nữa rồi.
Cả nhà Dương Thiên Vạn bị xử tử, đó là kết cục của lão,Tống Kiến biết không phải ở chỗ đầu hàng hay không, mà Lưu Cảnh sẽ không dễ dàng tha thứ cho kẻ hay ngáy ở cạnh giường, Dương Thiên Vạn là một trong số đó, rõ ràng Tống Kiến lão cũng thế.
– Phấn chấn lên cho ta!
Tống Kiến vung kiếm hô to:
– Quân địch không có vũ khí công thành, bọn họ không phá được thành trì của chúng ta đâu!
Không ai hô theo lão, trên đầu thành vẫn là không khí lặng ngắt.
Màn đêm dần buông xuống, quân Hán không có bất kỳ hành động công thành nào, binh lính bắt đầu rút về quân doanh trong thành nghỉ ngơi, đầu thành chỉ cón lại năm ngàn binh lính, đúng lúc này, từ trong quân doanh của quân Hán lao ra những bóng đen khổng lồ.
Đây là một trăm máy bắn đá loại lớn, có thể ném những viên đá lớn nặng năm mươi cân từ khoảng cách ba trăm bước vào đầu thành, quân Hán mất một buổi chiều để lắp ráp một trăm chiếc máy như thế này.
Mười con trâu khỏe kéo một chiếc máy bắn đá đi trước cánh đồng bát ngát, cách đầu thành càng lúc càng gần, binh lính trên đầu thành cũng phát hiện ra sự khác thường, bọn chúng to nhỏ thì thầm với nhau, gõ chuông cảnh báo, ‘keng! Keng! Keng!’ tiếng chuông chói tai vang khắp thành Phu Hãn, đám binh lính vừa mới nằm ngủ nhốn nháo dậy, cầm vũ khí chạy tới đầu thành.
Lúc này, binh lính trên đầu thành đều đang căng thẳng nhìn những chiếc máy bắn đá cỡ lớn, ở thành Phu Hãn không có vũ khí phòng ngự như vậy, rất nhiều binh lính đều là lần đầu tiên nhìn thấy.
Một trăm chiếc máy ném đá loại lớn đã được mở ra kêu xèo xèo, bình gốm dầu hỏa khổng lồ đặt trên túi sắt, cùng với một tiếng trống nặng nề vang lên, một trăm chiếc máy bắn đá đồng thời quăng ra những chiếc can dài, bắn trăm bình gốm đựng đầy dầu hỏa lên phía đầu thành.
Tiếng “Cạch! Cạch!” vang lên, bình gốm vỡ vụn, lượng lớn dầu hỏa chảy đầy đầu thành, trong không khí tràn ngập mùi dầu hỏa nồng nặc khó chịu, điều này khiến binh lính đầu thành hoảng sợ bất an, bọn chúng không biết chất lỏng này là gì?
Liên tiếp ba lượt bắn, đã có ba trăm bình dầu hỏa được ném lên đầu thành, dầu hỏa giăng khắp đầu thành phía đông, lúc này, hàng chục quả cầu dầu hỏa bị đốt cháy bay lên không trung, vạch từng đường lửa chói mắt, đập ầm ầm xuống đầu thành, dầu hỏa được đốt lên, lửa nhanh chóng lan ra trong tiếng kêu la cực kỳ kinh sợ của đám quân giữ thành, dần dần, toàn bộ đầu thành đều bị đại hỏa nuốt sống.
Rất nhiều binh lính chạy không kịp, bị lửa cháy nuốt gọn, vô số người lửa đang kêu thảm chạy trốn, rất nhanh, một cái đầu rơi xuống đất, nhưng máy bắn đá của quân Hán vẫn vô tình ném từng bình gốm dầu hỏa lên đầu thành, khiến cho hỏa thế càng thêm mạnh mẽ, nửa canh giờ sau, cả bức tường thành dài vài dặm đều bị lửa nuốt trọn.
Tôn Kiến đứng trên nóc vương cung, trợn mắt há hốc mồm nhìn cảnh tượng này, lão quả thực không dám tin vào mắt mình, đây chính là lửa lớn địa ngục đến nuốt sạch bọn chúng, lão cầm kiếm đi lảo đảo về vương cung, trong vương cung tiếng khóc rung trời, đám thê thiếp và con cái lão chạy trốn tứ tung, Tống Kiến dường như không nhìn thấy gì nữa, đi vào căn phòng của mình, ầm ầm đóng cửa lại.
Cuộc tấn công của quân Hán ngoài thành đã bước vào giai đoạn thứ hai, thành Phu Hãn không sát sông nhưng vẫn đào một con mương cạn, trong mương bố trí kín gai nhọn và sừng hươu, nối liền bởi một cây cầu treo sừng sững.
Lúc này, mấy chục binh lính quân Ưng Kích đá qua được con mương khô hạn, bọn chúng leo lên cầu treo, dùng chiếc búa lớn chém vào khóa sắt trên cầu treo, ánh lửa văng khắp nơi, chỉ trong chốc lát, xích sắt đứt rời, chiếc cầu treo khổng lồ rời xuống ầm ầm, bụi banh tung trời.
Cách đó không xa, một trăm đại hán dáng người vạm vỡ ôm lấy một cây chùy công thành lớn, được chế từ một thân cây ngàn năm tuổi, đường kính sáu thước, dài mười trượng, phía trước bọc bằng gang, cứng chắc vô cùng.
Lửa cháy bừng bừng trên đầu, khói đặc ngút trời, bọn họ không phải lo sẽ có binh lính bắn tên từ đầu thành xuống nữa, trong tiếng thét ra lệnh của Ngụy Diên, hàng trăm đại hán ôm lấy chùy công thành lao về phía trước, bọn họ hét lớn một tiếng, đầu chùy khổng lồ đập vào cửa thành, chỉ nghe tiếng vang long trời lở đất, cửa thành lắc lư rất mạnh, cát đất bên trên đổ rào rào xuống, trên tường thành xuất hiện những khe nứt quanh co.
Đám lính lùi về phía sau, tiếp tục hô to, ôm lấy chùy công thành phi lên trước, một lần nữa đập vào cửa thành, tiếng va đập phát ra dường như khiến lòng người tan nát, cửa thành đã biến đạng, hiện ra những khe hở lớn, có thể nhìn thấy binh lính trong thành đang chạy trốn thục mạng.
– Tiếp tục!
Bọn lính một lần nữa lùi lại phía sau, chùy công thành như giông bão lần thứ ba đập lên cánh cửa chính, cánh cửa không còn chịu được lực va đập nặng mấy chục nghìn cân nên cửa thành đã bị đập pháp, để lộ ra một lỗ đen khổng lồ, từ xa, Lưu Cảnh cười nhạt, đánh hạ tòa thành đá nhìn tưởng kiên cố này không cờ đơn giản vậy, hắn vung chiến đao hạ lệnh:
– Xông vào thành đi!
Năm nghìn kỵ binh xông lên dưới sự chỉ huy của Mã Đại, như nước thủy triều trào dâng, chúng múa may trường mâu và chiến đao lao vào thành Phu Hãn, tiếp đó hai mươi ngàn lính trường mâu cũng xông vào trong thành, quân coi thành phía trong đã bị lửa mạnh dọa vỡ mật, rối rít quỳ xuống đất đầu hàng, quân Hán không gặp phải sự chống cự nào cả, Mã Đại dẫn đầu, chỉ duy hơn một ngàn kỵ binh tiến vào vương cung.
Một canh giờ sau, Lưu Cảnh được sự bảo vệ của mấy trăm kỵ binh đã chậm rãi tiến vào thành Phu Hãn, trong thành đã bị quân Hán khống chế hoàn toàn, từng đội tù binh ủ rũ bị quân Hán áp giải về quân doanh, khắp nơi đều có binh lính quân Hán tuần tra, bọn họ đập phá từng đại môn của phủ đệ, giải hết mọi người trong phủ đi, bắt đầu triệt để lục soát trong phủ, đây là mệnh lệnh của Lưu Cảnh, tiền bạc tìm ra một phần sẽ được dùng để khao thưởng tam quân.
Lưu Cảnh đi vào vương cung, vương cung đã bị hơn một ngàn binh lính chiếm đóng, tất cả thê thiếp con cái của Tống Kiến đều bị đuổi tới một gian phòng lớn, lúc này, Mã Đại tiến lên thi lễ:
– Khởi bẩm Điện hạ, chúng ta tìm được lối vào địa cung rồi.
– Tống Kiến đâu?
Lưu Cảnh hỏi, đây là tên đầu sỏ gây họa nên hắn tuyệt không thể bỏ qua người này.
– Tống Kiến đang ở trong địa cung, đã uống thuốc độc tự vẫn rồi, mời Điện hạ theo ty chức tới địa cung.
Lưu Cảnh gật đầu, đi theo Mã Đại vào trong địa cung, cửa vào của địa cung nằm nay dưới giường trong phòng ngủ của Tống Kiến, phủ lên bởi một tấm sắt lớn chu vi một trường, bên trên là một tấm thảm lông tinh xảo, đây là do tiểu thiếp được Tống Kiến sủng ái nhất dẫn binh lính đi tìm được chỗ vào này.
Tấm sắt được mở ra, hai bên có lính canh gác, Lưu Cảnh đi theo Mã Đại tiến vạo địa cung, địa cung cách mặt đất chừng một trượng, là cung điện dưới đất cực kỳ rộng lớn, gồm bảy tám căn phòng lớn, mỗi phòng đều chất đầy của cải, vàng bạc, châu báu, da lông quý, khiến người nhìn hoa cả mắt.
Thi thể của Tống Kiến ở trong một kho báu chất đầu những chiếc rương lớn đã được phát hiện, trong rương đều là thoi vàng, vùng Phu Hãn có rất nhiều vàng, ba mươi năm qua Tống Kiến đã vơ vét gần như một nửa số vàng ở đây, chất đống trong địa cung của lão, lên tới mấy chục nghìn cân, lần này là một trong những thu hoạch lớn nhất trong cuộc tây chinh của quân Hán.
Lúc này, thi thể của Tống Kiến được hai tên lính nâng lên, mặt lão đen thui, rõ ràng là uống thuốc độc mà chết, Lưu Cảnh nhìn người này, không khỏi lắc đầu.
– Đào hố chôn cất cho lão!
– Điện hạ, con cái thê thiếp của lão nên xử trí thế nào?
Mã Đại khẽ hỏi.
Lưu Cảnh trầm tư một lát nói:
– Con trai lão nhất loạt xử tử hết, không giữ lại hậu họa, phụ nữ thì chia lộ phí thả họ về quê nhà, ai không có chỗ để đi thì có thể phân cho quan quân làm vợ.
Mã Đại càng quan tâm đến ba vạn tù binh, đa phần bọn họ là người Hán ở khu vực Hà Hoàng, tổ tiên bọn họ hai trăm năm trước từ vùng Quan Lũng đến, sống bằng nông canh, nhưng vì hàng năm hỗn cư với người Khương Đê, nên rất nhiều người giỏi cưỡi ngựa, hoàn toàn có thể chọn quân tinh nhuệ trong đó để thành lập kỵ binh.
Y đề nghị tiếp:
– Trong ba mươi ngàn người này có không ít người Hán giỏi cưỡi ngựa, Điện hạ, bọn họ là tài nguyên quý báu đấy!
Lưu Cảnh gật đầu, hắn cũng suy nghĩ như thế liền cười nói:
– Ba vạn tù binh có thể miễn tội, thả họ về nhà tiếp tục nông canh, nếu không có đất thì bảo quan phủ quận Bình Tây chia đất cho họ, bọn họ phải trở thành nông dân tự canh tác, ngoài ra, trong ba vạn người này, hãy chọn ra mười ngàn người tinh nhuệ giỏi cưỡi ngựa để xây dựng kỵ binh mới.
Mã Đại mừng rỡ, vội khom người nói:
– Ty chức hiểu rồi, sẽ đi xử lý ngay đây.
Lưu Cảnh quay đầu lại nói với Vương Bình:
– Chuyển toàn bộ tài sản của thành Phu Hãn về đại doanh, giao cho Pháp quân sư xử lý, sau đó cải tạo thành Phu Hãn thành quân thành, đóng ba ngàn quân.
Vương Bình vội đáp lại, Lưu Cảnh dặn dò xong liền xoay người đi ra ngoài thành, hắn gặp Mã Siêu ở cửa thành lập tức nói với gã:
– Mạnh Khởi có thể sắp xếp một trăm đội kỵ binh, cầm lệnh tiễn của ta đến các nơi, cho dù là người Đê hay người Thổ Cốc Hồn đều triệu tập tất cả tù trưởng lập tức đến Phu Hãn gặp ta.
– Ty chức tuân mệnh!
Mã Siêu lập tức quay đầu ngựa về đại doanh, nửa canh giờ sau, một trăm đội kỵ binh rời khỏi đại doanh quân Hán, lao tới các vùng nhanh như gió để triệu tập tù trưởng các bộ lác tới yết kiến Hán Vương Điện hạ.
Ba ngày sau, hàng tăm tù trưởng từ các vùng của Lũng Tây và Hà Hoàng kéo tới, Dương Thiên Vạn bị giết, Tống Kiến đã chết, những việc này làm kinh động đám tù trưởng, thêm vào đó A Quý đã phái sứ giả tới các vùng tuyên dương ân đức của Hán Vương, người Đê đều tràn đầy hy vọng tới yết kiến Hán Vương.
Trong một chiếc trướng tròn khổng lồ, mấy trăm tù trưởng tập trung lại để Lưu Cảnh mở tiệc chiêu đãi, Lưu Cảnh nâng chén cao giọng nói với mọi người:
– Các vị đều là con dân của vương triều Đại Hán, thần phục với thiên tử, hiện giờ triều đình đã chuyển Quan Lũng thành lãnh thổ của nước Hán, vậy thì chư vị ngồi đây cũng là thần dân của nước Hán, Lưu Cảnh ta sẽ không xua đuổi mọi người khỏi quê hương của mình, hy vọng các vị giống như người Hán có thể an cư lạc nghiệp, sinh sản con cháu, đời đời kiếp kiếp chung sống hòa thuận bình đẳng, đều giống như thần dân Đại Hán ta, được quân Hán bảo vệ, gánh vác nghĩa vụ đến cùng, vì minh ước ngày hôm nay, chúng ta uống một chén.
Đám tù trưởng đều nghe ra trong lời nói có điểm khác với trước đây, trước bọn họ chỉ là thần dân Đại Hán trên danh nghĩa, không cần nộp thuế phú, hàng năm chỉ dâng lên quan phủ mấy tấm da dê mang tính tượng trưng, coi như bọn họ đã là thần dân của Đại Hán rồi, nhưng hôm nay trong lời nói của Lưu Cảnh có thêm một câu “được quân Hán bảo vệ, gánh vác nghĩa vụ tới cùng”, có nghĩa là từ hôm nay trở đi bọn họ phải nộp thuế cho quan phủ, đây không phải là việc bọn họ có thể từ chối, đám tù trưởng không biết làm sao, đành cùng nâng chén, hô to Hán Vương vạn tuế, cùng nhau uống chén rượu thần dân thoáng chút chua xót này.
Lưu Cảnh mỉm cười, Hán Hồ bình đẳng không chỉ là nói miệng nữa, mà về thuế phú cũng phải như nhau, như vậy mới thực sự là thần dân Đại Hán.