Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 106 – 108
Chương 106
Mặc độc chiếc khố lụa, Mal’akh phóng lên lối dốc, đi qua cánh cửa thép và bước ra phòng khách qua bức tranh. Ta cần chuẩn bị thật nhanh. Gã liếc xác chết của tay đặc vụ CIA nơi tiền sảnh.Căn nhà này không còn an toàn nữa.Một tay cầm chiếc kim tự tháp đá, Mal’akh bước thẳng tới phòng đọc sách ở tầng 1 và ngồi xuống bên chiếc máy tính xách tay. Vừa đăng nhập, gã vừa nghĩ đến Langdon ở dưới nhà và tự hỏi phải bao nhiêu ngày hoặc tuần nữa người ta mới phát hiện ra xác chết ngâm nước trong tầng hầm bí mật. Nhưng cũng chẳng có gì khác cả. Khi đó Mal’akh đã cao chạy xa bay rồi.Langdon thực hiện vai trò của mình rất… xuất sắc.Anh không chỉ ráp các phần của Kim tự tháp Tam điểm mà còn nghĩ ra cách giải bảng biểu tượng bí hiểm dưới đế. Thoạt nhìn, tưởng chừng không thể giải mã nổi những biểu tượng ấy… nhưng câu trả lời rất đơn giản… hiện rõ ngay trước mặt họ. Máy tính bắt đầu hoạt động, màn hình hiển thị chính bức thư điện tử gửi đến lúc trước: tấm ảnh chụp chóp vàng phát sáng, một phần bị ngón tay của Warren Bellamy che đi. ẢNH Tám… quảng trường Franklin… Katherine đã cho Mal’akh biết như vậy. Cô cũng thừa nhận đám đặc vụ CIA đang phục kích ở Quảng trường, hy vọng tóm được Mal’akh và cố đoán xem cái chóp muốn ám chỉ tổ chức nào. Hội Tam điểm? Hiệp sĩ Đền thánh? Thập tự Hoa hồng? Không phải tổ chức nào trong số đó hết!, giờ thì Mal’akh hiểu rõ như vậy. Langdon đã nhìn ra sự thật! Mười phút trước, khi chất lỏng dâng quanh mặt, vị Giáo sư Harvard đã đoán được chìa khoá để giải cái kim tự tháp.- Ô vuông Franklin bậc tám! – anh đã hét to như vậy, vẻ khiếp hãi ngập tràn ánh mắt – Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám!Thoạt đầu. Mal’akh không hiểu.- Đó không phải là một địa chỉ! – Langdon hét, miệng áp chặt vào ô cửa sổ kính Plexiglas – Ô vuông Franklin bậc tám! Đó là mộtma phương – Sau đó anh nhắc đến Albrecht Durer… và giải thích cách dùng mật mã đầu tiên của kim tự tháp làm manh mối phá giải mật mã cuối cùng. Mal’akh rất quen thuộc với các ma phương, hay kameas như cách gọi của các tín đồ chủ nghĩa thần bí sơ khai. Văn bản cổ Triết học Thần bí từng mô tả tỉ mỉ sức mạnh huyền diệu của ma phương cũng như cách thức thiết kế những con dấu quyền năng dựa trên hệ thống các chữ số kỳ ảo ấy, và Langdon nói rằng chìa khoá giải mã phần đế kim tự tháp nằm trong một ma phương…- Anh cần một ma phương mỗi chiều tám ô! – vị Giáo sư hét to, môi anh là phần cơ thể duy nhất còn nhô lên khỏi chất lỏng – Các ma phương được xếp loại theo bậc! Một hình vuông mỗi chiều ba ô là “bậc ba”! Một hình vuông mỗi chiều bốn ô là “bậc bốn!” Anh cần một hình vuông “bậc tám”! Chất lỏng sắp sửa nhấn chìm Langdon, vị Giáo sư hít lấy hơi thở tuyệt vọng cuối cùng và hét nốt điều gì đó về một hội viên Tam điểm nổi tiếng… người sáng lập nước Mỹ… nhà khoa học, thần bí chủ nghĩa, nhà toán học, nhà phát minh… cũng là người sáng tạo ra ma phương kỳ lạ mang tên ông cho đến ngày nay.Franklin.Chỉ nháy mắt. Mal’akh biết Langdon đã nói đúng. Giờ đây, nín thở đầy hi vọng, gã ngồi trên gác bên chiếc máy tính của mình, thực hiện một lệnh tìm kiếm nhanh trên web, nhận được hàng chục kết quả, chọn lấy một và bắt đầu đọc. Ô VUÔNG FRANKLIN BẬC TÁMMột trong những ma phương nổi tiếng nhất lịch sử là ma phương bậc tám do nhà khoa học Mỹ Benjamin Franklin công bố năm 1769. Nó nổi tiếng nhờ bao gồm cả các “phép tổng đường chéo” hoàn toàn mới mẻ. Nỗi ám ánh của Franklin với hình thức nghệ thuật thần bí này chắc chắn bắt nguồn từ niềm tin vào chiêm tinh, từ mối liên hệ cá nhân của ông với các nhà giá kim và nhà thần bí chú nghĩa nổi bật đương thời, tất cả là nền tảng cho những dự đoán công bố trong cuốn Niên giám của Richard tội nghiệp.ẢNHMal’akh nghiên cứu sáng tạo nổi tiếng của Franklin, xem xét cách bố trí có một không hai các con số từ 1 đến 64, trong đó mỗi hàng, cột, và đường chéo đều cho cùng một hằng số kỳ lạ. Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám.Mal’akh mỉm cười. Run lên vì phấn khích, gã vớ lấy kim tự tháp đá và lật nghiêng nó để xem xét phần đế.ẢNHSáu mươi tư biểu tượng này cần được tổ chức lại và sắp xếp theo một trật tự khác, căn cứ theo các con số trong ma phương của Franklin. Mal’akh không thể hình dung được làm thế nào mà bảng biểu tượng hỗn độn này tạo thành ý nghĩa khi sắp xếp theo một trật tự khác, nhưng gã rất tin tưởng vào lời hứa hẹn cổ xưa.Ordo ab chao.Tim đập rộn lên, gã lôi ra một tờ giấy và nhanh nhẹn vẽ một bảng mỗi chiều tám ô. Sau đó, gã bắt đầu điền các biểu tượng, lần lượt từng cái một, vào vị trí theo định nghĩa mới của chúng. Gần như ngay lập tức, trước sự kinh ngạc của gã, bảng biểu tượng bắt đầu bộc lộ ý nghĩa. Trật tự từ hỗn loạn! Giải mã xong, Mal’akh nghi hoặc nhìn đáp án trước mặt. Một hình ảnh ấn tượng đã định hình. Cái mớ lộn xộn đã được biến cải… tổ chức lại… và mặc dù Mal’akh không thể nắm được ý nghĩa của toàn bộ thông điệp nhưng gã đủ hiểu… đủ để biết chính xác bây giờ cần đi về đâu.Kim tự tháp chỉ đường.Bảng biểu tượng trỏ tới một trong những địa điểm bí ẩn vĩ đại của thế giới. Thật không tin nổi, đó cũng chính là nơi hoàn tất hành trình mà Mal’akh luôn mơ ước.Đúng là số phận.Chương 107Mặt bàn đá lạnh ngắt dưới lưng Katherine Solomon. Tâm trí cô tiếp tục bị giày vò vì cảnh chết đuối hãi hùng của Robert, kéo theo những liên tưởng về người anh trai. Peter cũng chết rồi chăng? Con dao kỳ lạ trên chiếc bàn gần đó khơi gợi thêm nhiều hình ảnh về số phận tương tự đang chờ đợi cô.Thế là hết thật rồi ư?Kỳ lạ thay, dòng suy tư đột ngột đưa Katherine quay về với nghiên cứu… về Lý trí học… và những đột phá gần đây. Tất cả đều đã chấm dứt… đã tan thành mây khói. Cô không thể chia sẻ với thế giới về những khám phá của mình được nữa. Phát kiến chấn động nhất mới diễn ra cách đây vài tháng, kết quả thu được có khả năng tái định hướng suy nghĩ của con người về cái chết. Lạ lùng thay, cô cảm thấy khuây khoả khi hồi tưởng thí nghiệm đó. Khi còn là một thiếu nữ, Katherine Solomon thường tự hỏi liệu có cuộc sống sau khi chết không. Thiên đường có tồn tại không? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta chết đi? Khi trưởng thành hơn, nhờ nghiên cứu khoa học, cô nhanh chóng xoá bỏ các khái niệm kỳ quái về thiên đường, địa ngục hoặc thế giới bên kia… dần dần đi đến chỗ chấp nhận rằng khái niệm “cuộc sống sau khi chết” là sự tưởng tượng, là một câu chuyện thần tiên được tạo ra để xoa dịu sự thật hãi hùng rằng chúng ta không thể nào sống mãi.Hay chính mình tin như vậy…Một năm trước, Katherine và anh trai cô đã thảo luận về vấn đề dai dẳng nhất trong triết học, đó là sự tồn tại của linh hồn con người, đặc biệt là liệu con người có sở hữu một loại ý thức nào đó đủ khả năng ton tại bên ngoài cơ thể hay không. Cả hai anh em đều cho rằng rất có thể tồn tại một dạng linh hồn như vậy, hầu hết các triết lý cổ xưa cũng tán thành quan điểm của họ. Phật giáo và Bà la môn giáo đều xác nhận thuyết luân hồi, tức quá trình đầu thai của linh hồn vào một cơ thể mới sau khi chết. Những người theo trường phái Platon định nghĩa cơ thể như một “nhà tù” nơi linh hồn thoát ra, còn phái khắc kỷ gọi linh hồn làapospasma tou theu – “một phân tử của Chúa” – và tin rằng nó được Chúa triệu hồi ngay khi rời bỏ thể xác. Katherine nhận thức được rằng sự tồn tại của linh hồn con người có lẽ là một khái niệm sẽ chẳng bao giờ chứng minh được về mặt khoa học. Việc xác nhận rằng ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể con người sau khi chết cũng mong manh như phả ra một làn khói và hy vọng vài năm sau tìm lại được nó. Sau cuộc thảo luận này, Katherine nảy ra một ý định lạ lùng. Anh trai cô đề cập đến cuốn Sáng thế ký, trong đó mô tả linh hồn làNeshemah – một dạng “tri thức” tinh thần hoàn toàn tách biệt với cơ thể. Katherine hiểu rằng từ tri thức ngụ ý sự hiện diện của tư duy.Theo Lý trí học thì tư duy có khối lượng, và vì thế, linh hồn con người có thể cũng có khối lượng.Liệu mình có cân được linh hồn một con người không?Dĩ nhiên, ý tưởng đó là không thể… hoặc thậm chí còn rất vớ vẩn. Nhưng ba ngày sau, Katherine đột nhiên tỉnh giấc khi đang say ngủ và ngồi bật dậy trên giường. Cô vùng dậy, phóng xe tới phòng thí nghiệm và bắt đầu thiết kế một phép thử đơn giản đến kỳ lạ…mà táo bạo đến đáng sợ. Cô chưa rõ liệu có tác dụng không, nên quyết định giấu Peter cho đến khi công việc hoàn tất. Bốn tháng sau, cuối cùng Katherine cũng dẫn anh trai tới phòng thí nghiệm. Cô đẩy ra một thiết bị khá đồ sộ vẫn giấu kín trong nhà kho phía sau.- Em tự thiết kế và chế tạo đấy – cô khoe khi cho Peter xem phát minh của mình – Anh có đoán được gì không? Anh trai cô chăm chú nhìn cỗ máy kỳ lạ.- Một cái lồng ấp à? Katherine lắc đầu cười, mặc dù đó là một phán đoán khá hợp lý. Cỗ máy thực sự trông hơi giống loại lồng ấp dành cho trẻ sơ sinh thiếu tháng thường thấy trong các bệnh viện. Tuy nhiên, cỗ máy này vừa với cả kích thước của người lớn, nó là một cái kén dài bằng nhựa trong, kín hơi, trông như một loại túi ngủ hiện đại, đặt trên một thiết bị điện tử rất lớn.- Để xem thứ này có giúp anh đoán ra không nhé. – Katherine nói và cắm điện. Một màn hình điện tử trên cỗ máy bật sáng. Katherine bấm phím, các con số nhảy nhót một lúc rồi dừng ở:0,0000000000 kg- Cân à? – Peter hỏi, vẻ mặt đầy thắc mắc.- Không phải cân thường – Katherine nhặt mẩu giấy nhỏ xíu trên chiếc bàn gần đó và nhẹ nhàng thả nó lên chốc cái kén. Các con số trên màn hình lại nhảy nhót và sau đó dừng lại ở một thông số mới.0,0008194325 kg- Mà là cân tiểu ly có độ chính xác cao – cô giải thích – Độ chính xác đến vài microgram.Peter vẫn rất bối rối.- Em chế tạo một chiếc cân chính xác cao để… cân người à?- Chính xác – Katherine nhấc cái nắp trong suốt của cỗ máy lên – Nếu em đặt một người vào trong cái kén này và đóng nắp lại, người ấy sẽ nằm trong một hệ thống đóng kín hoàn toàn. Không gì có thể lọt vào hay lọt ra, dù là không khí, chất lỏng, hay phân tử bụi. Cũng chẳng có gì thoát được hết, dù là hơi thở, mồ hôi bay hơi hay chất dịch của cơ thể…Peter luồn tay vào mái tóc bạc rất dày, một cử chỉ biểu lộ tâm trạng bồn chồn giống hệt Katherine.- Hừm… rõ ràng là nằm trong đó người ta sẽ chết nhanh hơn.Katherine gật đầu.Khoảng sáu phút, tuỳ thuộc vào nhịp hô hấp của họ.Peter quay sang cô.- Anh vẫn chưa hiểu.- Rồi anh sẽ hiểu – Katherine mỉm cười. Để cỗ máy lại đó, cô dẫn anh trai tới phòng điều khiển, cho ông ngồi xuống trước bức tường plasma. Cô bắt đầu nhập số liệu và truy cập một loạt tệp tin video lưu trữ trong các ổ đĩa đa sao lưu toàn ảnh. Bức tường plasma nhấp nháy sáng, chiếu ra những hình ảnh trông giống một thước phim tự quay ở nhà. Máy quay lia ngang một phòng ngủ giản dị với chiếc giường bừa bộn, những chai thuốc, một máy thở và một màn hình theo dõi tim. Peter băn khoăn xem đoạn phim, hướng quay di chuyển và cuối cùng dừng lại ở chiếc cân của Katherine nằm gần chính giữa phòng ngủ.Peter mở to mắt.- Cái gì…?Nắp kén trong suốt mở toang, một ông già đeo mặt nạ dưỡng khí lằm bên trong. Bà vợ già của ông cùng một nhân viên tang lễ đứng cạnh đó. Ông già thở rất khó nhọc, hai mắt nhắm nghiền.- Người nằm trong kén là một giảng viên khoa học của em ở Yale, – Katherine nói – ông ấy và em vẫn liên hệ với nhau suốt nhiều năm qua. Ông ốm rất nặng, và thường nói muốn hiến tặng cơ thể mình cho khoa học, vì thế khi em giải thích ý tưởng về thí nghiệm này, ông lập tức bằng lòng tham gia.Peter nín lặng vì sửng sốt, tiếp tục theo dõi cảnh tượng đang diễn ra.Lúc ấy, nhân viên tang lễ quay sang người vợ.- Đến giờ rồi. Ông ấy đã sẵn sàng.Bà cụ chấm chấm đôi mắt đẫm lệ và gật đau với vẻ bình tĩnh đến cương quyết.- Vâng. Rất nhẹ nhàng, nhân viên tang lễ tiến lại bên cái kén và gỡ mặt nạ dưỡng khí của ông cụ. Ông hơi nhúc nhích, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Nhân viên tang lễ đẩy hết máy trợ thở và các thiết bị khác sang một bên, để ông cụ nằm suông trong cái khoang ở giữa phòng. Vợ của người hấp hối tiến đến gần, cúi xuống, và nhẹ nhàng hôn lên trán chồng mình. Ông già vẫn không mở mắt, nhưng môi ông động đậy, rất khẽ khàng, thoáng hiện một nụ cười yêu thương. Không còn mặt nạ dưỡng khí, nhịp thở của ông cụ càng trở nên khó nhọc. Phút cuối đang đến rất gần. Với nghị lực và thái độ bình tĩnh đáng nể, vợ ông chậm rãi hạ cái nắp trong suốt và và đóng kín lại đúng như Katherine đã hướng dẫn.Peter hoảng hốt giật lui.- Katherine, vì Chúa, sao lại như thế chứ?- Không sao đâu, – Katherine hạ giọng – Có đủ dưỡng khí trong khoang mà. Cô đã xem đoạn video này hàng chục lần, nhưng lần nào xem lại cũng thấy hồi hộp như nhau. Cô trỏ bàn cân bên dưới cái khoang đóng kín của người hấp hối. Thông số điện tử hiển thị:51,4534644 kg Đó là trọng lượng cơ thể ông ấy, – Katherine giải thích. Nhịp thở của ông cụ trở nên gấp gáp. Peter sửng sốt nhích tới trước.- Ông cụ bằng lòng thế mà – Katherine thì thầm – Hãy xem diễn biến tiếp theo nhé! Bà vợ bước lùi lại, ngồi xuống giường và im lặng nhìn nhân viên lễ tang. Trong thời gian sáu mươi giây tiếp theo, nhịp hô hấp của ông cụ rất nông và cứ dồn dập dần, rồi đột nhiên, như thê đã tự lựa chọn thời điểm từ giã cõi đời, ông ngừng thở. Mọi chuyện chấm dứt.Không còn gì xảy ra nữa.Peter đợi tiếp vài giây, đoạn liếc nhìn Katherine với vẻ thắc mắc rõ rệt.Hãy cứ đợi đi, cô nghĩ, hướng ánh mắt Peter trở lại với màn hình điện tử vẫn âm thầm toả sáng, cho biết trọng lượng của người đã khuất.Rồi sự lạ diễn ra. Đang lặng lẽ theo dõi. Peter thình lình nhảy lui, gần như ngã ra khỏi ghế.- Nhưng… đó là… – ông sững sờ đưa tay che miệng – Anh không thể. Rất hiếm khi Peter Solomon vĩ đại mất bình tĩnh đến mức không thốt lên lời. Lần đầu chứng kiến hiện tượng xảy ra, phản ứng của Katherine cũng y hệt như ông vậy. Một lúc sau khi ông cụ qua đời, các con số trên cân đột ngột giảm xuống. Ông cụ nhẹ đi sau khi chết. Sự thay đổi về trọng lượng là rất nhỏ, nhưng vẫn đo đếm được… và các chỉ số thực sự gây chấn động. Katherine nhớ rằng cô đã run rẩy viết vào sổ nhật ký phòng thí nghiệm: “Khi con người chết đi, dường như có một thứ “vật chất” vô hình thoát ngay ra khỏi cơ thể họ. Trọng lượng của nó là định lượng được và không hề bị ngăn cản bởi các rào cản vật lý. Tôi phải thừa nhận rằng nó di chuyển theo một chiều mà tôi chưa lý giải nổi”. Qua vẻ choáng váng trên gương mặt anh trai mình. Katherine biết rằng ông đã hiểu ý nghĩa của thí nghiệm.- Katherine… – Peter lắp bắp, hấp háy đôi mắt xám như muốn bảo đảm rằng mình không hề nằm mơ – Anh nghĩ em vừa cân được linh hồn con người. Tiếp đó là sự im lặng kéo dài giữa hai anh em. Katherine cảm thấy Peter đang cố lĩnh hội những thực tế phi thường và rõ rệt. Sẽ cần thời gian. Nếu hiện tượng họ vừa mục kích phản ánh đúng bản chất sự việc – chứng tỏ linh hồn, ý thức hoặc sinh lực có thể thoát ra ngoài cơ thể – thì xem như đã có ánh sáng soi rọi vô vàn câu hỏi bí ẩn về luân hồi, ý thức vũ trụ, cảm giác cận kề cái chết, dự đoán các vì sao, thần giao cách cảm, mơ trong lúc tỉnh táo, vân vân. Trên các tạp chí y học đầy rẫy những câu chuyện về các bệnh nhân chết trên bàn mổ tự nhìn xuống và trông thấy cơ thể họ, rồi sau đó được cứu sống trở lại. Peter im lặng. Katherine thấy lệ ông ông trong mắt ông. Cô hiểu. Cô cũng khóc. Họ đã mất đi những người thân yêu, và với bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh tương tự, những tín hiệu mong manh về linh hồn bất diệt của con người sẽ mang lại cho họ đôi chút hy vọng. Nhận ra vẻ u sầu sâu thẳm trong mắt Peter, Katherine nghĩ, Anh ấy đang nhớ đến Zachary. Bao năm qua, Peter mang bên lòng gánh nặng trách nhiệm về cái chết của con trai mình. Đã nhiều lần, ông tâm sự với Katherine rằng việc bỏ lại Zachary trong tù là sai lầm tồi tệ nhất đời ông, và ông sẽ không bao giờ tìm cách tha thứ cho bản thân. Tiếng cửa đóng sầm khiến Katherine chú ý, và đột nhiên cô trở lại gian hầm, nằm trên chiếc bàn đá lạnh lẽo. Sau khi sập cửa sắt rõ mạnh, gã đàn ông xăm trổ lại từ đầu dốc đi xuống. Katherine nghe tiếng chân gã bước vào một trong những căn phòng dọc hành lang, lục đục một lúc bên trong, sau đó lại quay ra để tới phòng của cô. Khi gã bước vào, cô trông thấy gã đẩy theo một thứ gìđó… khá nặng nề… trên những bánh xe. Khi tất cả lọt vào vùng ánh sáng, Katherine trợn mắt nghi hoặc. Gã đàn ông xăm trổ đang đẩy một người ngồi trên xe lăn. Về mặt trí tuệ, não bộ của Katherine nhận ngay ra người ấy. Về mặt tình cảm, tâm trí cô xáo động vì hình ảnh đang chứng kiến.- Anh Peter đấy ư? Cô không biết nên vui mừng vì anh trai mình vẫn còn sống… hay kinh hãi. Cơ thể của Peter bị cạo sạch sẽ. Mái tóc bạc dày dặn của ông biến sạch, lông mày cũng vậy, làn da nhẵn nhụi ánh lên như thể đã được thoa dầu. Ông khoác một chiếc áo choàng lụa màu đen. Chỗ vị trí bàn tay phải của ông giờ chỉ còn cẳng tay, quấn trong một dải băng sạch sẽ, mới tinh. Ông đau đớn nhìn cô em gái, ánh mắt đong đầy ân hận và day dứt.- Anh Peter! – Katherine nấc lên.Peter cố nói nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ. Katherine nhận ra ông bị trói vào xe lăn và bị nhét giẻ vào miệng. Gã đàn ông xăm trổ cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ lớp da đầu cạo nhẵn thín của Peter.- Tôi đã chuẩn bị cho anh trai bà một vinh dự lớn lao. Đêm nay ông ấy có một vai phải đóng.Toàn thân Katherine cứng đờ. Không…- Peter và tôi sẽ đi bây giờ, nhưng tôi nghĩ hai người muốn tạm biệt nhau.- Anh định đưa anh ấy đi đâu? – Katherine yếu ớt hỏi.Gã đàn ông mỉm cười.- Peter và tôi phải tới ngọn núi thiêng. Đó là nơi kho báu toạ lạc. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ rõ địa điểm đó. Bạn của bà, Robert Langdon, rất hữu dụng.Katherine nhìn sâu vào mắt anh trai.- Hắn đã giết… Robert. Nét mặt Peter rúm ró vì thống khổ, và ông lắc đầu lia lịa, cứ như thể không chịu đựng nổi nỗi đau nào nữa.- Thôi, thôi Peter, – gã kia nói và lại xoa đầu người đàn ông – Đừng để chi tiết này phá hỏng thời khắc quan trọng. Hãy tạm biệt cô em gái nhỏ bé của ông đi. Đây là lần đoàn tụ gia đình cuối cùng của ông đấy.Katherine cảm thấy tâm trí mình như muốn bùng nổ vì tuyệt vọng.- Tại sao anh lại hành động như thế? – cô gào lên – Chúng tôi đã làm gì anh chứ? Cơn cớ nào khiến anh thù ghét gia đình tôi đến vậy?Gã đàn ông xăm trổ bước lại và kề miệng sát tai cô.- Tôi có lý do của mình, Katherine ạ – Gã bước tới bàn dụng cụ và nhấc con dao kỳ lạ lên. Gã mang nó tới chỗ Katherine và liếc lưỡi dao sáng quắc qua má cô – Đây là con dao nổi tiếng nhất trong lịch sử.Katherine chẳng biết con dao nổi tiếng nào cả, nhưng quả thực con dao này trông rất cổ xưa và đầy hăm doạ. Lưỡi thép sắc lém.- Đừng lo, – gã nói – Tôi không có ý định phí phạm uy lực của nó với bà đâu. Tôi để dành nó ột sự hy sinh đáng giá hơn… tại một địa điểm thiêng liêng hơn – Gã quay sang anh trai cô – Peter, ông có nhận ra con dao này không?Đôi mắt Peter mở to, nỗi sợ hãi pha lẫn vẻ hoài nghi.- Phải, Peter, cổ vật này vẫn tồn tại. Tôi giành được nó với cái giá rất cao… và để dành nó cho ông. Cuối cùng thì hai ta cũng cùng nhau chấm dứt hành trình khó nhọc này.Dứt lời, gã cẩn thận bọc lưỡi dao vào một tấm vải cùng với tất cả những món đồ khác – hương thơm, một ống chất lỏng, những tấm vải sa tanh trắng, và những lễ vật. Sau đó, gã đặt gói đồ đã bọc kỹ vào chiếc túi da của Robert Langdon cùng Kim tự tháp Tam điểm và cái chóp. Katherine tuyệt vọng nhìn lên. Gã kia kéo khoá chiếc túi của Langdon và quay sang anh trai cô, thả cái túi nặng trịch vào lòng ông.- Mang theo thứ này nhé? Tiếp đó, gã bước tới ngăn kéo và bắt đầu lục tìm. Katherine nghe rõ tiếng đồ vật kim loại va lanh canh. Sau đó gã đàn ông trở lại, nhấc cánh tay phải của cô và giữ chặt trong giây lát. Katherine không nhìn thấy hành động của gã, nhưng rõ ràng là Peter chứng kiến hết thảy, vì ông lại vùng vẫy dữ dội. Đột nhiên, Katherine cảm thấy đau nhói ở khoeo tay phải, và một cảm giác âm ấm kỳ lạ chạy dọc quanh đó. Peter vẫn đang phát ra những âm thanh khổ não, tắc nghẹn và cố gắng một cách vô ích để thoát khỏi cái xe lăn nặng nề. Cảm giác tê lạnh lan khắp cánh tay và các đầu ngón tay Katherine, khi gã kia bước sang bên, cô mới hiểu tại sao anh trai mình kinh hãi đến thế. Gã đàn ông vừa cắm một cây kim tiêm vào ven Katherine như thể cô đang hiến máu vậy. Tuy nhiên, cây kim không gắn vào một đường ống. Thay vào đó, dòng máu đang chảy ra ngoài… lăn dọc khuỷu tay, cánh tay Katherine và tràn ra mặt bàn đá. – Một chiếc đồng hồ cát bằng xương bằng thịt. – gã nói và quay sang Peter – Lát nữa, khi tôi đề nghị ông đóng vai của mình, tôi muốn ông hình dung ra cảnh Katherine… một mình chết dần trong bóng tối nơi đây. Mặt Peter ngập đầy đau đớn.- Cô ta còn sống được khoảng một tiếng nữa, – gã đàn ông tiếp – Nếu ông tích cực hợp tác thì tôi sẽ có đủ thời gian để cứu cô ta. Dĩ nhiên, nếu ông chống lại tôi… em gái ông sẽ chết rục ở đây. Peter gầm rít qua mớ giẻ nhét trong miệng.- Tôi biết, tôi biết, – gã đàn ông xăm trổ đặt tay lên vai Peter – việc này khiến ông dằn vặt. Nhưng chả nên thế. Vả chăng, đây đâu phải lần đầu tiên ông bỏ rơi một thành viên trong gia đình – Gã dừng lại, cúi thấp xuống và thì thào vào tai Peter – Dĩ nhiên, tôi đang nghĩ đến Zachary con trai ông, trong nhà tù Soganlik. Peter cố gồng mình và phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn nữa qua mớ giẻ trong miệng.- Thôi đi! – Katherine thét lên.- Tôi còn nhớ rất rõ đêm đó – gã đàn ông vừa gói ghém đồ đạc vừa chế nhạo – Tôi nghe thấy tất cả. Lão cai ngục gợi ý thả con trai ông ra, nhưng ông quyết định dạy cho Zachary một bài học…bằng cách bỏ rơi nó. Con trai của ông đã nhận được bài học của mình, phải không? – Gã mỉm cười – Sự mất mát của nó… là thành quả của tôi.Gã rút một mảnh vải lanh và nhét sâu vào miệng Katherine.- Chết, – gã thì thào với cô – thì nên im ắng. Peter vùng vẫy dữ dội. Không nói thêm một lời, gã đàn ông xăm trổ đẩy xe lăn đưa Peter ra khỏi phòng, thật chậm để ông có thời gian nhìn em gái lần cuối. Katherine và Peter trân trân ngó nhau.Sau đó ông đi. Katherine nghe rõ tiếng họ di chuyển lên đường dốc và qua cánh cửa kim loại. Sau đó gã đàn ông khoá cánh cửa sắt lại và tiếp tục bước qua bức tranh Ba Kiều nữ, vài phút sau, có tiếng xe hơi nổ máy. Rồi cả toà nhà chìm vào im lặng. Katherine nằm lại một mình trong bóng tối, máu chảy đầm đìa.Chương 108Tâm trí Langdon bay lượn trong một vực thẳm không đáy. Không ánh sáng. Không âm thanh. Không cảm giác. Chỉ có sự im ắng và trống trải vô tận. Mềm mại.Nhẹ hẫng. Cơ thể đã giải thoát anh. Anh được cởi trói. Thế giới vật chất tan biến. Thời gian không còn tồn tại. Lúc này, Langdon chỉ đơn thuần là một ý thức… một tri giác vật vờ trong bao la vũ trụ.