Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol)

Chương 100 - 102


Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 100 – 102

Chương 100

Robert Langdon nằm im, run bắn, trần truồng và cô độc trong bóng tối đặc quánh. Đờ đẫn vì sợ, anh không còn đập tay hay kêu gào nữa. Thay vào đó, anh nhắm mắt lại, cố gắng kiểm soát hơi thở hỗn loạn và nhịp tim nện như trống dồn của mình. Ta đang nằm dưới trời đêm mênh mông. Anh cố gắng thuyết phục bản thân. Bên trên là cả một không gian rổng mở và thoáng đãng.Viễn cảnh êm đềm ấy là cách duy nhất anh từng nghĩ đến để sống sót khi chui vào cái ruột chật hẹp của cỗ máy chụp cộng hưởng từ kín bưng, cùng sự hỗ trợ của một lượng thuốc an thần nhiều gấp ba mức bình thường. Tuy nhiên tối nay, viễn cảnh ấy không có tác dụng gì hết. *** Nùi giẻ trong miệng Katherine Solomon trượt vào sâu hơn và gần như làm cô tắc thở. Đi hết đường dốc hẹp, kẻ bắt cóc vác cô xuống hành lang tầng hầm tối om. Katherine liếc thấy một gian phòng thấp thoáng ánh sáng đỏ tía rất lạ đằng cuối hành lang, nhưng họ không đi đến tận đó. Gã đàn ông dừng lại trước một gian phòng nhỏ dọc đường, mang Katherine vào trong và hạ cô xuống một chiếc ghế gỗ, trói chặt hai tay cô ra sau lưng tựa phòng hờ cô di chuyển. Katherine cảm thấy sợi dây trên cổ tay thít sâu hơn vào thịt mình. Cơn đau kèm với nỗi hoảng sợ càng lúc càng tăng khiến cô khó thở. Nùi giẻ trong miệng tụt sâu hơn vào cổ họng, Katherine cố ọe để đẩy nó ra, mắt cô hoa lên. Phía sau, gã đàn ông xăm trổ đóng cánh cửa duy nhất lại và bật đèn sáng. Nước mắt Katherine chảy ra giàn giụa, cô không còn phân biệt được các đồ vật ngay xung quanh mình nữa. Mọi thứ trở nên nhòe nhoẹt. Khi mắt mờ hẳn và sắp sửa bất tỉnh đến nơi, Katherine bỗng thấy một bóng người méo mó da dẻ loang lổ xuất hiện ngay trước mặt, vươn cánh tay đầy vảy tới rút nùi giẻ khỏi miệng cô. Katherine thở gấp, cố hít những hơi thật sâu rồi ho rũ rượi và sặc sụa khi không khí quý giá tràn vào màng phổi. Mắt rõ dần trở lại, cô nhận thấy mình đang nhìn thẳng vào mặt ác quỷ. Diện mạo ấy khó có thể gọi là mặt người, cổ, mặt và cái đầu nhẵn thín chi chít những biểu tượng xăm trổ kỳ dị. Chỉ trừ một vòng tròn nhỏ trên đỉnh đầu, còn lại mọi diện tích trên cơ thể gã đều dày đặc hình trang trí. Trên ngực gã có một con phượng hoàng hai đầu cực lớn, nó chòng chọc nhìn Katherine bằng cặp mắt trùng với hai núm vú, y như mắt kền kền đói mồi đang kiên nhẫn chờ đợi cái chết của cô.- Há miệng ra, – gã đàn ông thì thào. Katherine trợn mắt nhìn con quái vật với tất cả vẻ khiếp đảm. Cái gì cơ?- Há miệng ra, – gã đàn ông nhắc lại – Nếu không tôi lại nút mớ giẻ vào mồm bà đấy. Katherine rùng mình há miệng ra. Gã đàn ông luồn ngón tay trỏ xăm trổ to tướng của mình vào giữa hai bờ môi cô. Khi bị chạm vào lưỡi Katherine chỉ chực nôn mửa. Gã đàn ông rút ngón tay ướt nhoét ra rồi đưa lên đỉnh đầu trọc lóc. Nhắm mắt lại, gã xoa nước bọt của cô vào khoanh tròn nhỏ chưa xăm trổ. Katherine ghê tởm ngoảnh mặt đi. Gian phòng này rất giống một phòng nồi hơi với nhiều đường ống trên tường, những âm thanh ùng ục và những ngọn đèn huỳnh quang. Chưa kịp ghi nhận hết quang cảnh xung quanh mình, ánh mắt Katherine đã dừng sững lại ngay sàn nhà bên cạnh cô. Ở đó có một đống quần áo: áo len cổ lọ, áo khoác thể thao vải tweed, giày lười, đồng hồ Chuột Mickey.- Chúa ơi! – Cô quay phắt lại phía con thú xăm trổ – Ngươi đã làm gì Robert?!- Suỵt! – gã đàn ông thì thào – Nếu không hắn sẽ nghe thấy tiếng bà đấy. Gã bước tránh sang một bên và ra hiệu về phía sau. Không thấy Langdon đâu cả, chỉ có một chiếc hòm lớn bằng sợi thuỷ tinh màu đen, hình dáng từa tựa loại thùng nặng trịch chuyên đựng các xác chết để chuyển về hậu phương trong thời chiến. Hai cái móc to tướng khoá chặt chiếc hòm.- Robert ở trong ư? – Katherine thảng thốt – Nhưng… anh ấy sẽ chết ngạt mất!- Không, không hề gì, – gã đàn ông nói, đoạn trỏ một mớ đường ống trong suốt chạy dọc tường xuống dưới đáy hòm – Rồi hắn sẽước giá như được chết ngạt ấy chứ. *** Trong bóng tối dày đặc, Langdon chăm chú lắng nghe những âm thanh bị chặn lại ở thế giới bên ngoài. Có tiếng nói. Anh nện cái hòm thật lực và gào to hết mức.- Cứu! Có ai nghe thấy tôi không??Xa xa, một giọng tắc nghẹn kêu lên.- Robert! Chúa ơi, không! KHÔNG! Anh biết giọng nói này. Đó là Katherine, dù đong đầy hốt hoảng thì vẫn là một âm thanh dễ chịu. Langdon hít một hơi thật sâu, định cất tiếng gọi, chợt anh dừng lại ngay vì cảm nhận một biến đổi bất ngờ phía sau gáy. Có làn hơi rất nhẹ đang toả ra từ đáy hòm. Sao lại như thế được nhỉ? Anh nằm thật im, nghe ngóng.Phải, hoàn toàn chính xác. Những sợi tóc nhỏ xíu nơi gáy anh đang rung rung trước luồng không khí chuyển động. Theo bản năng, Langdon bắt đầu sờ dọc theo đáy hòm tìm kiếm nguồn không khí. Chỉ thoáng chốc anh đã xác định được vị trí. Có một chỗ hở nhỏ xíu. Nó gồm nhiều lỗ li ti, giống như đường thoát của bồn hoặc chậu rửa, chỉ khác là hiện đang có một luồng không khí nhè nhẹ liên tục thổi vào.Hắn bơm không khí ình. Hắn không muốn mình chết ngạtCảm giác nhẹ nhõm của Langdon không kéo dài lâu. Một âm thanh hãi hùng vọng tới qua những lỗ li li ở đáy thoát. Đấy là tiếng òng ọc không lẫn vào đâu được của chất lỏng đang chảy… tới chỗ anh. *** Không sao tin nổi vào mắt mình, Katherine trừng trừng nhìn cột chất lỏng trong suốt chạy xuống một trong những đường ống thông với cái hòm nhốt Langdon. Cảnh tượng trông y như màn trình diễn của ảo thuật gia.Hắn bơm nước vào hòm ư?Katherine cố rướn người, bất chấp những vòng dây cứa sâu quanh cổ tay mình. Lực bất tòng tâm, cô đành chứng kiến diễn biến trong tâm trạng hãi hùng. Langdon tuyệt vọng nện liên hồi, nhưng khi nước tuồn đến đáy hòm, anh dừng lại. Sau một khoảnh khắc im lặng kinh hoàng, tiếng nện lại vang lên với tất cả nỗi tuyệt vọng mới.- Hãy thả anh ấy ra! – Katherine van nài – Xin anh! Anh không thể làm thế?- Chết đuối là một cái chết kinh khủng, bà biết không? – Gã kia thản nhiên nói và bước vòng quanh Katherine – Trợ lý Trish của bà có thể kể cho bà nghe trải nghiệm đó.Lời gã đàn ông lọt vào tai Katherine, nhưng cô chẳng còn tâm trí đâu để lĩnh hội.- Hẳn bà vẫn nhớ tôi từng suýt chết đuối, – gã thì thào – Chính tại điền trang của gia đình bà ở Potomac. Anh trai bà đã bắn tôi, và tôi ngã xuống từ cây cầu của Zach, ngã xuyên qua băng.Katherine chằm chằm nhìn gã, ánh mắt đầy căm hận. Cái buổi tối nhà ngươi giết chết mẹ ta.- Đêm hôm ấy thần linh đã phù hộ tôi – gã nói – Và chỉ đường cho tôi trở thành một trong số họ. Nước òng ọc chảy vào hòm, âm ấm ngay dưới đầu Langdon… hơi ấm của thân nhiệt. Chất lỏng đã dâng cao vài phân và hoàn toàn nuốt chửng phần lưng trần của anh. Khi nó bắt đầu bò tới lồng ngực, Langdon nhận ra thực tế u ám đang đến gần.Mình sẽ chết.Hoảng hốt, anh vung tay và lại bắt đầu nện dữ dội.Chương 101- Anh phải thả anh ấy ra! – Katherine nài nỉ, rồi bật khóc – Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.- Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão…- Anh ấy đâu rồi?! – Katherine gặng hỏi – Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và…- Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.- Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác – Katherine trả lời, cố nén nước mắt – CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.- Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.- Đúng – cô thú nhận – Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.Gã nọ kéo mạnh hơn.- Địa chỉ trên chóp là gì thế?Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.- Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.- Tám? – Katherine há miệng vì đau – Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: “Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin”. Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!Gã kia vẫn không buông vai cô.- Tôi chỉ biết đến thế thôi – Katherine nói – Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!- Tôi sẽ… – gã kia nói – nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?- Tôi không biết!- Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?- Biểu tượng nào ở đế? – Katherine ngơ ngác không hiểu – Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.ẢNHKhông… không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.Hoàn toàn lộn xộn.- Tôi…không hiểu ý nghĩa của nó – cô thú nhận.- Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng – Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm – Ta thử hỏi ông ta nhé?Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas. *** Ánh sáng!Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang. Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.- Katherine đâu? – Langdon gào toáng – Thả ta ra!Gã kia mỉm cười.- Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, – gã nói – Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.- Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? – gã hỏi.- Có! – Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn – Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết…- Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas – Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon – Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí. Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là…”Tổ Chức” ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.- Đúng, – anh hét lên – Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!- Ông biết toà nhà đó thì phải?- Biết rất rõ! – Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh – Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?- Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.- Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas. Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.- Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? – gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình – Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giâyChương 102- Anh phải thả anh ấy ra! – Katherine nài nỉ, rồi bật khóc – Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.- Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão…- Anh ấy đâu rồi?! – Katherine gặng hỏi – Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và…- Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.- Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác – Katherine trả lời, cố nén nước mắt – CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.- Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.- Đúng – cô thú nhận – Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.Gã nọ kéo mạnh hơn.- Địa chỉ trên chóp là gì thế?Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.- Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.- Tám? – Katherine há miệng vì đau – Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: “Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin”. Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!Gã kia vẫn không buông vai cô.- Tôi chỉ biết đến thế thôi – Katherine nói – Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!- Tôi sẽ… – gã kia nói – nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?- Tôi không biết!- Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?- Biểu tượng nào ở đế? – Katherine ngơ ngác không hiểu – Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.ẢNHKhông… không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.Hoàn toàn lộn xộn.- Tôi…không hiểu ý nghĩa của nó – cô thú nhận.- Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng – Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm – Ta thử hỏi ông ta nhé?Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas. *** Ánh sáng!Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang. Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.- Katherine đâu? – Langdon gào toáng – Thả ta ra!Gã kia mỉm cười.- Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, – gã nói – Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.- Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? – gã hỏi.- Có! – Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn – Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết…- Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas – Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon – Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí. Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là…”Tổ Chức” ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.- Đúng, – anh hét lên – Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!- Ông biết toà nhà đó thì phải?- Biết rất rõ! – Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh – Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?- Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.- Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas. Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.- Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? – gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình – Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giây.

Chương 102

Robert Langdon thường nghe nói rằng khi bị dồn đến đường cùng, động vật có thể phát huy sức mạnh một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, khi anh vận hết sức bình sinh đẩy mạnh nắp hòm, vẫn chẳng có gì nhúc nhích cả. Quanh anh, chất lỏng liên tục dâng lên. Chỉ còn không quá sáu phân không gian để thở, Langdon buộc phải nhô đầu cao lên phần dưỡng khí còn lại. Lúc này mặt anh đang áp vào mặt kính Plexiglas, mặt anh chỉ cách các hình khắc rắc rối dưới đế kim tự tháp đá có vài phân.Mình không hiểu thế này có nghĩa gì.Sau hơn một thế kỷ bị giấu kín dưới hỗn hợp cứng gồm sáp trộn bột đá, lúc này phần hình khắc cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm đã hiện ra rõ rệt. Đó là một đồ hình vuông vức gồm những biểu tượng thuộc mọi truyền thống mà người ta có thể tưởng tượng được: giả kim, chiêm tinh, huy hiệu, thần thánh, pháp thuật, số học, con dấu, Hy Lạp, La tin. Gộp tất cả lại, đây là một mớ bòng bong biểu tượng, một nồi lẩu thập cẩm chữ cái thuộc về hàng chục ngôn ngữ, nền văn hoá và thời kỳ khác nhau.Hoàn toàn lộn xộn.ẢNHNhà ký tượng học Robert Langdon, dù vận dụng những cách diễn giải học thuật phóng túng nhất, cũng không thể suy luận được cách giải mã bảng biểu tượng này để cho ra một ý nghĩa gì đó. Tìm ra trật tự từ mớhỗn độn này ư? Làm gì có chuyện.Chất lỏng bò dần qua yết hầu Langdon, nỗi sợ hãi của anh cũng ráo riết tăng theo. Anh tiếp tục nện thình thình. Ngọn tháp đá như đang trợn mắt nhìn lại anh đầy cay độc. Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực. Langdon gắng tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bàn cờ biểu tượng nọ. Chúng có thể mang ý nghĩa gì nhỉ? Tiếc thay, cách sắp xếp lung tung đến mức anh không hình dung nổi nên bắt đầu từ đâu. Thậm chí chúng còn không xuất phát từ cùng một giai đoạn lịch sử!Bên ngoài. Katherine nức nở van nài gã nọ thả Langdon. Dù cách âm. Langdon vẫn loáng loáng thoáng nghe thấy tiếng cô. Tuy đang bế tắc, nhưng mối đe doạ của cái chết dường như kích thích mọi tế bào trong cơ thể anh phải hoạt động để tìm ra một giải pháp. Langdon cảm thấy đầu óc minh mẫn hơn bao giờ hết. Hãy suy nghĩ! Anh nhìn kỹ một lượt đồ hình, cố tìm manh mối, có thể là mẫu hình, là từ ẩn, là biểu tượng đặc biệt hay bất kỳ chi tiết gì khác, nhưng anh chỉ thấy một mớ biểu tượng chẳng liên quan gì đến nhau. Lộn xộn.Mỗi giây trôi qua, trạng thái tê dại lại chiếm lĩnh dần cơ thể Langdon. Dường như xương thịt anh đang chuẩn bị che chắn tâm trí khỏi cơn đớn đau vì cái chết. Lúc này, nước đang mấp mé tràn vào tai anh, Langdon cố ngóc cao đầu hết mức, áp hẳn vào nóc hòm. Những hình ảnh hãi hùng bắt đầu lóe lên trước mắt anh. Một cậu bé lội bì bõm dưới đáy giếng tối om ở New England. Một người đàn ông bị mắc kẹt dưới bộ xương trong quan tài lật úp ở Rome. Tiếng kêu khóc của Katherine nghe càng cuống quít hơn. Langdon luận ra là cô đang cố gắng phân tích phải trái với gã điên kia, cô khẩn khoản nói Langdon không thể giải mã được cái kim tự tháp nếu không tới Đền Almas.- Rõ ràng toà nhà đó chứa phần còn thiếu của câu đố. Làm sao Robert giải mã được kim tự tháp nếu không có đủ thông tin? Langdon rất cảm kích những nỗ lực của Katherine, nhưng anh tin chắc rằng “Tám Quảng trường Franklin”, không dính dáng tới Đền thánh Almas. Mốc thời gian không khớp! Theo truyền thuyết, Kim tự tháp Tam điểm được tạo ra vào giữa thế kỷ XIX, nhiều thập kỷ trước khi các Hiệp sĩ Đền thánh xuất hiện, có lẽ còn trước cả khi quảng trường được đặt tên là Franklin. Cái chóp không thể chỉ tới một toà nhà chưa xây dựng tại một địa chỉ chưa hề tồn tại được. Cho dù “Tám Quảng trường Franklin” ám chỉ điều gì… thì nó cũng phải tồn tại vào năm 1850. Tiếc thay. Langdon không nhìn ra manh mối nào cả. Anh cố lục lại trí nhớ để tìm mọi sự kiện khả dĩ trùng khớp về mốc thời gian Tám Quảng trường Franklin ư? Cái gì ra đời năm 1850 nhỉ? Langdon không nghĩ ra. Chất lỏng đã chảy dần vào tai anh. Cố nén cơn sợ hãi, Langdon đăm đăm nhìn các biểu tượng trên tấm kính. Anh không hiểu mối liên hệ! Trong tâm trạng hoảng loạn đến đờ đẫn, trí não anh bắt đầu bật ra tất cả những tương quan mà nó có thể liên tưởng. Tám Quảng trường Franklin… quảng trường – ô vuông(98)… bảng biểu tượng này là một hình vuông… thước thợ và pa là biểu tượng của Hội Tam điểm… Các bàn thờ của Hội Tam điểm đều hình vuông… hình vuông có các góc 90 độ. Nước vẫn dâng lên, nhưng Langdon mặc kệ. Tám Franklin… tám… mỗi chiều của bảng này là tám ô vuông… Franklin”, gồm tám chữ cái…, “Giáo phẩm” cũng gồm tám chữ cái… 8 là biểu tượng xoay ngang của 8chỉ “dương vô cùng…tám là con số đại diện cho sự huỷ diệt trong môn số bí thuật…Langdon không nghĩ ra điều gì. Bên ngoài, Katherine vẫn đang van nài, nhưng Langdon chỉ còn nghe câu được câu mất vì nước đang lõng bõng quanh đầu anh.- … không thể nếu không biết… thông điệp của cái chóp rõ ràng… bí mật giấu trong… Rồi không thấy tiếng gì nữa. Nước tràn vào tai Langdon, chặn toàn bộ tiếng nói của Katherine. Sự im lặng chết chóc đột ngột trùm lấy anh. Langdon nhận ra mình sắp lìa đời thật.Bí mật giấu trong…Những lời cuối cùng của Katherine vọng vang trong nấm mồ của anh.Bí mật giấu trong…Lạ thay, Langdon nhận ra trước đây mình đã nghe thấy những từ này rất nhiều lần.Bí mật giấu… ngay bên trong…Những Bí mật cổ xưa như đang cười nhạo anh. “Bí mật giấu ngay bên trong” là nguyên lý cốt lõi của mọi điều bí ẩn, thúc giục con người tìm kiếm Chúa trời, nhưng không phải trên thiên đường mà là ngay trong chính mình. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Đó là thông điệp của tất cả các bậc thầy bí truyền vĩ đại.Đất của Chúa nằm ngay trong chính các con, Jesus Christ dạy.- Hãy hiểu chính mình, đó là lời Pythagoras.Biết mình không có nghĩa mình là thần thánh. Hermes Trismegistưs nói.Danh sách còn kéo dài… Tất cả những lời dạy bí truyền của mọi thời đại đều cố gắng truyền tải ý tưởng duy nhất này. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong.Thế nhưng, loài người vẫn cứ tìm kiếm thiên đường để được thấy Chúa. Giờ đây, nhận thức này trở thành điều mỉa mai cuối cùng đối với Langdon. Trong trạng thái hai mắt nhìn thẳng lên trời như tất cả những kẻ mù quáng của lịch sự, Robert Langdon đột nhiên nhìn thấy ánh sáng. Nó giáng xuống anh như tia chớp từ trời. Bí mật giấuTrong Tổ ChứcTám Quảng trường Franklin Chỉ trong chốc lát, anh hiểu ra. Thông điệp trên cái chóp đột nhiên rõ như ban ngày. Suốt buổi tối ý nghĩa của nó đã hiển hiện ngay trước mắt anh. Lời dặn trên cái chóp, cũng như trên Kim tự tháp Tam điểm, là một biểu hình – một mật mã chia thành từng mảnh – một thông điệp được viết thành nhiều phần. Ý nghĩa trên chóp vàng được nguỵ trang đơn giản đến mức Langdon không ngờ rằng anh và Katherine đều không nhận ra. Càng ngạc nhiên hơn, Langdon còn vỡ lẽ rằng thông điệp trên cái chóp thực tế tiết lộ chính xác cách giải mã bảng biểu tượng ở phần đế kim tự tháp. Nó rất đơn giản. Đúng như lời Peter Solomon nói, chóp vàng là một bùa phép uy lực có sức mạnh lập lại trật tự từ hỗn loạn.Langdon bắt đầu nện nắp hòm và gào lên:- Tôi biết rồi! Tôi biết rồi!Kim tự tháp đá lập tức bị nhấc bổng đi. Thay vào đó, gương mặt xăm trổ lại xuất hiện, đường nét rùng rợn của nó đăm đăm dõi xuống qua ô cửa sổ.- Tôi giải được rồi – Langdon hét to – Cho tôi ra!Gã đàn ông xăm trổ máy môi. Hai tai ngập nước của Langdon không nghe rõ gì cả, nhưng mắt anh nhìn thấy môi gã tạo thành hai từ. “Nói đi”.- Tôi sẽ nói – Langdon hét lớn, nước lấp xấp mắt anh – Thả tôi ra!Tôi sẽ giải thích mọi điều. – Rất đơn giản thôi.Môi gã đàn ông lại nhúc nhích. “Nói ngay đi… hoặc là chết”.Làn nước đã dâng hết phần khoảng trống cuối cùng, Langdon hơi ngửa đầu ra sau để giữ iệng mình ở trên mép nước. Khi anh làm vậy, thứ chất lỏng âm ấm tràn vào mắt anh, khiến tầm nhìn của anh nhoà đi. Cong lưng, anh áp miệng vào ô cửa sổ Plexiglas. Tận dụng mấy giây cuối cùng còn dưỡng khí, Robert Langdon tiết lộ bí mật cách giải mã Kim tự tháp Tam điểm. Langdon dứt lời thì chất lỏng cũng dâng đến môi anh. Theo bản năng, Langdon hít lấy hơi thở cuối cùng và ngậm chặt miệng lại. Chỉ một thoáng sau, chất lỏng đã phủ kín người anh, chạm lên đến đỉnh ngôi mộ và tràn ra qua lớp Plexiglas. *** Hắn nghĩ ra thật, Mal’akh thừa nhận. Langdon đã nghĩ ra cách giải kim tự tháp.Đáp án quá ư đơn giản. Quá ư rõ ràng. Bên dưới ô cửa sổ, gương mặt ngập trong nước của Robert Langdon trừng trừng dõi vào gã với đôi mắt tuyệt vọng và khẩn khoản.Mal’akh lắc đầu nhìn trả và rành rọt nhả từng từ.- Cảm ơn Giáo sư. Hãy tận hưởng thế giới bên kia nhé! Chú thích:(98) Nguyên tác là Eight Franklin Square. Từ square vừa có nghĩa là quảng Trường, vừa có nghĩa là hình vuông – ND


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.