Bạn đang đọc Biên niên ký Chim vặn dây cót: Chương 12( part 02)
Nói xong, y lên ngựa cùng với người Mông Cổ ruổi về phía Tây.
Dựng trại xong, ba chúng tôi dùng bữa tối đạm bạc. Chúng tôi không thể nấu nướng hay đốt lửa. Thảo nguyên mênh mông này nhìn đâu cũng chỉ thấy rặt những gò cát thấp, không có một cái gì che chắn chúng tôi, nên chỉ cần một làn khói nhỏ cũng đủ để chúng tôi bị tóm cổ lập tức. Chúng tôi dựng lều thấp dưới các đụn cát, chỉ ăn bánh quy khô và thịt hộp nguội. Khi mặt trời đã lặng dưới chân trời, bóng tối nhanh chóng trùm lên chúng tôi, bầu trời nhiều sao đến mức khó tin. Xa xa có tiếng sói tru lẫn trong tiếng gầm gào của dòng sông Khalkha. Chúng tôi nằm dài trên cát nghỉ ngơi sau một ngày kiệt lực.
Trung sĩ Hamano bảo tôi:
– Xem ra chúng ta đặt chân vào hiểm địa rồi đây, trung úy à.
Tôi đành phải đồng ý với anh ta. Cho tới khi đó, ba chúng tôi – trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda và tôi – đã khá hiểu nhau. Thói thường, một hạ sĩ quan dày dạn súng đạn như hạ sĩ Hamano sẽ giữ thái độ xa cách và khinh khỉnh đối với một sĩ quan trẻ non nớt như tôi, nhưng trường hợp chúng tôi thì khác. Anh ta tôn trọng tôi vì tôi có học vấn, đã tốt nghiệp một trường không phải là trường nhà binh, tôi thì thực lòng quan tâm đến kinh nghiệm trận mạc và óc phán xét đầy thực tiễn của anh ta mà không coi trọng chuyện cấp bậc. Chúng tôi còn dễ nói chuyện với nhau bởi anh ta quê ở Yamaguchi còn tôi ở Hiroshima, không xa Yamaguchi. Anh ta kể tôi nghe về cuộc chiến ở Trung Hoa. Anh ta là người lính từ đầu đến chân, học vấn võ vẽ hết cấp tiểu học, nhưng anh ta cũng có nỗi hoài nghi về cái cuộc chiến trần ai tưởng như không bao giờ dứt này ở đại lục. Anh ta bộc bạch với tôi.
– Tôi không nề hà chuyện đánh nhau. Tôi là người lính. Tôi sẵn sàng chết trên chiến trường vì tổ quốc, bởi vì đó là việc của tôi. Nhưng cái cuộc chiến mà chúng ta đang lâm vào ấy, trung úy à, nó không chính đáng đâu. Nó không phải là cuộc chiến thật, không có chiến tuyến nơi ta giáp mặt quân địch mà đánh tới nơi tới chốn. Chúng ta tiến, còn địch thì rút lui không đánh. Rồi lính Trung Hoa họ cởi hết quân phục mà trà trộn vào dân thường, thế là chúng ta chẳng còn biết kẻ thù là ai nữa. Vậy nên chúng ta giết nhiều người vô tội với cái cớ là tiêu diệt “bọn nổi loạn” hay “đám tàn quân” và tịch thu thực phẩm. Chúng ta buộc phải cướp đồ ăn của họ vì chiến tuyến di chuyển quá nhanh nên hậu cần của ta không theo kịp. Và ta buộc phải giết tù binh vì không biết giam chúng ở đâu hay lấy gì cho chúng ăn. Thế là sai, trung úy ạ. Chúng ta đã làm những chuyện kinh khủng ở Nam Kinh. Chính đơn vị tôi làm. Chúng tôi quẳng hàng tá người xuống giếng rồi ném lựu đạn xuống theo. Có những chuyện chính mình đã làm mà bây giờ không sao mở miệng nói ra được. Trung úy ạ, tôi nói với anh rằng đây là một cuộc chiến hoàn toàn không có Lý do Chính đáng nào hết. Chỉ là hai bên giết nhau thôi. Những người chịu chết chóc đau thương hóa ra toàn là đám nông dân nghèo khổ, họ thì có biết chính trị hay ý thức hệ là cái gì đâu. Với họ thì chả có Quốc dân đảng, chả có Thống chế Trương2, chả có Bát lộ quân nào hết. Có cái ăn là họ hạnh phúc rồi. Tôi biết cảm nghĩ họ ra sao, vì chính tôi là con một ngư dân nghèo. Những người thấp cổ bé họng làm quần quật từ sáng đến tối cũng chỉ vừa đủ cầm xác. Tôi không tin, giết những người như vậy mà hoàn toàn không có lý do gì hết thì liệu có tốt lành gì cho nước Nhật.
Khác với trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda chẳng có gì nhiều để nói về mình. Nói chung, anh ta là một tay ít nói. Anh ta thường im lặng nghe chúng tôi nói chuyện mà không chêm nhận xét của mình vào. Nhưng bảo rằng anh ta “ít nói” vậy thôi, chứ thật ra anh ta không phải là loại người bản tính lầm lì khó chịu hay rầu rĩ. Chỉ là anh ta ít khi tự mở miệng. Thực sự là điều đó khiến tôi thỉnh thoảng lại tò mò không biết anh ta đang nghĩ gì, nhưng anh ta hoàn toàn không phải là kẻ khó gần. Thậm chí, chính phong thái bình thản của anh ta nhiều khi lại làm người khác thấy nhẹ lòng. Anh ta quả thật là điềm tĩnh. Dù chuyện gì xảy ra đi nữa, anh ta không hề đổi sắc mặt. Tôi được biết anh ta quê ở Asahikawa, ở đó cha anh ta có một nhà in nhỏ. Anh ta kém tôi hai tuổi. Sau khi học xong, anh ta cùng các anh trai làm việc cho nhà in của cha. Anh ta là em út trong ba anh em, người anh cả thì đã bị giết ở Trung Hoa hai năm về trước. Anh ta thích đọc sách, hễ rảnh được phút nào là y như rằng tôi thấy anh ta cuộn tròn một góc mà đọc cuốn sách nào đó về đề tài Phật giáo.
Như tôi đã nói, Honda hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu thực tế, nhưng dù chỉ mới được huấn luyện một năm, anh ta đã là một người lính kiệt xuất. Trong mỗi trung đội luôn luôn có một hai người như vậy, những người luôn luôn nhẫn nại, bền gan, thực hiện đến cùng nghĩa vụ của mình không một lời ta thán. Thể chất khỏe mạnh, phản xạ tuyệt hảo, họ hiểu ngay lập tức những gì được chỉ bảo và áp dụng chính xác vào thực tế. Honda là một người như vậy. Và do được đào tạo về kỵ binh nên anh ta là người biết rõ nhất về loài ngựa; anh ta lãnh phần chăm sóc cả sáu con mà chúng tôi mang theo. Đôi khi chúng tôi cảm thấy dường như anh ta hiểu tâm trạng lũ ngựa đến từng chân tơ kẻ tóc. Trung sĩ Hamano thừa nhận ngay khả năng của hạ sĩ Honda và giao phó cho anh ta ngần ấy việc mà không chút băn khoăn.
Vậy nên tuy đơn vị chúng tôi khác thường, chắp vá là vậy nhưng chúng tôi hết sức hiểu nhau. Và chính bởi không phải là một đơn vị bình thường nên chúng tôi không hề câu nệ những thứ quy tắc nhà binh theo sách vở. Chúng tôi rất thoải mái, cởi mở với nhau, gần như là Nghiệp quả đã đưa chúng tôi đến với nhau vậy. Chính vì thế trung sĩ Hamano mới có thể nói thẳng với tôi những gì vượt ngoài cái khuôn phép bất di bất dịch giữa sĩ quan với hạ sĩ.
– Trung úy này, – có lần anh ta hỏi, – ông nghĩ thế nào về tay Yamamoto kia?
– Tôi dám đánh cuộc là mật vụ, – tôi nói. – Nếu không phải chuyên gia thì làm sao nói tiếng Mông Cổ như thế được. Lại còn thông thạo vùng này như lòng bàn tay nữa.
– Tôi cũng nghĩ như vậy. Ban đầu tôi cứ nghĩ hắn là một trong những bọn đạo tặc chuyên cưỡi ngựa thông đồng với đám sĩ quan chóp bu, nhưng hóa ra không phải. Lũ ấy tôi còn lạ gì. Chúng nó đã mở mồm là nói rạc tai, mười phần hết năm phần là bịa. Rút súng thì nhanh như chớp. Nhưng tay Yamamoto này thì không phải hạng xoàng. Hắn là tay tổ đấy. Sĩ quan cao cấp, rất cao nữa là khác. Chuyện ấy thì đứng xa một dặm tôi cũng ngửi ra. Tôi nghe nói quân ta muốn kết hợp đơn vị tác chiến bí mật nào đó với những người Mông Cổ thuộc quân đội do Liên Xô đào tạo, và người ta đã đưa sang một số chuyên viên mật vụ để lo chiến dịch này. Có thể Yamamoto có liên quan đến vụ này.
Hạ sĩ Honda đang cầm súng đứng canh ở cách chúng tôi một quãng. Tôi đặt khẩu Browning ngay bên cạnh để có thể chộp lấy bất cứ lúc nào. Trung sĩ Hamano đã tháo ghệt ra và đang xoa bó chân.
– Dĩ nhiên là tôi chỉ đoán thế thôi, – anh ta nói thêm. – Gã Mông Cổ mà chúng ta gặp có thể là một sĩ quan quân đội Mông Cổ đang chống người Liên Xô và cố tiếp xúc bí mật với quân đội Nhật.
– Cũng có thể, – tôi nói. – Nhưng anh nhớ giữ mồm giữ miệng, kẻo người ta chặt đầu đấy.
– Nào, nào, trung úy, tôi đâu có ngu thế. Chuyện này chỉ giữa hai chúng ta thôi, – anh ta nhe răng cười với tôi, rồi trở nên nghiêm trang. – Nhưng nếu đúng vậy thật thì nguy hiểm lắm. Khéo mà chiến tranh như chơi.
Tôi gật đầu đồng tình. Ngoại Mông về hình thức là một nước độc lập, nhưng thực chất là một xứ vệ tinh của Liên Xô. Theo nghĩa đó thì nó chẳng khác là bao so với Mãn Châu quốc, nơi quyền hành thực sự nằm trong tay người Nhật. Nhưng ai cũng biết, ở Ngoại Mông có một nhóm chống Liên Xô, nhóm này đã bí mật liên hệ với quân đội Nhật ở Mãn Châu quốc, các thành viên nhóm này đã dấy lên nhiều cuộc nổi loạn. Hạt nhân của thành phần nổi loạn này là các quân nhân Mông Cổ bất mãn với sự chuyên quyền của quân đội Xô Viết, tầng lớp địa chủ chống lại chính sách tập trung hóa cưỡng bức trong nông nghiệp và các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng – số này có tới hàng trăm người. Thế lực nước ngoài duy nhất mà nhóm chống Liên Xô này có thể xin trợ giúp là quân đội Nhật đang đóng quân tại Mãn Châu quốc. Vả lại so với người Nga thì rõ ràng người Nhật chúng ta gần gũi họ hơn bởi đều là người châu Á, đồng chủng da vàng. Một năm trước đó, 1937, một kế hoạch nổi dậy quy mô lớn ở thủ đô Ulan Bator đã bị lộ, hậu quả là xảy ra những cuộc thanh trừng quy mô lớn. Hàng ngàn quân nhân và tu sĩ Phật giáo bị hành hình như những phần tử phản cách mạng cấu kết với quân đội Nhật, nhưng tâm trạng chống Nhật vẫn cứ âm ỉ nơi này nơi khác. Thành thử nếu có một sĩ quan tình báo Nhật vượt sông Khalkha để bắt liên lạc với một sĩ quan chống Liên Xô thuộc quân đội Ngoại Mông thì cũng chẳng có gì lạ. Để ngăn chặn việc đó, quân đội Ngoại Mông đã cử các đơn vị tuần tra thường xuyên đi tuần và tuyên bố toàn bộ dải lãnh thổ cách biên giới Mãn Châu quốc từ mười tới mười hai cây số là vùng cấm. Tuy nhiên vùng này quá rộng nên dẫu có tuần tra cũng không thể nào để mắt tới từng li từng tí một.
Cho dù cuộc nổi dậy của họ có thành công đi nữa, chắc chắn quân đội Liên Xô sẽ lập tức can thiệp để bóp chết hoạt động phản cách mạng của họ. Nếu điều đó xảy ra, những người nổi dậy sẽ yêu cầu quân đội Nhật giúp đỡ, đó sẽ là cái cớ để đạo quân Quan Đông của Nhật can thiệp. Chiếm Ngoại Mông thì chẳng khác nào thọc dao vào mạng sườn của Liên Xô ở Siberia. Bộ tổng tham mưu ở Tokyo hẳn sẽ cố kiềm chế cơn hăng đó, nhưng đây là một cơ hội mà bộ tham mưu đạo quân Quan Đông vốn đầy tham vọng chẳng dễ gì bỏ qua. Hậu quả sẽ không chỉ là xung đột biên giới mà là chiến tranh tổng lực giữa Liên Xô và Nhật. Nếu một cuộc chiến như vậy xảy ra trên vùng biên giới Mãn Châu – Liên Xô, Hitler có thể đáp trả bằng cách chiếm Ba Lan hay Tiệp Khắc. Đó chính là tình huống mà hạ sĩ Hamano đã nói khi nhận xét về khả năng xảy ra chiến tranh.
Sáng hôm sau, mặt trời đã mọc mà Yamamoto vẫn chưa trở về. Tôi là người cuối cùng canh gác. Tôi mượn súng trường của trung sĩ Hamano, ngồi trên một đụn cát có phần cao hơn mà ngắm bầu trời phía Đông. Bình minh ở Mông Cổ là một điều kỳ diệu. Chỉ trong khoảnh khắc, chân trời trở thành một dải sáng mờ treo trong bóng tối, rồi cái dải sáng ấy dâng lên, mỗi lúc một cao hơn. Dường như có một bàn tay vĩ đại tự trên trời vươn xuống chầm chậm kéo tấm màn đêm ra khỏi mặt đất. Cảnh tượng đó thật kỳ vĩ, một cảnh tượng mà, như tôi đã nói, lớn lao hơn rất nhiều so với tất cả những gì tôi có thể lĩnh hội được với những giác quan hạn hẹp của con người. Tôi ngồi đó ngắm nhìn, trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác rằng chính sự sống của tôi đang dần dần tiêu biến thành hư vô. Ở cõi hư vô đó không có dấu vết gì của những thứ vô nghĩa như những việc làm nhỏ nhặt của con người. Cũng một cảnh tượng này từng xảy ra hàng triệu lần, hàng trăm triệu lần, từ thời thái cổ, từ rất lâu trước khi tồn tại bất cứ thứ gì gọi là sự sống trên trái đất. Quên khuấy rằng mình đang đứng gác, tôi như bị thôi miên, ngắm mãi cảnh bình minh của một ngày mới.
Sau khi mặt trời đã hiện rõ phía trên chân trời, tôi châm điếu thuốc, nhấp một ngụm nước trong biđông và đi tiểu. Rồi tôi nghĩ về nước Nhật. Tôi hình dung thành phố quê hương vào đầu tháng Năm – hương hoa, tiếng rì rào của dòng sông, những đám mây trên bầu trời. Bạn cũ. Gia đình. Vị ngọt của chiếc bánh gạo nong nóng gói trong lá sồi. Tôi vốn không ưa của ngọt, nhưng sao sáng hôm đó tôi thèm một cái bánh mochi đến chết được. Giá như khi đó có thể trả nửa năm lương sĩ quan để mua một cái thì tôi cũng mua. Và khi nghĩ đến nước Nhật, tôi đâm ra cảm thấy mình đã bị bỏ rơi ở bên lề thế giới. Tại sao chúng tôi phải liều mạng chiến đấu cho cái mảnh đất trơ trụi không có chút giá trị về quân sự hay công nghiệp này, cái vùng đất nơi không gì sống được ngoài cỏ dại và trùng độc này? Tôi, tôi cũng sẵn sàng chiến đấu và chết để bảo vệ quê hương. Nhưng hy sinh mạng sống chỉ có một này cho cái rẻo đất hoang vu nơi không thứ hạt nào có thể nảy mầm thì thật quá vô nghĩa.
° ° °
Sáng tinh mơ ngày hôm sau thì Yamamoto trở về. Lúc ấy tôi cũng là người cuối cùng đứng gác. Tôi đang đứng xoay lưng lại dòng sông, mắt dõi về phía Tây thì nghe một âm thanh như tiếng ngựa hí ở đằng sau. Tôi quay lại nhưng chẳng thấy gì. Tôi nhìn chăm chăm về phía âm thanh đó phát ra, trong tư thế sẵng sàng nổ súng. Tôi nuốt nước bọt, cái âm thanh từ trong chính cổ họng mình to đến nỗi tôi rùng mình. Ngón tay đặt lên cò súng của tôi run run. Từ trước đến nay tôi chưa từng phải bắn ai cả.
Chỉ mấy giây sau, một con ngựa lảo đảo đi qua triền cong một đụn cát, trên lưng nó là Yamamoto. Tôi nhìn quanh, ngón tay đặt trên cò súng, nhưng không còn ai khác xuất hiện – gã Mông Cổ không, quân địch cũng không. Vầng trăng to tướng trắng bệch treo trên nền trời phía Đông như một tảng đá mang điềm gở. Tay trái của Yamamoto hình như bị thương. Chiếc khăn mùi xoa hắn dùng buộc quanh cánh tay bê bết máu. Tôi đánh thức hạ sĩ Honda dậy trông nom con ngựa. Rõ ràng con vật đã phải phi nước đại suốt một quãng đường dài, nó thở hổn hển, toàn thân đầm đìa mồ hôi. Hamano gác thay tôi, còn tôi lo sơ cứu vết thương cho Yamamoto.
– Đạn chỉ sượt qua thôi, máu ngừng chảy rồi, – Yamamoto bảo. Y nói đúng: viên đạn chỉ xé rách thịt mà không phạm vào xương. Tôi tháo chiếc khăn mùi xoa ra, dùng cồn sát trùng miệng vết thương rồi băng lại. Trong suốt thời gian đó Yamamoto thậm chí không nhíu mày, duy có môi trên y đọng một lớp mồ hôi mỏng. Y uống ừng ực nước trong biđông, đốt một điếu thuốc và rít với vẻ khoan khoái ra mặt. Đoạn y rút khẩu Browning ra, kẹp dưới nách, tháo băng đạn và khéo léo dùng một tay nạp ba viên đạn vào.
– Này, Trung úy Mamiya, chúng ta rời khỏi đây ngay. Vượt sông đi về phía chốt quan sát của quân đội Mãn Châu quốc.
Chúng tôi nhanh chóng dỡ trại, hầu như không nói một lời, lên ngựa ruổi về phía chỗ vượt sông. Tôi không hỏi Yamamoto xem chuyện gì đã xảy ra với y, ai đã bắn y. Vị trí của tôi không cho phép, nhưng thậm chí dù tôi có quyền hỏi đi nữa, vị tất y đã trả lời. Ý nghĩ duy nhất của tôi lúc đó là làm sao đi khỏi lãnh địa của kẻ thù càng sớm càng tốt, vượt sông Khalkha sang bờ bên kia nơi tương đối an toàn.
Chúng tôi lầm lũi đi, thúc ngựa qua bình nguyên đầy cỏ. Không ai nói năng gì, nhưng tất cả đều nghĩ cùng một điều: liệu chúng tôi có thể vượt sông hay không? Nếu một toán tuần tiễu Mông Cổ đã tới chỗ cây cầu trước chúng tôi thì mạng chúng tôi coi như xong. Nếu đánh nhau thì chẳng có cách nào chúng tôi thắng được. Tôi nhớ khi đó mồ hôi chảy ròng ròng dưới hai cánh tay tôi, mãi không khô.
– Này Trung úy Mamiya, anh đã bắn bao giờ chưa? – Sau một hồi im lặng, Yamamoto hỏi tôi.
– Chưa bao giờ, – tôi đáp.
– Anh đã bắn ai bao giờ chưa?
– Chưa bao giờ, – tôi lại đáp.
Tôi chịu không biết những câu trả lời của tôi gây ấn tượng thế nào với y, cũng không biết y hỏi vậy có mục đích gì.
– Trong này có một tài liệu cần chuyển cho ban tham mưu, – y vừa nói vừa đặt tay lên túi yên ngựa. – Nếu không chuyển được thì phải hủy đi – đốt cũng được, chôn cũng được, nhưng dù trong hoàn cảnh nào cũng không được phép rơi vào tay địch. Không được phép, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó là ưu tiên số một của chúng ta. Tôi muốn anh hiểu rõ điều đó. Quan trọng lắm, hết sức quan trọng.
– Tôi hiểu, – tôi nói.
Yamamoto nhìn thẳng vào mắt tôi.
– Nếu rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, việc đầu tiên anh phải làm là bắn tôi. Không được chần chừ. Nếu tự làm được thì tôi đã làm. Nhưng tay tôi bị thế này thì tôi không làm được. Trong trường hợp đó, anh phải bắn tôi. Mà đã bắn là phải chắc chết.
Tôi lẳng lặng gật đầu.
° ° °
Khi chúng tôi đến chỗ vượt sông ngay trước khi mặt trời mọc, nỗi sợ đã dày vò tôi trên suốt đường đi tỏ ra hoàn toàn có cơ sở. Một toán nhỏ quân Mông Cổ đã triển khai ở đó. Yamamoto và tôi leo lên một đụn cát cao, chuyền nhau ông nhòm để quan sát bọn họ. Có tám người tất cả, không đông lắm, nhưng so với một toán tuần tra biên giới thì nhóm này được trang bị quá nhiều. Một người mang súng máy nhẹ, lại còn một súng máy hạng nặng đặt trên một mô đất cao, chung quanh chất bao cát, nòng hướng về phía đông. Hiển nhiên là họ bố trí ở đây để ngăn không cho chúng tôi băng sang bờ bên kia. Họ đã neo lều bên bờ sông và buộc mười con ngựa ở gần đó. Xem ra họ sẽ lưu lại đây cho tới khi nào tóm được chúng tôi mới thôi.
– Liệu ta có thể dùng chỗ cạn nào khác để vượt không? – tôi hỏi.
Yamamoto rời mắt khỏi ống nhòm nhìn tôi mà lắc đầu.
– Có, nhưng rất xa. Đi ngựa phải mất hai ngày. Ta không có nhiều thời gian như thế đâu. Ta chỉ có thể vượt sông ở đây, bằng bất cứ giá nào.
– Nghĩa là ta sẽ vượt sông vào ban đêm?
– Đúng. Đó là cách duy nhất. Ta để ngựa lại đây. Ta sẽ thanh toán tên lính gác, bọn còn lại thì hẳn đang ngủ say. Đừng lo, dòng sông sẽ ỉm đi hầu hết tiếng động. Tôi sẽ lo phần tên gác. Từ giờ đến đó ta chẳng có gì làm cả, nên tốt nhất là đi ngủ, tranh thủ chút cơ hội mà nghỉ ngơi.
Chúng tôi ấn định chiến dịch vượt sông sẽ diễn ra lúc ba giờ sáng. Hạ sĩ Honda dỡ hết hành trang khỏi lưng ngựa, dẫn ngựa đến một chỗ xa rồi thả chúng ra. Chúng tôi đào một cái hố sâu, chôn xuống đó chỗ đạn dược và thức ăn thừa. Mỗi người chỉ còn mang một biđông nước, phần ăn đủ một ngày, một khẩu súng, vài viên đạn. Nếu trạm trán quân Mông Cổ thì với hỏa lực vượt trội của bọn họ chúng tôi không cách gì thắng được dù có nhiều đạn đến mấy. Tạm thời thì chúng tôi cố ngủ được chút nào hay chút ấy, bởi khi đã vượt sông thì chắc hẳn sẽ không còn thì giờ đâu mà ngủ nữa. Hạ sĩ Honda gác đầu tiên, kế đó trung sĩ Hamano sẽ thay.
Duỗi dài trong lều, Yamamoto thiếp đi ngay lập tức. Xem ra đã suốt một thời gian dài y không hề chợp mắt. Cạnh gối y là một chiếc vali da, y đã cất tài liệu bí mật vào trong đó. Chúng tôi ai cũng kiệt sức, nhưng tôi căng thẳng quá nên không ngủ được. Tôi nằm đó hồi lâu, buồn ngủ đến chết được nhưng vẫn thức chong chong, trong đầu cứ hình dung cảnh chúng tôi giết tên lính gác và bị khẩu súng máy nã đạn như vãi trấu khi vượt sông. Hai lòng bàn tay tôi nhớp nháp mồ hôi, thái dương tôi giần giật. Tôi chẳng biết liệu đến khi đó mình có khả năng hành xử cho đáng mặt sĩ quan không. Tôi bò ra khỏi lều, đến ngồi cạnh hạ sĩ Honda đang ngồi gác.
– Honda này, anh biết đó, chúng ta đến chết cả nút ở đây thôi.
– Khó mà nói được, – anh ta đáp.
Chúng tôi ngồi một lát, không ai nói gì. Nhưng có cái gì đó trong câu trả lời của anh ta khiến tôi băn khoăn – có một giọng điệu nào đó hàm ý biết chắc chắn. Linh cảm vốn không phải là thế mạnh của tôi, nhưng tôi biết câu nhận xét mơ hồ của anh ta có ý che giấu điều gì đó. Tôi quyết định gặng hỏi anh ta.
– Nếu anh có gì để nói với tôi thì đừng giữa kín nữa, – tôi bảo. – Đây có thể là lần cuối cùng chúng ta trò chuyện với nhau, có thể nói vậy.
Honda cắn môi, vuốt vuốt lên chỗ cát dưới chân. Tôi biết anh ta đang vật lộn với những tình cảm mâu thuẫn nhau.
– Trung úy ạ, – lát sau anh ta nói. Anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi, – Trong bốn chúng ta, trung úy sẽ là người sống lâu nhất, lâu hơn trung úy tưởng nhiều. Trung úy sẽ chết ở Nhật.
Giờ đến lượt tôi nhìn anh ta. Anh ta nói tiếp:
– Hẳn trung úy đang tự hỏi làm sao tôi biết, nhưng điều đó thì chính tôi cũng không giải thích được. Tôi biết, thế thôi.
– Anh có khả năng ngoại cảm à?
– Có thể, có điều cái ấy không chính xác lắm với những gì tôi cảm nhận được. Nó hơi quá to tát. Như tôi vừa nói, tôi biết, chỉ có thế thôi.
– Xưa nay anh có luôn cảm thấy như thế không?
– Luôn luôn, – anh ta đáp rành mạch. – Nhưng tôi giấu mãi không cho ai biết, cho tới khi đủ lớn để hiểu đó là cái gì. Nhưng đây là chuyện sinh tử, trung úy ạ, và bởi tự trung úy hỏi nên tôi mới kể thật với trung úy.
– Còn những người khác thì sao? Anh có biết những người khác thì chuyện gì sẽ xảy ra với họ không?
Anh ta lắc đầu.
– Có điều tôi biết, có điều không. Nhưng có lẽ trung úy không biết thì hơn, trung úy ạ. Kẻ như tôi mà lại đi nói chuyện to tát thế này với người có học như trung úy thì có lẽ hơi hồ đồ, nhưng vận mệnh con người, ta chỉ có thể ngoái nhìn khi nó đã đi qua chứ không thể nhìn trước được. Tôi có ít nhiều kinh nghiệm về những chuyện như vậy, còn trung úy thì không.
– Dù sao thì, như anh nói, tôi sẽ không chết ở đây sao?
Anh ta vốc đầy cát vào bàn tay rồi để cát trôi đi qua những kẽ ngón tay.
– Chuyện đó thì tôi nói được, trung úy ạ. Trung úy sẽ không chết trên đại lục này đâu.
Tôi còn muốn hỏi nữa về chuyện đó, nhưng hạ sĩ Honda không chịu tiết lộ thêm. Dường như anh ta đắm vào những suy tư hay chiêm nghiệm của mình. Súng cầm tay, anh ta nhìn đăm đăm ra thảo nguyên mênh mông. Anh ta như không nghe thấy những gì tôi nói nữa.
Tôi trở lại chỗ cái lều buộc thấp dưới bóng một đụn cát, nằm xuống cạnh trung sĩ Hamano, nhắm mắt lại. Lần này giấc ngủ đến ngay lập tức, một giấc ngủ sâu hoắm như thể nắm gót chân tôi mà lôi tuột xuống đáy biển.
——————————– 1 Hay “sự cố Lư Cầu Kiều”, cuộc đụng độ vũ trang xảy ra ngày 7/7/1937 giữa quân đội Nhật và quân đội Trung Hoa gần Bắc Kinh, dẫn đến chiến tranh giữa hai nước – BTN. 2 Tức Trương Học Lương, nhân vật lịch sử Trung Quốc, thuộc tướng của Tưởng Giới Thạch, từng là sứ quân cát cứ tại Mãn Châu nhưng về sau để mất vùng này vào tay Nhật. Tháng 12 năm 1936, Trương cùng tướng Dương Hổ Thành tiến hành vụ “bắt cóc” Tưởng Giới Thạch nhằm gây áp lực buộc Tưởng phải hợp tác với lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhật.