Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 112 – 114
Chương 112
Đang chông chênh trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Katherine Solomon bỗng giật nảy mình vì dư chấn của một tiếng nổ nhức óc đinh tai. Lát sau, mùi khói thoảng đến.Tai cô vẫn còn ong ong. Có tiếng nói loáng thoáng. Ở phía xa. Tiếng gọi nhau. Tiếng bước chân. Bỗng đâu hô hấp của cô thông suốt. Mảnh vải nhét miệng đã được kéo ra.- Cô an toàn rồi, – một giọng đàn ông thì thầm – Cứ nằm yên.Anh ta không rút ngay cây kim ra khỏi tay Katherine như cô tưởng, thay vào đó lại lớn tiếng ra lệnh:- Mang hộp cứu thương đến đây… tiếp ngay một túi truyền dịch vào cây kim… truyền luôn dung dịch Ringer nhé… đo huyết áp cho tôi. Sau đó anh ta bắt đầu xem xét mạch đập, thân nhiệt, hô hấp… của Katherine, và hỏi:- Cô Solomon, kẻ làm thế này với cô… hắn đi đâu rồi?Katherinecố cất tiếng, nhưng không sao bật thành lời.- Cô Solomon? – người nọ lặp lại – Hắn đi đâu rồi?Katherine gắng mở to mắt, nhưng cảm thấy mình đang chết dần.- Chúng tôi cần biết hắn đi đâu, – người nọ thúc giục.Katherine thì thầm ba từ, dù biết là vô tác dụng.- Ngọn… núi… thiêng. Giám đốc Sato bước qua cánh cửa sắt nham nhở, theo lối dốc bằng gỗ đi xuống tầng hầm bí mật. Tới chân dốc bà gặp một đặc vụ.- Thưa giám đốc, tôi nghĩ bà muốn xem thứ này. Sato theo chân người đặc vụ vào căn phòng nhỏ nằm bên hành lang hẹp. Căn phòng sáng trưng và trống trải, chỉ có một đống quần áo trên sàn. Sato nhận ra chiếc áo khoác và đôi giày của Robert Langdon. Đặc vụ trỏ một cái hòm lớn trông y như quan tài ở bức tường phía xa.Cái quái gì thế không biết?Sato tiến về phía cái hòm, nhận ra nó gắn với một đường ống nhựa trong suốt chạy xuyên qua tường. Rất thận trọng, bà bước lại gần.Trên mặt hòm có lắp nắp trượt. Sato cúi xuống đẩy cái nắp sang bên, một ô cửa nhỏ lộ ra.Bà giật mình nhảy lui. Bên dưới lớp kính Plexiglas… lập lờ khuôn mặt vô hồn của giáo sư Robert Langdon. *** Ánh sáng.Đang lơ lửng trong khoảng không vô định, Langdon chợt thấy quanh mình ngập đầy ánh nắng chói chang. Những tia sáng nóng sực xé tan màn tối, xuyên thẳng vào tâm trí anh.Ánh sáng tuôn chảy khắp mọi nơi. Từ đám mây rạng rỡ trước mặt thình lình hiện ra một bóng dáng yêu kiều. Một dung nhan… lờ mờ và nhoà nhạt… đôi mắt đăm đăm nhìn anh qua khoảng trống giữa hai bên. ánh sáng lóe lên từng chùm quanh dung nhan ấy, Langdon băn khoăn tự hỏi, diện mạo của Chúa đây chăng. Sato chăm chú ngó xuống hòm, ngẫm nghĩ không hiểu giáo sư Langdon có biết chuyện gì đang xảy ra không. E rằng khó. Bởi mục đích chính của công nghệ này là làm con người mất phương hướng mà. Hòm tiết chế giác quan xuất hiện vào khoảng những năm 1950 và vẫn là cách giải thoát quen thuộc đối với những nhà thí nghiệm giàu có của Kỷ nguyên Mới. “Trôi nổi”, như người ta thường gọi, đem lại một trải nghiệm mang tính tiên nghiệm, một dạng hỗ trợ thiền định giúp làm lắng hoạt động của não bằng cách loại bỏ tất cả những thông tin giác quan nạp vào, từ ánh sáng, âm thanh đến cảm giác, thậm chí là trọng lực. Ở loại hòm kiểu truyền thống, người ta sẽ nằm ngửa trong dung dịch hyperbuoyant saline, giữ mặt cao hơn mặt nước để còn thở. Tuy nhiên, những năm gần đây, người ta đã đạt được bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật chế tạo hòm tiết chế giác quan.Nhờ perfluorocarbon oxy hoá.Thường được biết đến với tên gọi Thông hơi lỏng toàn diện(TLV), công nghệ mới mẻ này có tính chất phản trực giác đến mức khó tin.Chất lỏng thở được.Thở trong chất lỏng là một thực tế được chứng minh từ năm 1966, khi Leland C. Clark thành công trong việc giữ ột con chuột sống sót sau vài giờ bị dìm vào dung dịch perfluorocarbon oxy hoá. Năm 1989, công nghệ TLV xuất hiện đầy ấn tượng trong bộ phimVực thẳm, mặc dù rất ít khán giả nhận ra rằng họ đang chứng kiến một thành tựu khoa học thật sự. Phương pháp Thông hơi lỏng toàn diện ra đời nhờ những cố gắng của y học hiện đại nhằm giúp trẻ sơ sinh thiếu tháng hô hấp bằng cách trả chúng về với môi trường tương tự tử cung. Phổi con người phải ở trong tử cung chín tháng, nên đã quen thuộc với môi trường chất lỏng. Trước đây, perfluorocarbon quá đặc khiến việc hô hấp khá chật vật, nhưng những đột phá hiện đại làm nó gần như giống hệt nước. Ban giám đốc Khoa học Công nghệ của CIA – mà giới tình báo thường gọi là “những thầy phù thuỷ Langley” – đã tiến hành vô vàn thí nghiệm với perfluorocarbon oxy hoá để phát triển công nghệ cho quân đội Hoa Kỳ. Các nhóm lặn sâu của hải quân thấy rằng khi thở bằng chất lỏng oxy hoá thay cho heliox hoặc trimix thông thường thì họ có khả năng lặn ở độ sâu lớn hơn mà không gặp nguy cơ tai biến do áp suất. Tương tự, NASA và lực lượng không quân thừa nhận các phi công được trang bị thiết bị thở chất lỏng thay cho bình oxy truyền thống có thể trụ vững trước các lực G(100) tốt hơn bởi chất lỏng lan toả lực G qua các cơ quan nội tạng đồng đều hơn chất khí. Sato cũng biết nhiều người tự lập “phòng siêu thí nghiệm” để dùng thử bể Thông hơi lỏng toàn diện mà họ gọi là “những cỗ máy thiền định”. Cái hòm này có lẽ được lắp đặt ục đích nghiên cứu riêng của chủ nhân, song đám chốt khoá nặng nề khiến bà ngờ rằng nó còn phục vụ cho những ứng dụng đen tối khác…chẳng hạn cho thẩm vấn, một kỹ thuật mà CIA khá quen thuộc. Nhấn nước là kỹ thuật thẩm vấn đầy tai tiếng, nhưng rất hiệu quả bởi nạn nhân thật sự tin rằng mình đang chết đuối. Trong một vài hoạt động mật, người ta sử dụng loại bể tiết chế cảm giác tương tự thế này để tăng hiệu ứng lên nhiều cấp độ mới khủng khiếp hơn, khi bị dìm trong chất lỏng, nạn nhân có thể “chết đuối” theo đúng nghĩa đen. Cơn hoảng loạn đi kèm với cảm giác chết chóc khiến họ không nhận ra rằng chất lỏng mình đang hít thở sền sệt hơn nước. Khi chất lỏng tràn vào phổi, họ thường ngất đi vì sợ, và sau đó tỉnh lại trong trạng thái “bế quan”. Người ta còn trộn các chất gây tê, gây liệt, và ma tuý gây ảo giác vào chất lỏng oxy hoá ấm để khiến tù nhân có cảm giác hồn bất phụ thể. Mặc trí não phát lệnh cử động đi khắp cơ bắp, chân tay cũng không nhúc nhích được. Bản thân trạng thái “chết” đã đủ kinh hãi, nhưng trạng thái mất phương hướng bắt nguồn từ quá trình “tái sinh”, cùng với sự hỗ trợ của ánh sáng mạnh, không khí lạnh, và tiếng ồn chói tai, mới thực sự gây thương tổn và đau đớn. Sau vài lần liên tục tái sinh và chết đuối, tù nhân sẽ hoảng loạn đến nỗi không rõ mình còn sống hay đã chết… và anh ta sẵn sàng cung khai mọi điều. Sato toan đợi y tế đến để đưa Langdon ra, nhưng bà hiểu rằng không còn đủ thời gian nữa. Phải tìm xem người đàn ông này đã biết những gì.- Tắt hết đèn đi, – bà ra lệnh – Và tìm cho tôi mấy cái chăn. *** Mặt trời chói loà biến mất.Gương mặt cũng biến mất. Bóng tối trở lại, nhưng giờ Langdon nghe thấy tiếng thì thầm văng vẳng lọt qua khoảng không xa xôi hàng bao nhiêu năm ánh sáng. Những giọng nói nghèn nghẹt… những từ ngữ rắc rối. Có cả những chấn động, cứ như thể thế giới sắp vỡ tung. Rồi điều đó xảy ra thật: Rất đột ngột, vũ trụ bị xé toang làm đôi.Một vết nứt khổng lồ mở ra một vùng trống rỗng… tựa hồ không gian nứt ngay ở đường phân giới. Một màn sương xam xám tràn qua lỗ hổng, và Langdon nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng. Những bàn tay ở đâu vươn tới, tóm lấy anh, cố gắng lôi anh ra khỏi thế giới của mình.- Không! Langdon chống cự thật lực, nhưng anh không có tay… không có nắm đấm. Hay là anh có nhỉ? Thình lình, anh cảm thấy cơ thể mình hiện ra trong tâm trí. Da thịt anh đã quay trở lại và đang bị mấy bàn tay mạnh mẽ kia tóm lấy lôi dậy. Không, xin hãy làm ơn!Nhưng đã quá muộn. Khi những bàn tay lôi tuột Langdon ra khỏi lỗ hổng. anh thấy ngực đau nhói, phổi như bị nhồi đầy cát. Ngạt thở quá! Bỗng dưng, anh thấy mình nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng và lạnh chưa từng thấy. Ngực anh bị ấn xuống, liên tục, mạnh và đau. Anh đang mửa ra hơi nóng.Tôi muốn quay trở lại!Langdon có cảm giác mình là một đứa trẻ vừa sinh ra từ bụng mẹ. Anh cứ co giật, ho khạc chất lỏng, ngực và cổ nhức buốt, nhức gớm ghê, họng thì bỏng rát. Người ta đang nói chuyện, cố giữ ở mức thì thầm, nhưng nghe vẫn đinh tai nhức óc. Langdon chưa nhìn rõ, chỉ thấy xung quanh toàn những hình thù câm lặng. Da anh tê dại như da chết. Ngực anh bị đè nặng hơn… sức ép. Mình ngạt thở quá!Langdon khạc thêm một chút chất lỏng. Cơn buồn nôn trào lên, anh cố hít ngược lại. Không khí lạnh theo đó tràn đầy phổi, Langdon tưởng đâu mình là đứa trẻ sơ sinh đang hít lấy hơi thở đầu tiên. Thế giới này thật đau khổ. Anh chỉ muốn quay trở lại nơi anh vừa sinh ra. Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay chóng, Langdon nhận thấy mình đang nằm nghiêng trên sàn nhà cứng, người quấn trong chăn và khăn bông. Một gương mặt quen thuộc đang nhìn xuống anh… nhưng không còn quầng sáng chói loà nào nữa. Những tiếng lầm rầm xa xăm như cầu kinh vẫn vơ vẩn trong tâm trí anh.Verbum significatium… Verbum omnificum…- Giáo sư Langdon, – ai đó thì thào – ông có biết mình đang ở đâu không? Langdon yếu ớt gật đầu, và vẫn ho sù sụ. Nhưng quan trọng là, anh bắt đầu thông suốt chuyện gì đã diễn ra tối nay. Chú thích:(100) Lực G của một vật là gia tốc của nó so với khi rơi tự do.
Chương 113
Quấn mình trong mớ chăn len. Langdon đứng trên đôi chân run run, chòng chọc nhìn cái bể chất lỏng mở toang. Cơ thể đã trở về với anh, mặc dù anh chẳng ước ao điều đó. Cổ họng và phổi anh bỏng rát. Thế giới nghiệt ngã và tàn bạo biết bao! Sato vừa giải thích về loại bể tiết chế cảm giác, và nói thêm nếu bà không lôi anh ra ngoài thì anh sẽ chết đói hoặc thậm chí còn tệ hơn. Langdon tin chắc Peter cũng đã nếm trải tình cảnh tương tự. Peter đang ở quãng giữa, lúc chập tối gã đàn ông xăm trổ có nói với anh như vậy ông ấy đang ở luyện ngục… Hamistagan. Nếu Peter phải trải qua vài lần tái sinh kiểu này thì Langdon không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông tiết lộ cho kẻ bắt giữ mình mọi điều gã hỏi. Sato ra hiệu cho Langdon đi cùng bà, và anh tuân theo, chậm rãi lê bước tới một sảnh hẹp, nằm sâu hơn trong cái hang ổ dị hợm chưa từng thấy này. Họ tiến vào một gian phòng vuông vức tràn ngập ánh đèn màu kỳ quái, giữa phòng kê một chiếc bàn đá. Trông thấy Katherine, mặc dù tình trạng của cô còn rất thê thảm, Langdon vẫn thở phào nhẹ nhõm. Katherine nằm ngửa trên chiếc bàn đá, dưới sàn vương vãi toàn khăn bông đẫm máu. Một đặc vụ CIA đang giơ cao túi dịch với ống truyền nối vào tay Katherine.Cô đang thổn thức.- Katherine? – Langdon khó nhọc gọi.Katherine ngoảnh đầu ra, vẻ ngơ ngác và bối rối.- Robert đấy à? – Cô mở to mắt, thoạt tiên ngỡ ngàng và sau đó là phấn khởi – Nhưng… em nhìn thấy anh chết đuối rồi mà! Langdon tiến lại phía bàn đá. Katherine cố nhấc mình ngồi lên, mặc kệ ống truyền dịch và vẻ bực bội của anh chàng đặc vụ. Langdon tới bên cái bàn, Katherine vươn người ra, vòng hai tay ôm cả Langdon lẫn tấm chăn quấn của anh và siết thật chặt.- Ơn Chúa, – cô thì thầm, hôn lên má Langdon. Rồi cô lại hôn và siết chặt anh thêm lần nữa như không tin anh tồn tại thật – Em không hiểu… làm thế nào…Sato xen vào, giải thích về loại bể tiết chế cảm giác và perfluorocarbon oxy hoá, nhưng rõ ràng Katherine chẳng hề lắng nghe. Cô chỉ ôm Langdon thật chặt.Rồi nhớ lại cảnh đoàn tụ hãi hùng với Peter, cô run run nói:- Robert, anh Peter còn sống. Cô miêu tả tình trạng sức khỏe của ông, chiếc xe lăn, con dao kỳ lạ, những lời ám chỉ một sự “hy sinh”, và việc gã kia bỏ lại cô trong tình trạng chảy máu làm đồng hồ sống nhằm ép Peter phải hợp tác thật nhanh. Langdon không đưa ra bình luận nào.- Em có… biết họ đi… đâu không?- Gã nói sẽ đưa anh Peter tới ngọn núi thiêng.Langdon bứt ra và nhìn Katherine chằm chằm.Mắt cô vẫn còn đẫm lệ.- Gã nói đã giải mã được đồ hình dưới đáy kim tự tháp, và đáp án cho biết phải tới ngọn núi thiêng.- Giáo sư, – Sato thúc giục – chi tiết đó có ý nghĩa gì với ông không?Langdon lắc đầu.- Không hề – song anh vẫn thấy le lói hy vọng – Nhưng nếu hắn có thông tin từ đáy kim tự tháp thì chúng ta cũng có thể có. Mình chỉ cho gã cách giải mà.Sato lắc đầu.- Kim tự tháp không còn ở đây nữa. Chúng tôi đã tìm. Hắn mang theo mình rồi. Langdon im lặng, nhắm mắt và” cố hồi tưởng bảng biểu tượng ở đế tháp. Cái bảng ấy là một trong những hình ảnh cuối cùng anh nhìn thấy trước khi chết đuối, song chấn thương có thể xoá bỏ ký ức nằm sâu trong trí não. May lắm anh chỉ nhớ được một phần đồ hình chứ không phải tất cả, nhưng có lẽ thế cũng đủ rồi chăng? Anh quay sang Sato và nói nhanh:- Tôi có thể nhớ ra, nhưng tôi cần bà tìm giúp một thứ trên Internet.Sato rút chiếc Blackberry.- Hãy tìm kiếm cụm “ô vuông Franklin bậc tám”! Sato sửng sốt nhìn anh, nhưng vẫn nhập các từ vào mà không hỏi han thêm. Vì mắt vẫn mờ, đến tận lúc này Langdon mới bắt đầu quan sát không gian lạ lùng quanh mình. Anh nhận ra chiếc bàn đá mà họ đang dựa vào có rất nhiều vết máu cũ, bức tường bên phải dán toàn văn bản, ảnh, hình vẽ, bản đồ và một mạng lưới các sợi dây kết nối chúng với nhau.Chúa ơi!Vẫn quấn chặt mình trong tấm chăn, Langdon tiến về phía tác phẩm cắt dán lạ mắt nọ. Đính trên tường là một tập hợp thông tin kỳ cục những trang văn bản cổ, từ ma thuật tới Kinh thánh Thiên Chúa giáo, hình vẽ các biểu tượng và dấu ấn, trang in các website, ảnh vệ tinh Washington D.C. kèm theo những chú thích và dấu chấm hỏi nguệch ngoạc. Trong đó có một danh sách từ ngữ dài thượt thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Anh nhận ra một vài từ là thánh ngữ của Hội Tam điểm, một số khác là các từ ngữ ma thuật cổ xưa, và cả các từ trong những câu thần chú hành lễ.Phải chăng đó là những gì hắn đang tìm kiếm?Một từ?Đơn giản vậy thôi ư?Lâu nay, lý do chủ yếu khiến Langdon nghi ngờ tính xác thực của Kim tự tháp Tam điểm chính là bởi ai cũng cho rằng nó tiết lộ vị trí của những Bí mật Cổ xưa. Tiết lộ này lại liên quan đến một căn hầm khổng lồ chứa hàng ngàn hàng vạn cuốn sách không hiểu sao vẫn tồn tại được trong khi các thư viện lưu giữ chúng ngày xưa đã tuyệt tích từ lâu. Câu chuyện nghe chừng phi lý. Căn hầm nào mà lớn đến vậy? Lại nằm dưới lòng Thủ đô nước Mỹ nữa chư? Tu nhiên, nhớ đến bài giảng của Peter ở Phillips Exeter, kết hợp với danh sách từ ngữ huyền bí trên tường, Langdon chợt phát hiện một khả năng đáng chú ý khác. Anh hoàn toàn không tin vào sức mạnh của các từ ngữ ma thuật… nhưng hiển nhiên là gã đàn ông xăm trổ kia rất tin. Langdon nhìn lướt các chú thích nguệch ngoạc, bản đồ, văn bản, bản in, cùng tất cả những sợi dây liên kết và giấy ghi nhớ.- Thế là đủ có một chủ đề xuyên suốt ở đây.Lạy Chúa, hắn đang tìm verbum significatium… Từ Còn Thiếu.Langdon để cho suy nghĩ định hình, nhớ lại các phần bài giảng của Peter. Từ Còn Thiếu chính là thứ hắn đang tìm kiếm, là thứ hắn tin rằng được chôn giấu tại Washington.Sato đến bên cạnh anh.- Ông cần thông tin này phải không? – Bà đưa chiếc Blackberry ra.Langdon nhìn ma trận vuông mỗi chiều tám số trên màn hình.- Chính xác – Anh vớ lấy một mẩu giấy – Tôi mượn cái bút.Sato đưa cho anh cây bút trong túi bà.- Xin hãy khẩn trương lên? *** Dưới tầng hầm, trong văn phòng Ban giám đốc Khoa học và Công nghệ, Nola Kaye nghiên cứu lại bản tài liệu tự soạn được chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish mang tới. Giám đốc CIA làm quái gì với tệp tin về kim tự tháp cổ và những địa điểm ngầm nhỉ? Cô vớ điện thoại và quay số.Sato bắt máy ngay, giọng đầy căng thẳng.- Nola, tôi vừa định gọi cho cô.- Tôi có thông tin mới đây – Nola báo – Chưa biết thứ này có phù hợp không, nhưng tôi vừa phát hiện ra một tài…- Gác lại đi, cho dù nó là gì, – Sato ngắt lời – Chúng ta không còn thời gian. Mục tiêu đã tẩu thoát, và tôi có đủ lý do tin rằng hắn sắp thực hiện lời đe doạ của mình.Nola cảm thấy ớn lạnh.- Tin tốt lành là chúng tôi biết chính xác hắn đi đâu – Sato hít một hơi thật sâu – Tin xấu là hắn mang theo một máy tinh xách tay.Chương 114Cách đó chưa đầy mười dặm, Mal’akh kéo tấm chăn phủ quanh người Peter Solomon và đẩy ông băng qua bãi đỗ xe ngập ánh trăng để vào vùng bóng tối của một toà nhà đồ sộ. Công trình này có ba mươi ba cây cột ở bên ngoài… mỗi cột cao đúng ba mươi ba feet Hiện giờ quanh đây hoàn toàn vắng lặng, không ai nhìn thấy họ quay trở lại cả. Mà có cũng chẳng sao. Ai lại bận tâm nhiều về một người đàn ông cao lớn, lịch thiệp mặc áo choàng dài màu đen đưa một người tàn tật hói đầu đi dạo vào buổi tối cơ chứ.Tới lối cửa hậu, Mal’akh đẩy Peter lại gần bảng khoá điện tử. Peter nhìn bàn phím vẻ thách thức, rõ ràng không có ý định nhập mã.Mal’akh cười:- Ông tưởng ông đến đây để giúp tôi vào trong à? Tôi là một huynh đệ của ông cơ mà, sao ông quên nhanh thế? – Gã vươn tay và nhập mã truy cập được phát sau lễ nhập môn lên cấp độ 33.Cánh cửa nặng nề bật mở.Peter gầm gừ và bắt đầu vùng vẫy trên xe lăn.- Peter, Peter, – Mal’akh thủ thỉ – Hãy nhớ đến Katherine. Hãy hợp tác và cô ấy sẽ sống. Ông có thể cứu được cô ấy. Tôi thề đấy.Mal’akh đẩy nạn nhân của gã vào trong và khoá cửa lại sau lưng, tim đập rộn ràng vì hi vọng. Gã đưa Peter qua vài hành lang, tới một cầu thang máy và ấn nút. Cửa mở ra. Mal’akh giật lùi vào trong, kéo theo chiếc xe lăn. Gã vươn tay và ấn nút trên cùng, cố ý để Peter nhìn rõ hành động của mình, vẻ kinh sợ cùng cực thoáng hiện trên gương mặt đau đớn của người đàn ông.- Suỵt – Mal’akh thì thào, nhẹ nhàng xoa cái đầu nhẵn thín của Peter trong khi cửa thang máy đóng lại – ông biết đấy… bí mật là chết như thế nào mà. *** Mình không thể nhớ được tất cả các biểu tượng!Langdon nhắm mắt lại, cố gắng hồi tưởng vị trí chính xác của từng biểu tượng ở đáy kim tự tháp, nhưng ngay cả trí nhớ thị giác của anh cũng chưa đạt được mức độ ấy. Anh ghi lại vài biểu tượng còn nhớ được sắp xếp chúng vào vị trí tương ứng theo chỉ dẫn của ma phương Franklin.Tuy nhiên, anh vẫn chưa phát hiện điều gì có nghĩa.ẢNH- Xem kìa! – Katherine hối thúc – Anh đang đi đúng đường rồi đấy.Hàng đầu tiên đều là chữ cái Hy Lạp, suy ra các biểu tượng cùng loại được sắp xếp bên nhau! Langdon cũng nhận ra quy tắc đó, nhưng anh không tìm được từ Hy Lạp nào phù hợp với cấu trúc chữ cái và ô trống này. Mình cần ký tự đầu tiên. Anh lại liếc nhìn ma phương, cố gắng nhớ ra chữ cái nằm ở vị trí số 1 gần góc bên trái phía dưới. Nghĩ xem nào. Anh nhắm mắt, thử hình dung đế kim tự tháp. Hàng dưới cùng… cạnh góc bên trái… chữ gì ở đó nhỉ? Nhất thời, Langdon quay trở lại cái hòm, hoảng loạn ghê gớm, đăm đăm nhìn phần đáy kim tự tháp qua ô kính Plexiglas. Đột nhiên, anh nhìn ra. Anh mở mắt, thở dốc.- Chữ cái đầu tiên là Ή.Langdon quay lại đồ hình và viết chữ cái đầu tiên. Từ ngữ vẫn chưa hoàn chỉnh, nhưng anh đã thấy đủ. Anh chợt nhận ra đó là từ gì.Ήερεδομ Tim đập thình thịch, Langdon gõ một lệnh tìm kiếm mới vào chiếc Blackberry. Anh nhập từ tiếng Anh tương đương của từ Hy Lạp nổi tiếng kia. Kết quả đầu tiên là một mục từ bách khoa toàn thư. Anh đọc và biết rằng chính là thứ mình đang tìm. HEREDOM dt. Một từ quan trọng trongHội Tam điểm “cấp cao” xuất hiện trong sáchnghi lễ của tổ chức Thập tự Hoa hồng Phápđể chỉ một ngọn núi huyền thoại ở Scotland,nơi đặt cơ sở Tăng hội đầu tiên. Heredomđược dịch từ Ήερεδομ trong tiếng Hy Lạp,nguyên gốc là Hieros-domos, nghĩa là Thánh điện.- Đúng rồi! – Langdon sửng sốt kêu lên – Đó chính là nơi họ đến.Sato đang đọc nội dung qua vai anh, nghe vậy liền lộ vẻ ngơ ngác.- Đến ngọn núi huyền thoại ở Scotland à?Langdon lắc đầu.- Không, tới một toà nhà ở ngay Washington, có tên gọi mã hoá là Heredom.