Bến Xe

Chương 7


Đọc truyện Bến Xe – Chương 7

Năm lớp 12 đáng sợ cuối cùng cũng tới.

Bất kể bọn trẻ vừa tham gia “nghi thức trở thành người lớn” có muốn hay không, chúng đều phải chấp nhận cuộc thử thách đầu tiên sau khi “trở thành người lớn”, đó là kỳ thi đại học. Mà phương thức chấp nhận, chính là miệt mài vùi đầu vào sách vở, học, học và học theo kiểu nhồi vịt.

Trường đại học mở rộng cửa chào đón, nhưng trong mười học sinh chỉ một người có thể tiến vào bên trong. Để khiến bản thân vượt trội trong thiên binh vạn mã, trở thành một phần tử vượt qua “cầu độc mộc”, mỗi học sinh đều cố gắng hết sức, ngày đêm học tập không ngừng nghỉ. Hơn nữa, bọn họ còn âm thầm đọ sức, chỉ sợ bạn học khác chăm chỉ hơn mình, một ngày nào đó sẽ vượt qua bản thân. Thế giới này vốn là một vũ đài cạnh tranh quyết liệt, chỗ nào cũng tranh giành cấu xé lẫn nhau. Chỉ là kẻ mạnh, bạn mới có cơ hội giành chiến thắng, kẻ yếu sẽ bị đào thải. Đây là quy tắc bất biến của nhân loại từ thời xa xưa.

Nhà trường tăng thêm giờ tự học buổi tối, bắt đầu lúc 6 giờ tối, mỗi ngày hai tiết. Tiết thứ nhất thầy giáo giảng bài, tiết thứ hai làm bài kiểm tra hoặc tự do ôn tập. Không một ai than vãn, vì đây là chuyện sớm muộn, nếu không tổ chức giờ tự học buổi tối, ngược lại sẽ có không ít phụ huynh kêu ca nhà trường.

Liễu Địch và thầy Chương tất nhiên cũng bị cuốn vào cơn lốc tự học. Lúc đầu, nhà trường sợ thầy Chương không gánh nổi nhiệm vụ dạy học nặng nề, có ý định đổi giáo viên ngữ văn khác cho lớp Liễu Địch. Nào ngờ ý định này bị học sinh phản đối kịch liệt. Cả lớp ký tên vào thư đề nghị, để Liễu Địch nộp cho hiệu trưởng Cao và cô chủ nhiệm. Với tư cách người đại diện lớp 12 (1), Liễu Địch chỉ nói một câu: “Thầy Chương gặp khó khăn trong công việc, em có thể gánh vác giúp thầy, ở bên cạnh thầy, không người nào có thể thay thế vị trí của em. Trong lòng chúng em, cũng không ai có thể thay thế vị trí của thầy Chương.”

Hiệu trưởng Cao nghe xong, thở một hơi dài. Ông vuốt tóc Liễu Địch, cất giọng hiền từ xen lẫn lo lắng: “Cô bé, thầy không thể tưởng tượng, sau khi em tốt nghiệp, thầy Chương sẽ thế nào?”

Liễu Địch ngẩn người. Sau khi cô tốt nghiệp, ai sẽ chăm sóc thầy Chương, ai sẽ giúp đỡ thầy? Nhưng tốt nghiệp là chuyện của năm sau. Việc cần làm nhất bây giờ là giữ thầy Chương ở bên cạnh cô.

Cuối cùng, lớp Liễu Địch cũng thuyết phục được nhà trường, thầy Chương vẫn tiếp tục dạy môn ngữ văn. Tuy nhiên, gánh nặng trên đôi vai Liễu Địch càng trở nên nặng nề.

Năm giờ chiều trường tan học, Liễu Địch vẫn đến văn phòng của thầy Chương như thường lệ. Nếu buổi tối không có tiết của thầy, cô sẽ tiễn thầy ra trạm xe buýt. Nếu thầy phải dạy thêm vào buổi tối, Liễu Địch sẽ ở văn phòng giúp thầy sửa bài thi, hoặc chép đáp án đề ôn tập. Tiết học đầu tiên của buổi tối kết thúc vào lúc bảy giờ rưỡi. Lúc đó không còn xe buýt, vì vậy thầy Chương quyết định ngủ lại văn phòng. Hai chiếc ghế ghép lại thành một cái giường nhỏ; áo khoác quân đội trở thành chăn bông; một miếng bánh mỳ hoặc túi mỳ ăn liền chính là bữa tối. Thiết bị sưởi ấm của tòa nhà phía Bắc không tốt, Liễu Địch liền mang quạt sưởi ấm từ nhà đến văn phòng cho thầy Chương. Thầy Chương đón nhận, không nói một câu “cám ơn”.

Năm mới lặng lẽ đến gần trong sự bận rộn ngày đêm của thầy trò. Vào ngày 31 tháng 12, ngay từ lúc sáng sớm đã có tuyết rơi. Hoa tuyết dày đặc bay trong không trung, chỉ một lúc sau nhuộm trắng cả mặt đất, mái nhà và cây cối, khiến cả thành phố tràn ngập không khí của năm mới.

Ngày hôm đó, nhà trường phá lệ cho học sinh nghỉ học, để tất cả học sinh, đặc biệt là lớp 12 tổ chức liên hoan đón chào năm mới. Bọn trẻ thoát khỏi đống bài tập nặng nề, lập tức trở nên hoạt bát, cười đùa vui vẻ. Chúng đắp vô số quả cầu tuyết, treo những ngọn đèn lồng và vô số tấm thiệp chúc mừng năm mới lên cây sồi. Không rõ ai có sáng kiến độc đáo, treo cả chuông gió lên cành cây sồi. Thế là tiếng chuông gió lanh lảnh vang vọng khắp không gian trong trường học theo tiếng cười nói vui vẻ của các thiếu niên thiếu nữ.

Trong phòng học càng náo nhiệt. Cửa sổ được phun sơn màu hình đồ họa đẹp mắt và viết hàng chữ tiếng Anh khoa trương “Happy New Year To You”. Trên bảng đen vẽ hình ông già noel, hình bánh sinh nhật, chuột Mickey…Vô số dải lụa màu, vô số bông hoa, vô số bóng bay, vô số vụn giấy, vô số gương mặt rạng rỡ tươi cười, tạo thành bầu không khí vui vẻ rộn ràng.

Đoán câu đố, truyền hoa, ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi, biểu diễn tiểu phẩm…Bọn trẻ phát huy trí tưởng tượng và sức sáng tạo thiên bẩm, thể hiện niềm vui theo bản năng. Không có ôn tập, không có phụ đạo, không có bài tập, không có thi cử. Ngày hôm nay thuộc về bọn trẻ, thuộc về tuổi thanh xuân, thuộc về nụ cười và mộng ước.

Liễu Địch cũng bị lôi cuốn theo đám bạn bè náo nhiệt. Cô cùng hát, cùng nhảy múa, cùng vỗ tay, cùng cười nói với mọi người. Năm lớp 12 đúng là áp lực quá lớn, Liễu Địch không có nhiều thời gian cá nhân. Cô thật sự cần thả lỏng bản thân, để sợi dây thần kinh căng thẳng và cơ thể mệt mỏi được nghỉ ngơi.

Cô là người thích một thân một mình. Nhưng hôm nay, cùng các bạn học vui chơi, cô cảm thấy rất hưng phấn và thỏa mãn, cảm thấy niềm vui như được bộc phát. Cuối cùng cô cũng lĩnh ngộ, người sống cô độc đến mức nào, từ nơi sâu thẳm trong nội tâm cũng đều có khát vọng giao tiếp với người khác, được mọi người biết đến. Khi hiểu ra đạo lý này, Liễu Địch càng nhận thức sâu sắc, thầy Chương phải có dũng khí và nghị lực to lớn ra sao mới tự nguyện lựa chọn cách sống cô độc.


Buổi liên hoan kéo dài đến tận hai giờ chiều mới kết thúc. Các bạn học vẫn chưa thỏa mãn, lớp trưởng đột nhiên hét lớn: “Karaoke! Ai muốn đi KTV?”

Lập tức có người cất giọng khe khẽ: “Học sinh cấp ba không được phép đi KTV.” Người vừa lên tiếng chính là Liễu Địch.

“Sợ đếch gì?” Lớp trưởng bất chợt nói bậy một câu: “Chúng ta nín nhịn ba năm rồi, chỉ một ngày hôm nay, còn kiêng kị gì chứ? Hơn nữa, KTV đâu phải là nơi bẩn thỉu nhơ nhớp. Chúng ta chỉ đến đó tụ tập liên hoan mà thôi. Ai muốn đi cùng tớ? Xảy ra chuyện, tớ sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm.”

Ngay lập tức có hơn hai mươi người đứng về phía lớp trưởng. Liễu Địch đưa mắt quan sát, phần lớn đều là những bạn có thành tích không tồi. Các bạn đó có lẽ càng cảm thấy bị gò ép, càng cần phát tiết hơn những người khác.

“Liễu Địch, cậu có đi không?” Lớp trưởng hỏi cô.

“Tớ…” Liễu Địch ngập ngừng nhìn về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc.

“Thầy Chương phải không?” Lớp trưởng đọc ra tâm tư của cô, cậu ta nói một câu giải quyết mọi vướng mắc: “Bây giờ mới là hai giờ chiều. Năm giờ chắc chắn chúng ta quay về rồi, không làm nhỡ việc của cậu.”

“Nhưng…” Liễu Địch vẫn không yên tâm. Tuyết rơi dày đặc, làm cô nhìn không rõ ô cửa sổ nhỏ đó. Trông nó rất nhỏ bé và cô độc trong hoa tuyết trắng xóa.

Cậu lớp trưởng nhìn Liễu Địch chăm chú. Thiếu nữ trước mặt cậu dù khoác chiếc áo to xù nhưng vẫn lộ rõ vẻ đẹp ngời ngời. Lông mày thanh tú, bờ môi chúm chím, nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan, còn cả đôi mắt đen nhánh trong veo, tràn đầy tình thơ họa ý, bộc lộ vẻ ngây thơ và yên tĩnh khó diễn tả. Một thiếu nữ thông minh xinh xắn, khiến nam sinh toàn trường rung động, vậy mà bình thường cô không thèm liếc bọn họ, chỉ suốt ngày quanh quẩn bên thầy giáo mù. Lớp trưởng đột nhiên cảm thấy bất bình, cậu ta nghiến răng, lên tiếng “kích động” mọi người: “Các bạn, Liễu Địch là bạn gái xinh đẹp nhất lớp ta, nhưng cậu ấy không bao giờ nể mặt nam sinh chúng ta. Hôm nay, cậu ấy lại từ chối không tham gia buổi liên hoan của chúng ta. Chẳng lẽ nam sinh lớp 12 (1) vô dụng đến vậy sao?”

Các bạn học lập tức ồn ào huyên náo. Liễu Địch xua tay: “Được rồi, được rồi, tớ đi là được chứ gì? Coi như tớ sợ các cậu rồi đấy.”

Thế là mọi người khoác vai nhau, đi tới một KTV ở gần trường. Lớp trưởng lấy một phòng lớn nhất, căn phòng không có cửa sổ, nên khi đóng cửa ra vào, bên trong không phân biệt ngày đêm. Lớp trưởng có sáng kiến thắp vài cây nến, không khí lãng mạn và ấm áp lan tỏa khắp căn phòng. Đến lúc này, mọi người hoàn toàn giải phóng bản thân.

Liễu Địch không hề hay biết, trong lớp cô lại có nhiều nhân tài như vậy. Điệu nhảy “côn trùng ngủ gật” của Viên Hà rất tuyệt. Toàn thân cậu mềm dẻo như không có xương cốt. Nhảy đến điệu cuối cùng, cậu còn xoay vài vòng trên mặt đất, được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Lớp trưởng hát tình ca rất hay. Hết “Quay đầu”, lại đến “Thật ra em không hiểu lòng anh”, “Tình yêu mùa thu”, “Cám ơn tình yêu của em”…Không biết cậu ta hát bao nhiêu bài, dù sao đây không phải là trường học, sẽ chẳng có ai chỉ trích bạn. Mấy nam sinh biết chơi ghita tổ chức một ban nhạc, hát hết các bài dân ca học đường. Các bạn nữ sinh cũng không chịu thua kém, họ nhảy điệu disco quay cuồng khiến đám nam sinh há hốc miệng.

Liễu Địch cũng hết sức kinh ngạc. Những “thiên tài” này sao không được phát hiện? Cũng phải, bọn họ bị giam cầm trong đống sách vở bài tập, mang trên vai gánh nặng thi cử, làm gì có cơ hội thể hiện tài năng? Nếu không nhờ buổi liên hoan hôm nay, có lẽ cho đến khi tốt nghiệp, bọn họ chỉ để lại ấn tượng là những con mọt sách vùi đầu khổ học mà thôi.

Liễu Địch cũng bị ảnh hưởng bởi không khí đó, bị bầu không khí vui vẻ và tự do ảnh hưởng. Cô và các bạn học cùng ca hát, cùng nhảy múa, cùng cười nói. Dưới sự cổ vũ của mọi người, Liễu Địch biểu diễn ca khúc tiếng Anh “Yesterday Once More” của anh em Carpenters:


“Những ngày vui vẻ không kéo dài,Chúng đã bặt vô âm tín từ lâu.Hôm nay chúng lại quay về,Giống những người bạn cũ mất đi…”

Điệu nhạc chậm rãi, mang tâm trạng hoài niệm và buồn bã lập tức lây nhiễm các bạn học. Mọi người không hẹn cùng cất cao tiếng hát với Liễu Địch:

“Mọi quá khứ tươi đẹp.Đều hiện rõ trước mắt.Tôi vẫn như trước kia,Chảy dài hai hàng lệ.”

Khi bài hát kết thúc, tất cả mọi người đều thật sự rơi lệ.

Trong hoàn cảnh và bầu không khí như vậy, Liễu Địch không khỏi cảm động. Tuổi thanh xuân là chân thành, là đầy sức sống, là vui vẻ. Liễu Địch thật sự chìm đắm trong không khí đó. Cô quên cả thời gian, quên cả địa điểm, quên hết tất cả. Tất nhiên, cô cũng quên mất hình bóng đang sốt ruột chờ đợi cô ở đằng sau ô cửa sổ nhỏ bé trên tầng bốn tòa nhà phía bắc.

Cho đến khi rời khỏi phòng KTV, bắt gặp gió tuyết bay trong bầu trời đêm, Liễu Địch mới chợt nhớ ra. Cô nhảy dựng lên hỏi người bên cạnh: “Trời ạ! Mấy giờ rồi?”

“Tám giờ rưỡi.” Một bạn học nhìn đồng hồ.

“Gì cơ?” Đầu óc Liễu Địch nổ tung. Tám giờ rưỡi? Cô mải chơi quên cả thời gian, chơi đến tám rưỡi tối? Liễu Địch không thể khống chế cơ thể run rẩy và quả tim đập thình thịch trong lồng ngực.

Sao cô có thể quên mất thầy Chương. Thầy Chương, thầy Chương hiện giờ ở đâu? Thầy đã về nhà chưa? Trong lòng Liễu Địch như bị đổ một chảo dầu nóng, khiến cô đau đớn vô ngần. Cô cảm thấy bản thân là một kẻ tệ bạc.

Tuyết rơi ngày càng lớn, trời không biết nổi gió từ lúc nào. Ngọn gió bắc cuốn từng hoa tuyết bay vào mặt Liễu Địch. Liễu Địch mặc nhiều quần áo như vậy, mà vẫn còn run cầm cập. Cô lại nhớ đến thầy Chương, thầy chỉ mặc áo khoác mỏng. Trời ạ, thầy Chương, thầy đang ở đâu? Nếu thầy ở văn phòng, thầy làm thế nào để trải qua một buổi chiều dài cô độc? Nếu thầy đã về nhà…Tuyết lớn như vậy, thầy làm thế nào để đi ra bến xe? Trong lòng Liễu Địch rối bời, cô dùng hết sức lao nhanh về phía trường học, bất chấp gió tuyết.

Cuối cùng, Liễu Địch cũng lảo đảo tới cổng trường. Ơn trời, cổng trường vẫn chưa khóa. Theo thói quen, cô đưa mắt về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc. Văn phòng tối om, nhưng chuyện này có thể chứng minh điều gì? Người mù vĩnh viễn không cần ánh sáng. Liễu Địch không hề nghĩ ngợi, chạy vội về phía tòa nhà phía Bắc.

Bên trong dãy nhà không bật đèn, Liễu Địch lập tức rơi vào bóng tối. Cảm giác phương hướng biến mất, ánh sáng cũng biến mất, cô chỉ có thể dựa vào trí nhớ, mò đến chân cầu thang, leo từng bậc một lên tầng bốn.

Nghe tiếng giày nện cộp cộp dưới nền nhà, bị bóng tối hư vô hỗn độn bao vây, Liễu Địch đột nhiên cảm thấy một nỗi sợ hãi và cô độc chưa từng có. Không có trời đất, không có trăng sao và mặt trời, không có cây cỏ, không có muôn loài, cả thế giới chỉ còn lại một mình cô, như con thuyền nhỏ cô độc, trôi dạt trong bóng tối vô cùng vô tận, không biết lúc nào sẽ thịt nát xương tan. Bóng tối có lẽ là thế giới bất hạnh và đáng sợ nhất. Liễu Địch bỗng dưng nhận ra, thầy Chương cũng phải sống trong thế giới như vậy. Vụ hỏa hoạn năm năm trước đã định số mệnh của thầy không thoát khỏi bóng tối vô tận, bóng tối không bờ bến. Lúc này, Liễu Địch mới thật sự cảm nhận được tâm trạng của thầy Chương lúc thầy bị mù. Thế giới của người khiếm thị vốn rất cô đơn, vậy mà thầy Chương còn đẩy bản thân vào nơi cô độc hơn. Hôm nay, bản thân cô còn tặng thêm cho thầy một nỗi cô độc, cô quả thực quá tàn nhẫn.


Cuối cùng cũng leo lên tầng bốn, đôi mắt Liễu Địch đã bắt đầu quen dần với bóng tối, miễn cưỡng nhận ra đường nét của vật thể. Cô bám theo bờ tường, đi về phía văn phòng của thầy Chương. Đến trước cửa phòng, cô dừng bước theo thói quen, ngập ngừng một hai giây rồi giơ tay gõ cửa.

Không có tiếng trả lời, bốn bề chỉ là sự im lặng đến tột cùng.

Liễu Địch lại gõ cửa, vẫn là sự yên tĩnh đáng sợ.

Cô vội vàng đẩy cửa, cánh cửa khép hờ lập tức mở ra.

Trong phòng tối đen, Liễu Địch lần mò công tắc bật đèn. Ánh sáng bất thình lình khiến Liễu Địch lóa mắt. Sau đó, cô quan sát một lượt quanh căn phòng. Bàn làm việc, ghế ngồi, cốc trà, phích nước, chậu hoa nhài, quạt sưởi…vẫn ở nguyên chỗ cũ. Nhưng thầy Chương không thấy đâu cả. Mặc dù sớm đoán biết, Liễu Địch vẫn không khỏi hoảng hốt và thất vọng.

Liễu Địch lại đảo mắt một vòng, cô chợt phát hiện thấy mũ và găng tay của thầy Chương vẫn ở trên bàn. Tim cô thắt lại, thầy Chương không mang theo mũ và găng tay, chắc chắn thầy chưa về nhà. Thầy có thể đi đâu?

Sau đó, Liễu Địch nhìn thấy một tờ giấy và cây bút đặt bên cạnh mũ và găng tay. Đó là cây bút mực đỏ dùng để nhận xét bài văn. Lẽ nào, thầy Chương viết điều gì? Ba năm nay, Liễu Địch chưa từng nhìn thấy thầy Chương viết chữ. Cô vội cầm tờ giấy lấy xem, bàn tay cô đột nhiên run run. Trên tờ giấy không có chữ, mà chỉ có vô số dấu chấm hỏi, các loại dấu chấm hỏi to nhỏ, nặng nhẹ chồng lẫn lên nhau. Có mấy dấu hỏi, do người viết ấn bút quá sâu, thậm chí chọc thủng cả giấy. Chứng tỏ tâm trạng của người viết nôn nóng và sốt ruột đến mức nào.

Tim Liễu Địch nhói đau, nước mắt chảy giàn giụa, rơi cả xuống tờ giấy, làm nhòe dấu hỏi màu đỏ trên giấy trắng. Trong lòng Liễu Địch tràn ngập nỗi đau đớn và ân hận. Thầy Chương, thầy muốn hỏi ai? thầy muốn hỏi điều gì? Có phải thầy muốn hỏi tại sao em không đến đón thầy? Tại sao con bé đó lại để thầy một mình ở đây, để nỗi cô độc gặm nhấm linh hồn thầy? Thầy có biết không, em đã quên mất thầy, quên mất thầy…

Trong tầm nhìn mơ hồ bởi nước mắt, Liễu Địch lại thấy mũ và găng tay bị bỏ quên trên bàn làm việc. Thầy Chương không đội mũ và đeo găng tay đã đi ra ngoài. Trong đêm gió tuyết này, thầy có thể đi đâu? Lẽ nào thầy đi tìm cô? Trời ạ, thầy làm sao có thể đi “tìm”?

Lòng Liễu Địch đau như cắt, trán rịn mồ hôi lạnh. Cô lập tức quay người chạy ra khỏi văn phòng, chạy như bay xuống cầu thang, bất chấp bóng tối xung quanh.

Liễu Địch chạy một mạch đến phòng bảo vệ ở cổng ra vào. Cô vừa đập cửa phòng bảo vệ vừa hét to: “Ông Lý! Ông Lý!”

Ông Lý chậm chạp đi ra mở cửa. Liễu Địch túm tay ông: “Ông Lý, thầy Chương đâu rồi? Ông có nhìn thấy thầy Chương không?”

“Thầy Chương à? Ờ, ông có nhìn thấy.” Ông Lý cất giọng già nua chậm rãi: “Lúc năm giờ hơn thầy đến chỗ ông, hỏi ông có nhìn thấy cháu đi ra ngoài không. Ông nói “không thấy”. Người đi lại nhiều như vậy, ông thật sự không nhìn thấy cháu. Sao hôm nay cháu không ra về cùng thầy Chương?”

Trong lòng Liễu Địch càng rối bời và chua xót.

“Nghe ông nói vậy, thầy Chương quay người đi lớp học của cháu xem thế nào.”

“Hả? Thầy đi lớp học của cháu ư?” Liễu Địch kinh ngạc hỏi.

“Đúng vậy.” Ông Lý thở dài: “Ông khuyên thầy đừng đi nhưng thầy không nghe. Tính của thầy chắc cháu hiểu rõ hơn ai hết. Ông không dám giúp thầy, chỉ có thể đứng nhìn thầy dò dẫm từng bước tới tòa nhà phía Nam. Tuyết lớn như vậy, thầy lại chẳng nhìn thấy gì, ông thấy thầy bị trượt ngã, rồi đứng lên, sau đó lại bị ngã…” Ông Lý thở dài một hơi, lắc đầu: “Thật đấy, ông không biết thầy ngã bao nhiêu lần. Thầy còn không đội mũ…”


“Được rồi, ông Lý, ông đừng nói nữa”. Trong lòng Liễu Địch dội lên một nỗi đau xé nát tim gan. Tất cả đều là lỗi của cô! “Sau đó thì sao ạ?” Cô sốt ruột hỏi.

“Sau đó, ông không đành lòng nhìn thầy, nên quay về phòng bảo vệ.”

“Sau đó thì sao ạ? Rốt cuộc thầy Chương đi đâu?”

“Ông không biết.” Ông Lý tỏ ra mờ mịt.

Liễu Địch thất vọng thở dài. Hỏi thăm một hồi, cô vẫn không biết tung tích của thầy Chương. Thầy Chương có thể đi đâu? Liễu Địch tự hỏi bản thân. Đầu óc cô đột nhiên vụt qua một ý nghĩ. Bến xe, đúng rồi, là bến xe. Sao cô có thể quên mất bến xe? Liễu Địch không nghĩ ngợi, chạy nhanh ra trạm xe buýt.

Tuyết nhỏ đi từ lúc nào. Mọi người đã về nhà đón năm mới từ lâu. Trên đường phố chỉ thấp thoáng vài bóng người và xe cộ. Đèn đường tỏa ánh sáng mờ mờ xuống nền tuyết trắng, tạo thành một vẻ cô tịch thê lương. Liễu Địch bất giác đi chậm lại. Vỉa hè vắng lặng, bước chân cô ngày càng nặng nề.

Trạm xe buýt mỗi lúc một gần. Liễu Địch cảm thấy một nỗi sợ hãi không nói thành lời. Thầy Chương liệu có ở bến xe? Chuyến xe cuối cùng đã chuyển bánh từ lâu, chắc thầy không ở bến xe đấy chứ? Liễu Địch cắn môi, bước chân cô trở nên chậm chạp. Cô muốn đi nhanh đến bến xe nhưng lại sợ hãi. Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn đó, Liễu Địch cuối cùng cũng đến gần tấm biển sắt cô độc ở trạm xe buýt. Dưới tấm biển là một thân hình cao lớn bất động. Nhờ ánh đèn đường, Liễu Địch nhận ra đó là thầy Chương của cô.

Chính là thầy Chương. Thầy vẫn mặc chiếc áo khoác mỏng màu đen, không đội mũ và đeo găng tay. Thầy đứng bên cạnh tấm biển, một tay nắm chặt cột sắt của biển báo. Thầy đứng ở đó rất lâu rồi, bởi vì Liễu Địch nhìn thấy đống tuyết trên người thầy. Hai chân thầy vùi dưới tuyết. Thầy cứ đứng bất động ở đó, dưới ánh đèn mờ mờ. Trông thầy như một bức tượng đá hoa cương.

Liễu Địch ngây người. Đầu óc cô trống rỗng, cô thậm chí không thể hô hấp trong giây lát. Cô cảm thấy trái tim cô thắt lại, đau đến mức lòng bàn tay đổ đầy mồ hôi. Nước mắt lại trào ra khóe mi. Qua làn nước mắt, thầy Chương trở thành hình bóng mơ hồ. Liễu Địch lau nước mắt, rồi ấn tay vào lồng ngực đau đớn. Sau đó, cô nhẹ nhàng đi đến bên bức “tượng điêu khắc”, cất giọng đầy nghẹn ngào: “Thầy Chương!”

“Bức tượng điêu khắc” động nhẹ: “Liễu Địch, là em phải không?” Thanh âm trầm thấp của thầy không che giấu nỗi vui mừng. Nhưng chỉ trong chốc lát, thầy khôi phục sự bình tĩnh thường ngày: “Tôi biết.” Thầy nói, ngữ khí hơi run run: “Tôi biết, nếu em không xảy ra chuyện gì, em nhất định sẽ ra bến xe này tìm tôi.”

“Thầy Chương!” Liễu Địch nấc nghẹn. Cô cảm thấy hai bàn chân, tứ chi, toàn thân đến trái tim và cả linh hồn cô đều run rẩy. Thầy Chương vẽ nhiều dấu chấm hỏi như vậy, thầy đội gió tuyết đi tìm cô. Thầy đứng ở bến xe, đợi cô trong giá lạnh không biết bao nhiêu lâu. Vậy mà thầy còn lo cô xảy ra chuyện.

Trong lúc thầy Chương cô đơn lo lắng cho cô, cô lại cùng người khác đi chơi bời, ca hát, ném thầy ra khỏi đầu. Vào giây phút này, cô cảm thấy bản thân đê tiện, ích kỷ và vô tình. Cô tháo găng tay, từ từ nắm lấy bàn tay đang bám cây cột sắt của thầy Chương. Thầy Chương run rẩy, vội vàng thu tay về. Nhưng do ở ngoài trời quá lâu, bàn tay thầy cứng đờ không thể nhúc nhích. Liễu Địch nhẹ nhàng xoa bóp bàn tay đông cứng đó. Cô có muôn vàn điều muốn nói nhưng cổ họng tắc nghẹn, không thể thốt ra lời. Cuối cùng, vẫn là thầy Chương lên tiếng trước: “Liễu Địch, em bỏ tay ra đi, đừng để lạnh cóng.”

Chỉ một câu nói ngắn gọn, đã khiến tất cả sự hối hận, áy náy, cảm động, tự trách…dội vào lòng Liễu Địch. Nhiều cảm xúc đến cùng một lúc, làm linh hồn nhỏ bé của Liễu Địch không ngừng run rẩy. Cô cuối cùng không thể khống chế bản thân, vùi đầu vào lòng thầy Chương, òa khóc nức nở. Tâm trạng đau đớn, hối hận, áy náy, cảm động cùng giải phóng theo tiếng khóc của cô. Liễu Địch ôm chặt thầy Chương nói: “Thầy Chương, thầy hãy trách mắng em đi, trừng phạt em đi! Em sai rồi, em sai rồi! Em đã quên mất thầy, em không nhớ đến thầy…”

Liễu Địch vừa khóc vừa lẩm bẩm, nhưng bản thân cô cũng không biết cô đang nói gì. Sau đó, cô cảm thấy một cách rõ ràng, bàn tay lạnh giá của thầy Chương nhẹ nhàng vỗ lưng cô. Trong khi giọng nói thầy vang lên bên tai cô. Lần này, ngữ khí của thầy vô cùng ôn hòa, vô cùng dịu dàng:

“Liễu Địch, em đừng khóc. Em không làm sai điều gì. Em đã vì tôi hy sinh quá nhiều thời gian…Đừng khóc nữa, được không em?” Thanh âm đó dịu dàng như cơn gió xuân tháng ba, không một chút hàn ý. Liễu Địch từ từ ngừng khóc trong tiếng thì thầm dịu dàng đó. Cô đột nhiên cảm thấy trái tim cô như búp hoa dính đầy giọt sương ban mai, kỳ ảo, đẹp đẽ và thuần khiết.

Tuyết lặng lẽ ngừng rơi. Vầng trăng chui ra khỏi tầng mây, chiếu ánh sáng nhàn nhạt khắp không gian. Ánh trăng và tuyết trắng phảng phất khiến thế giới được khoác chiếc áo cưới lung linh mộng ảo.

Tất cả trở nên thánh thiện vô cùng…


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.