Bạn đang đọc Biên niên ký Chim vặn dây cót: Chương 30( part 01)
30
Cái đuôi của Kano Malta
♦
Boris Lột da
Trong mơ (dù tôi không biết đó là mơ), tôi ngồi uống trà với Kano Malta, mỗi người một bên bàn. Căn phòng hình chữ nhật quá dài và quá rộng đến nỗi ngồi đầu này không thấy đầu kia. Xếp ngay hàng thẳng lối trong phòng là hàng trăm cái bàn vuông – khoảng năm trăm cái, có khi nhiều hơn. Hai chúng tôi ngồi ở một trong những cái bàn ở giữa, ngoài ra không còn ai khác. Dọc suốt trên trần nhà cao vút như trong một ngôi chùa Phật giáo chạy dài vô số những xà gỗ dày nặng, khắp các dầm gỗ đó treo lủng lẳng cái gì hình như là những loại cây trồng trong chậu, nom như những bộ tóc giả. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đó là những mảng da đầu người còn nguyên tóc. Nhìn thấy máu đen sịt bên dưới chúng tôi mới biết. Những mảng da này người ta chỉ mới lột ra xong, đem treo trên xà nhà cho khô. Tôi sợ những giọt máu vẫn còn tươi có thể rỏ vào trà. Máu vẫn còn rỏ tong tong quanh chúng tôi như những giọt mưa, tiếng tí tách vang vọng khắp căn phòng mênh mông hun hút nghe to khác thường. Chỉ những mảng da đầu ngay trên bàn chúng tôi xem ra đã đủ khô để không phải sợ có giọt nào rỏ xuống.
Trà nóng rẫy như nước sôi. Đặt bên thìa uống trà trong đĩa đựng tách của mỗi chúng tôi là ba thỏi đường màu xanh lơ tươi. Kano Malta thả hai thỏi vào tách trà của mình rồi khuấy, nhưng đường không tan. Một con chó chẳng hiểu từ đâu ló ra, ngồi xuống cạnh bàn chúng tôi. Bộ mặt nó là mặt của Ushikawa. Thân thì thân chó, to đùng, chắc nịch, đen trũi, nhưng từ cổ trở lên là Ushikawa, chỉ có điều lớp lông đen bù xù phủ khắp mình kia cũng mọc cả trên mặt và đầu. “Xin chào, xin chào, ông Okada phải không?” – Ushikawa trong bộ dạng chó nói. – “Ông nhìn xem này: cả một cái đầu toàn là lông, ngay khi tôi biến thành chó là mọc ngay tức thì. Giờ hai hòn dái của tôi to hơn, bao tử lại không đau nữa. Lại còn không phải đeo kính! Không phải quần áo gì sất! Vui cha chả là vui! Làm sao mà trước đây tôi không nghĩ tới chuyện này nhỉ? Lẽ ra tôi phải thành chó từ lâu rồi mới đúng. Còn ông Okada thì sao? Sao ông không thử xem?”.
Kano Malta nhặt thỏi đường xanh lơ còn lại ném con chó. Thỏi đường đập vào trán Ushikawa, máu đen như mực chảy từ vết thương xuống đầy mặt y. Nhưng dường như Ushikawa chẳng đau gì cả. Vẫn cười toe toét, con chó dựng đuôi lên, chẳng nói chẳng rằng chạy mất. Thật vậy: cặp tinh hoàn của y to khủng khiếp.
Kano Malta mặc áo choàng kiểu áo mưa có thắt lưng. Hai vạt áo khép chặt ở phía trước, nhưng qua mùi hương tinh tế của da thịt đàn bà tôi biết cô ta hoàn toàn không mặc gì ở bên trong. Dĩ nhiên, cô ta vẫn đội chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Tôi nâng tách lên nhấp một ngụm trà, nhưng trà chẳng có vị gì. Chỉ nóng mà thôi, không gì hơn.
– Tôi rất mừng là ông đã tới, – Kano Malta nói, giọng có vẻ nhẹ nhõm thật tình. Đã lâu không nghe giọng cô, tôi cảm thấy nó như có phần vui vẻ hơn trước. – Tôi gọi cho ông suốt mấy ngày song hình như ông đi ra ngoài. Tôi đã bắt đầu lo nhỡ có chuyện gì xảy ra cho ông. Nhờ trời, ông vẫn bình an. Thật nhẹ cả người khi nghe thấy giọng ông! Dù sao đi nữa, tôi phải xin lỗi đã vắng mặt lâu đến như vậy. Tôi không thể kể chi tiết tất cả những gì đã xảy ra với tôi trong thời gian đó, nhất là trên điện thoại thế này, nên tôi sẽ chỉ tóm tắt những điểm quan trọng. Cái chính là thời gian qua tôi đi đây đi đó suốt. Tôi vừa về cách đây một tuần. Alô! Ông Okada! Ông có nghe tôi nói không?
– Có, tôi đang nghe cô đây, – tôi đáp, chỉ khi đó tôi mới nhận ra mình đang áp ống nghe điện thoại lên tai. Ở đầu bàn bên kia, Kano Malta cũng cầm ống nghe. Giọng cô ta nghe như trong cuộc gọi từ nước ngoài mà kết nối không tốt lắm.
– Suốt thời gian qua tôi không ở Nhật mà ở đảo Malta trên Địa Trung Hải. Một ngày nọ bỗng nhiên tôi tự nhủ: “Ừ phải! Mình phải quay lại Malta, đem thân mình đến bên nguồn nước của Malta. Đã đến lúc rồi!”. Chuyện đó xảy ra ngay sau khi tôi nói chuyện với ông, ông Okada ạ. Ông có nhớ lần nói chuyện đó không? Lúc đó tôi đang tìm Creta. Thật ra tôi không định đi lâu đến như vậy. Tôi cứ nghĩ đi chừng hai tuần thôi. Vì vậy tôi mới không liên lạc với ông. Hầu như tôi không nói với ai rằng mình sắp đi, cứ thế lên máy bay, hầu như chẳng mang theo gì ngoài bộ đồ trên người. Tuy nhiên, khi đến nơi, tôi thấy mình không thể ra đi được. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa?
Tôi đáp là không mà nhớ rằng đã nói chuyện này với cô ta từ mấy năm trước rồi.
– Alô? Ông Okada?
– Vâng, tôi đây.
Hình như tôi đã định nói gì đó với Kano Malta nhưng không nhớ ra được cái gì. Vắt óc một hồi thì tôi chợt nhớ ra. Tôi chuyển ống nghe sang tai kia rồi nói:
– À đúng rồi, có chuyện này tôi đã định nói với cô từ lâu: con mèo đã về.
Malta im lặng chừng bốn năm giây rồi mới nói:
– Con mèo đã về à?
– Phải. Cô và tôi quen nhau trước hết là do chuyện tìm mèo, thành thử tôi nghĩ việc này thì phải cho cô biết.
– Con mèo trở về khi nào?
– Hồi đầu xuân năm nay, từ đó đến giờ nó vẫn ở với tôi.
– Bề ngoài nó có gì thay đổi không? Có gì khác so với trước khi nó bỏ đi không?
– Thay đổi á? Nghĩ kỹ thì tôi thấy dường như hình dáng cái đuôi có hơi khác, – tôi nói. – Khi vuốt đuôi nó đúng hôm nó về, tôi thấy cái đuôi dường như quặp hơn trước. Tuy nhiên, cũng có thể tôi lầm… Dù gì nó cũng bỏ nhà đi gần một năm trời kia mà.
– Ông tin chắc đúng là con mèo đó chứ?
– Hoàn toàn chắc. Tôi nuôi nó từ lâu lắm rồi. Đúng là nó hay không thì tôi phải biết chứ.
– Tôi hiểu, – Kano Malta nói. – Tuy vậy, chả giấu gì ông, tôi có cái đuôi thật của con mèo đây.
Kano Malta đặt ống nghe xuống bàn rồi đứng dậy cởi phắt áo choàng ra. Đúng như tôi đã ngờ, ở bên trong cô ta hoàn toàn không mặc gì. Kính thước cặp vú và hình dáng âm mao của cô ta rất giống của Kano Creta. Chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ thì cô không bỏ ra. Cô quay lại chìa lưng cho tôi xem. Thật vậy, gắn vào cặp mông cô ta là một cái đuôi mèo. Cái đuôi lớn hơn nhiều so với đuôi mèo thường – để tương xứng với kích thước của thân hình Malta, nhưng hình dáng thì rõ ràng là đuôi của Cá thu. Nó cũng quặp ngay ở chóp đuôi, nhưng cái chỗ quặp này so với của Cá thu thì giống hơn nhiều.
– Xin ông hãy nhìn kỹ, – Kano Malta nói. – Đây là đuôi thật của con mèo đã bỏ nhà đi. Còn cái đuôi của nó bây giờ là đuôi giả. Trông thì giống, nhưng nếu kiểm tra kỹ, ông sẽ thấy ngay là khác.
Tôi chìa tay ra định sờ cái đuôi, nhưng cô ta đã lôi phắt nó khỏi tay tôi. Thế rồi, vẫn trần truồng, cô ta nhảy lên một trong những cái bàn. Một giọt máu từ trên trần rỏ xuống lòng bàn tay đang chìa ra của tôi. Nó cũng đỏ thắm như chiếc mũ bằng vải vinyl của Kano Malta.
– Ông Okada à, con của Kano Creta tên là Corsica, – Kano Malta đứng trên bàn, vừa vẫy tít đuôi vừa nói.
– Corsica?
– Không ai là một hòn đảo giữa biển khơi… Ấy Corsica, – giọng của con chó mực Ushikawa chẳng hiểu từ đâu vẳng tới.
– Con của Kano Creta?
Tôi thức dậy, mồ hôi đầm đìa như tắm.
° ° °
Đã lâu lắm tôi không gặp giấc mơ nào vừa dài vừa sống động và nhất quán như vậy. Lại kỳ lạ nữa. Thức giấc hồi lâu rồi mà tim tôi vẫn đập thình thịch. Tôi đi tắm nước nóng rồi thay bộ pijama mới. Mới sau 1 giờ sáng một chút nhưng tôi không buồn ngủ nữa. Để trấn tĩnh, tôi lấy từ trong chạn bếp ra một chai brandy cũ, rót một cốc uống cạn.
Đoạn tôi vào phòng ngủ tìm Cá thu. Con mèo đang cuộc tròn dưới chăn, ngủ như chết. Tôi khẽ kéo tấm chăn ra, cầm cái đuôi con mèo trong tay, nghiên cứu hình dạng của nó. Tôi miết ngón tay dọc theo cái đuôi, đang cố nhớ lại chính xác cái góc quặp của nó trước kia thì con mèo duỗi mình tỏ vẻ bực bội rồi lại ngủ. Giờ thì tôi không còn dám chắc đây đúng là cái đuôi mà con mèo từng có hồi nó còn mang tên Wataya Noboru. Không hiểu sao cái đuôi đằng sau mông Kano Malta dường như lại giống cái đuôi thật của mèo Wataya Noboru hơn nhiều. Hình dáng và mầu sắc của cái đuôi đó trong giấc mơ, tôi vẫn nhớ như in.
Con của Kano Creta tên là Corsica, Kano Malta đã nói vậy trong giấc mơ của tôi.
° ° °
Ngày hôm sau tôi không đi đâu xa khỏi nhà. Buổi sáng, tôi mua thức ăn ở siêu thị cạnh nhà ga rồi làm bữa trưa. Tôi cho con mèo mấy con cá sardine lớn còn tươi. Buổi chiều tôi đi bơi ở hồ bơi gần nhà. Người đi bơi không đông, hẳn thiên hạ còn bận chuẩn bị đón Năm mới. Loa trên trần phát nhạc Giáng sinh. Tôi thong thả bơi được khoảng nghìn mét thì bị chuột rút ở chân, liền thôi. Bức tường trông ra hồ bơi treo một món đồ trang trí Giáng sinh to.
Về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có thư gửi ình, một bức thư dày. Không nhìn địa chỉ người gửi, tôi đã biết đó là ai. Người duy nhất viết thư cho tôi bằng những con chữ viết tay nắn nót tuyệt đẹp đó chỉ có thể là trung úy Mamiya.
Đầu thư, ông hết lời xin lỗi về việc đã im hơi lặng tiếng quá lâu kể từ bức thư lần trước. Ông dùng những cách diễn đạt cực kỳ lễ phép đến nỗi tôi hầu như cảm thấy chính mình mới là người phải xin lỗi.
Lâu nay tôi vẫn muốn kể cho ông một phần khác trong câu chuyện của tôi, hàng mấy tháng trời tôi cứ định sẽ viết thư cho ông, nhưng có nhiều việc xảy ra khiến tôi không thể ngồi vào bàn cầm lấy bút. Nay, ngoảnh đi ngoảnh lại thấm thoắt đã gần hết năm. Thế mà tôi ngày một già hơn, chẳng biết chết khi nào. Tôi không thể nấn ná việc ấy mãi. E rằng thư này dài, mong rằng không quá dài đối với ông, thưa ông Okada.
Khi đưa kỷ vật của ông Honda cho ông hồi mùa hè năm ngoái, tôi đã kể cho ông nghe một câu chuyện dài về thời gian tôi ở Mông Cổ, nhưng thật ra chuyện còn nhiều nữa, còn có “phần tiếp theo”, có thể nói vậy. Có một vài lí do vì sao tôi không kể luôn phần đó cho ông hồi năm ngoái. Trước tiên, nếu kể hết ra thì sẽ quá dài. Ông chắc còn nhớ, khi đó tôi có vài việc gấp nên không có thì giờ kể hết mọi chuyện với ông. Nhưng có lẽ quan trọng hơn là lúc đó tôi vẫn chưa sẵn sàng về mặt cảm xúc để kể hết phần còn lại của câu chuyện cho bất cứ ai, để kể lại câu chuyện một cách trọn vẹn và trung thực.
Tuy nhiên, sau khi rời khỏi nhà ông, tôi nhận ra rằng lẽ ra không nên để những vấn đề thực tế trước mắt ngăn cản tôi. Lẽ ra tôi phải kể cho ông đến cuối cùng, không che dấu.
Tôi bị dính một viên đạn súng máy trong trận đánh ác liệt vào ngày 13 tháng Tám năm 1945 ở vùng ngoại ô Hailar, và trong khi nằm trên mặt đất, bánh xích một chiếc tăng T34 của Liên Xô đã đè nát bàn tay trái tôi. Họ chuyển tôi lúc đó đã mê man bất tỉnh đến quân y viện Xô Viết ở Chita, ở đó các bác sĩ phẫu thuật đã cứu sống tôi. Như tôi đã nói trước đây, tôi được điều động vào cục Bản đồ quân sự thuộc Bộ tổng tư lệnh quân đội Quan Đông tại Tân Kinh, đơn vị này được chỉ thị ngay khi Liên Xô tuyên chiến với Nhật thì phải lập tức lui về hậu phương. Tuy nhiên, vì đã quyết chết, tôi xin được chuyển sang đơn vị ở Hailar gần biên giới, phơi mình trước pháo, mìn trong tay xông lên tấn công xe tăng Xô Viết. Tuy nhiên, như ông Honda đã tiên đoán lúc ở trên bờ sông Khalkha, tôi không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi đã mất một bàn tay nhưng mất mạng thì không. Tất cả những người dưới quyền tôi lúc đó hẳn đều chết. Có thể chúng tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng đó là một cuộc tấn công ngu xuẩn, tự sát. Những quả mìn cầm tay nhỏ xíu của chúng tôi chẳng làm gì nổi một chiếc T34 to lớn.
Lí do duy nhất để người Liên Xô cứu chữa tôi là khi nằm bất tỉnh tôi đã nói điều gì đó bằng tiếng Nga. Đó là về sau họ bảo tôi vậy. Như tôi có kể với ông, tôi đã học tiếng Nga căn bản. Công việc ở sở chỉ huy tại Tân Kinh cho tôi rất nhiều thời gian rảnh, thế là tôi tận dụng thời gian đó để nâng cao trình độ tiếng Nga. Tôi học rất chăm chỉ, nên tới khi chiến tranh sắp kết thúc thì tôi đã có thể nói tiếng Nga lưu loát. Ở Tân Kinh có nhiều người Bạch Nga sinh sống, tôi lại có quen biết vài cô hầu bàn người Nga, thành thử tôi chẳng bao giờ thiếu dịp thực tập. Hẳn là khi bất tỉnh, tôi đã buột miệng tuôn tiếng Nga ra một cách hoàn toàn tự nhiên.
Quân đội Xô Viết ngay từ đầu đã có kế hoạch đưa về Siberia bất cứ tù binh nào bắt được ở Mãn Châu để cưỡng bức lao động, cũng như họ đã làm với tù binh Đức sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Âu. Người Liên Xô có thể là phe thắng trận, nhưng chiến tranh kéo dài đã khiến nền kinh tế của họ lâm vào khủng hoảng sâu sắc: đâu đâu cũng gặp tình trạng thiếu nhân công. Dùng tù nhân để bù đắp cho sự thiếu hụt nhân lực nam giới trưởng thành được họ coi là nhiệm vụ ưu tiên. Muốn vậy họ cần có thông dịch, mà số lượng thông dịch thì cực kỳ ít ỏi. Khi thấy tôi hình như nói được tiếng Nga, họ liền đưa tôi đến quân y viện ở Chita thay vì để mặc tôi chết. Giá tôi không lắp bắp điều gì đó bằng tiếng Nga thì chắc người ta đã để mặc tôi nằm chết trên bờ sông Hailar rồi. Người ta sẽ chôn tôi vào một nấm mồ không mộ chí, và thế là hết. Số mệnh thật lạ lùng làm sao!
Sau đó người ta tiến hành điều tra gắt gao nhân thân tôi và giáo dục tư tưởng tôi trong vòng mấy tháng rồi đưa tôi đến một mỏ than ở Siberia để làm thông dịch viên. Tôi sẽ bỏ qua các chi tiết về thời kỳ đó, duy về việc giáo dục tư tưởng thì xin được nói điều này. Từ hồi sinh viên trước chiến tranh, tôi đã đọc một vài cuốn sách bị cấm của Marx, cố giấu không cho cảnh sát thấy. Tôi không hẳn là hoàn toàn có ác cảm với chủ nghĩa cộng sản, chỉ có điều tôi đã thấy quá nhiều chuyện nên không thể nào nuốt trôi cái chủ nghĩa đó được. Nhờ công việc của nhóm chúng tôi có quan hệ với bên tình báo nên tôi biết rất rõ Stalin và các chế độ độc tài bù nhìn do ông ta dựng nên đã có những hành vi tàn bạo như thế nào ở Mông Cổ. Ngay sau Cách mạng, hàng vạn nhà tu hành, địa chủ và những người chống đối chế độ đã bị đưa vào trại tập trung, ở đó họ bị sát hại một cách tàn bạo. Chuyện như vậy cũng xảy ra ngay tại Liên Xô. Thậm chí dù tôi có thể tin ở ý thức hệ cộng sản, tôi vẫn không thể nào tin ở những con người hay cái hệ thống đang đảm nhận việc biến cải ý thức hệ và các nguyên lý đó thành thực tế. Tôi cũng cảm thấy vậy đối với những gì người Nhật chúng ta đã làm ở Mãn Châu. Tôi tin chắc ông không thể nào hình dung có bao nhiêu công nhân Trung Hoa đã bị giết trong quá trình xây dựng căn cứ bí mật ở Hailar, giết để bịt miệng họ, để giữ bí mật cho kế hoạch xây dựng căn cứ.
Ngoài ra tôi đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp khi viên sĩ quan Nga cùng các tay chân người Mông Cổ của y lột da một người sống. Tôi đã bị ném xuống một cái giếng ở Mông Cổ, và trong cái ánh sáng kỳ lạ, mãnh liệt đó tôi đã mất hết niềm ham sống. Làm sao một người như tôi có thể tin vào ý thức hệ và chính trị được?
Tôi làm thông dịch, tức làm trung gian liên lạc giữa các tù binh Nhật làm việc tại mỏ với những người Liên Xô giam giữ họ. Tôi không biết ở những trại tập trung Siberia khác thì sao, nhưng ở mỏ than nơi tôi làm việc, ngày nào cũng có người chết: đói ăn, làm quá sức, sập hầm, chết đuối khi hầm bị ngập nước, điều kiện vệ sinh tồi tệ khiến bệnh dịch tràn lan; cái lạnh mùa đông khủng khiếp đến không thể tin được; những cai tù hung hãn, chỉ một kháng cự nhỏ nhất là đàn áp tàn bạo. Có cả những trường hợp người Nhật bị hành hình tập thể 1 bởi chính người Nhật, đồng bào của mình. Trong hoàn cảnh đó, người ta chỉ có thể thù ghét, nghi kỵ nhau, sợ hãi và tuyệt vọng.
Mỗi khi số người chết tăng đến mức lực lượng lao động sụt giảm, người ta lại đưa đến hàng đoàn tàu chật ních những tù binh chiến tranh mới. Họ ăn mặc rách rưới, kiệt quệ vì đói khát, một phần lớn sẽ chết trong vòng vài tuần đầu vì không chịu nổi điều kiện khắc nghiệt ở mỏ. Những người chết bị ném vào các hầm lò bỏ không. Không thể đào hố chôn tất cả được. Đất đóng băng quanh năm, cứng ngắc, xẻng không làm mẻ được. Vì vậy các hầm lò bỏ không là nơi lí tưởng để thanh lí xác chết. Chúng vừa sâu vừa tối, và do khí hậu lạnh nên không bốc mùi. Lâu lâu chúng tôi lại phủ một lớp than lên đống xác. Khi một hầm lò đã đầy xác, người ta lấy đất đá bịt kín lại rồi chuyển sang hầm khác.
Không chỉ người chết mới bị ném xuống hầm lò. Đôi khi cả người sống cũng bị ném xuống, để dạy những người còn lại một bài học. Bất cứ người lính Nhật nào có dấu hiệu phản kháng đều bị lính canh Liên Xô bắt đi, đánh thừa sống thiếu chết, bẻ chân tay rồi ném xuống đáy hố đen kịt. Đến giờ tai tôi vẫn còn nghe những tiếng thét thảm thiết đó. Thật là địa ngục trần gian.
Mỏ này được coi là một cơ sở có tầm quan trọng chiến lược, do các phái viên Trung ương Đảng cử xuống điều hành, được quân đội canh gác vô cùng cẩn mật. Nhân vật cao cấp nhất nghe nói là đồng hương với Stalin, một cán bộ đảng còn trẻ đầy tham vọng, nghiệt ngã và lạnh lùng. Mối quan tâm duy nhất của y là nâng cao sản lượng. Việc tiêu hao nhân lực chẳng là gì đối với y. Chỉ cần sản lượng tăng, Trung ương Đảng sẽ công nhận mỏ của y là gương mẫu và thưởng bằng cách bổ sung nhân lực cho y nhiều hơn nơi khác. Thành thử bao nhiêu nhân công bỏ mạng là lập tức có bấy nhiêu người thay thế. Để tăng sản lượng, y cho phép đào cả những vỉa mà nếu trong hoàn cảnh bình thường thì sẽ bị coi là quá nguy hiểm. Đương nhiên là số tai nạn ngày càng tăng, nhưng y không quan tâm.
Tay giám đốc không phải là kẻ nhẫn tâm duy nhất cai quản cái mỏ này. Hầu hết cai tù trong mỏ vốn là tội phạm, vô giáo dục, hung bạo và tàn độc khủng khiếp. Ở họ hoàn toàn không thấy có chút gì là cảm thông hay tình thương, dường như vì đã sống bao nhiêu năm ở chốn tận cùng trái đất này, họ đã bị cái lạnh tàn nghiệt vùng Siberia biến thành những sinh vật dưới mức người. Phạm tội phải ngồi tù ở Siberia quá lâu, đến khi mãn hạn họ không còn nhà cửa hay gia đình nào để quay về. Họ lấy người địa phương, sinh con đẻ cái và cắm rễ vào mảnh đất Siberia.