Đọc truyện Báu Vật Của Đời – Chương 64
Đội áp giải đã mất đội trưởng khi dẫn giải Bác-bít và Thượng Quan Niệm Đệ qua vùng núi non đầm lầy thì xảy ra một cuộc tao ngộ chiến với quân địch. Lúc này đêm đã khuya, mưa như trút, chớp xanh lè soi sáng những vườn nho mênh mông. Hai bên chạm trán, đầu tiên là vài ánh đèn pin lóe lên, tiếp theo là một tia chớp sáng rực, soi rõ khuôn mặt trắng bệch đầy khiếp hãi, tiếp đó là đêm tối mênh mông. Hai bên ngớ ra một thoáng rồi mới nổ súng, người dính đạn ngã lăn ra, kêu la inh ỏi. Lưỡi lửa đỏ phun ra từ đầu nòng, tiếng nổ chát chúa, mùi thuốc súng khét lẹt, chẳng khác tiếng nổ và mùi củi thông cháy. Trong lúc nguy cấp, Niệm Đệ bị ai đó đẩy một cái, ngã dúi xuống một gốc nho, đầu đập vào chiếc trụ đá, mắt nảy đom đóm. Cô nghe thấy Bác-bít kêu lên câu gì đó, rồi trong ánh chớp và tiếng sấm ùng oàng, cô trông thấy anh ta chạy dềnh dàng như một con lừa ngù xuẩn, hai chân dẫm bành bạch, bùn bắn tung tóe, đầu ngẩng cao, tóc dựng như bờm ngựa. Một đội viên kêu lên:
– Tù binh chạy mất rồi!
Đạn bay chíu chíu xung quanh Bác-bít, một viên hình như bắn trúng anh ta, chị Bảy trông thấy anh ta ngã chúi xuống. Mấy đội viên áp giải xông lên, một loạt đạn bắn vỗ mặt quật ngã tất cả, người thì thủng bụng, người gãy lưng. Chị Bảy gào lên:
– Bác-bít!
Chị cho rằng Bác-bít đã chết
Nhưng anh ta chưa chết, anh ta vùng dậy, nhảy qua trụ dàn nho rồi mất hút trong màn đêm. Trong chớp giật liên hồi, chị Bảy trông thấy những tay nho xoắn như lò xo rung rinh dưới mưa. Hai bên bắn nhau một chập nữa rồi rút. Sự việc xảy ra nhanh như gió và kết thúc cũng nhanh như gió, nhanh như chưa từng xảy ra. Nhưng qua không khí ẩm ướt và mùi thuốc súng khét lẹt, chị Bảy biết rằng cuộc chiến đấu đã xảy ra và đã kết thúc. Chị nằm thu mình dưới gốc nho rất lâu, không dám động cựa, nghe tiếng mưa rơi trên lá, nghe tiếng con dế bị sấm chớp đuổi ra khỏi hang, tiếng gầm gào của nước lũ xa xa. Một con ve sầu giật mình bay lên rồi đập phải thân cây trước mặt rơi như một hòn sỏi. Làn gió nhẹ từ dưới khe thổi tới, làm rụng những hạt nước mưa đọng trên lá dọc theo con đường nó đi qua. Những quả nho đang độ lơn sai lúc líu, tỏa mùi chát của quả xanh. Chị Bảy chưa chui ra khỏi gốc nho, nhưng đã bắt đầu tìm kiếm anh chồng tóc vàng Bác-bít. Chị gọi khe khẽ vì sợ đánh động bọn có súng. Gọi mãi, nhưng chỉ có tiếng mưa rả rích trả lời. Thế là chị bắt đầu gào thật to:
– Bác-bít, Bác-bít, Bácbít!
Gọi ba câu Bác-bít, nước mắt đã đầm đìa. Chị bổ nhào khắp cánh đồng nho. Cánh đồng này cung cấp nguyên liệu cho nhà máy rượu vang đầu tiên của Trung Quốc. Lúc này, Tư Mã Khố đã trở lại vùng Cao Mật sau khi trốn thoát bằng cách nhảy xuống sông Thuồng Luồng, đang bẻ đưa hấu trong ruộng của lão ba Vuông. Còn ở chỗ vực của sông Thuồng Luồng, phía hạ lưu những con nhệch hung hãn đang rỉa xác đội trưởng đội áp giải. Chị Bảy chốc chốc lại vấp phải xác người. Qua ánh chớp, chị trông thấy máu tươi đang bò trên mặt đất đã no nước, mùi tanh lợm xộc lên mũi, thần kinh căng thẳng như có con gõ kiến liên tục mổ vào đầu! Chị hốt hoảng chạy như điên, vừa chạy vừa gào khóc, vấp ngã dúi dụi, nước đọng trên lá nho rơi lộp bộp. Giày dép đã tuột mất tự lúc nào, hai bàn chân trần rớm máu tay sút sẹo mà không cảm thấy đau. Một bên vú đã bị trọng thương. Cặp vú chị đẹp tuyệt trần, như hai cái âu bằng pha lê úp sấp. Đẹp như vậy mà bị tổn thương, khiến tôi vô cùng xót xa. Anh chàng Bác-bít chết tiệt đã cao chạy xa bay, hơn nữa, đã đi là đi biệt, không một tin tức. Mấy chục năm sau, những lời đồn thổi về anh ta đã khơi lại nỗi đau và rất phiền phức cho chúng tôi. Thằng chó đó còn sống hay đã chết thì chỉ có trời mới biết! Cuối cùng, chị Bảy bị kiệt sức, nằm mê man trong đồng nho, nói rằng mê man, nhưng thực ra chị vẫn còn đôi chút cảm giác, chị vẫn còn cảm nhận được hơi lạnh của đất, nước rớt trên mặt, vẫn nghe thấy tiếng gầm gào của nước lũ và tiếng ếch nhái ộp oạp, cảm nhận được cái đau nhục thể râm ran toàn thân và nỗi đau tinh thần khiến chị ứa nước mắt.
Trời rạng sáng, sương mù lớn như mưa phùn, sấm chớp đã im hơi lặng tiếng, không còn soi sáng cho trời đất. Nét mặt nhợt nhạt, chị Bảy định nhổm dậy, nhưng chị kinh ngạc nhận ra rằng, cơ thể không theo sự sai khiến của chị nữa. Tất cả cứng đờ ra, chỉ còn trái tim là sống nhưng đau như muốn vỡ. Đất trời cô quạnh, chỉ còn tiếng mưa rào và tiếng lũ réo ầm ầm, thảng hoặc xen vào tiếng gáy quái đản của chú gà trống choai, khiến người nghe bủn rủn chân tay. Sau đó, vùng đông rực cháy, nhuốm hồng nửa bầu trời, ánh sáng ban mai đỏ như máu, sương mù nhớp nháp bắt đầu ngưng kết, lăn từng giọt xuống chỗ trũng. Nắng sớm màu da cam lọt qua kẽ lá nho, rọi lên người chị Bảy, mơn trớn cơ thể đã mất hết cảm giác của chị. Trong lòng chị Bảy như có cỗ xe chạy hết tốc lực, chị nhìn bầu trời đang chuyển dần sang màu hoa hồng. Trăm mối tơ vò, đầm đìa nước mắt! Chị khóc nức nở, rơi bao nhiêu là nước mắt và cảm thấy trong lòng nguôi ngoai đôi chút. Chị rất mong Bác-bít trở lại tìm chị, thậm chí đã tưởng tượng ra Bác-bít đang lom khom vạch cây rẽ lá, vỗ tay gọi khẽ tên chị. Nhưng mặt trời đã lên cao ba con sào mà vẫn không trông thấy bóng dáng Bác-bít đâu cả. Một con sâu nho y hệt con hổ vằn nằm chềnh ềnh ở cuống lá, ngẩng cao cái đầu gân guốc đầy góc cạnh, ỉa cứt xanh xuống mặt chị Bảy. Tởm quá, và sợ nữa! Chị nhớ lời dạy của người xưa là dùng bao giờ trồng nho trong sân nhà, vì sâu nho – con sâu béo núc có vằn như vằn hổ nên gọi là Sâu Hổ- hay trêu ghẹo phụ nữ. Người nào bị nó trêu ghẹo sẽ đẻ ra toàn là nho. Thế là chị lại nhớ tới mẹ. Mỗi khi kể về con sâu hổ này, thường là nét mặt cực kỳ nghiêm túc, làm như mẹ tận mắt chứng kiến câu chuyện xảy ra từ đầu đến đuôi. Mẹ kể, có một cô bị sâu hổ tròng ghẹo, bụng to như cái chum, hai sợi râu của nó thò ra ngoài lỗ mũi cô ta. Các chị sợ rúm người lại, ôm lấy nhau thật chặt như đàn chim non trước cơn gió lạnh. Con sâu hổ ngó xuống chị Bảy. Nó cong cái đuôi tẽ làm hai như chục nhảy xuống. Chị nhắm tịt mắt lại cố nhích ra xa. ánh nắng mặt trời bắt đầu hun đốt, mặt đất bốc hơi hầm hập. Chị Bảy mồ hôi đầm đìa, nước trong người thoát ra cùng với mồ hôi. Chị ngạc nhiên vui mừng khi thấy các cảm giác đã được khôi phục. Cuối cùng, chị vịn dây nho đứng lên. Chị Bảy lại bắt đầu tìm kiếm Bác-bít, liên tục bảy ngày bảy đêm, đói thì ăn cỏ dại, khát thì uống nước khe, bất chấp khả năng có thể bị những con sâu tròng ghẹo, chị len lỏi khắp cánh đồng nho, quần áo bị gai cào rách bươm, hai bàn chân tóe máu, trên người đầy những vết muỗi cắn. Chị đã thực sự trở thành người rừng gớm ghiếc! Đến chiều tối ngày thứ tám, chị hoàn toàn tuyệt vọng.
ở bên rìa cánh đồng, chị ngửi thấy mùi thối rữa của xác chết, chị nôn thốc nôn tháo. Phía tây, mặt trời đỏ rục lẩn vào đám mây khổng lồ định đốt cháy đám mây, nhưng lại bị đám mây dìm chết. Không khí ngưng đọng đến nghẹt thở, ruồi muỗi sà vào mặt. Đó là triệu chứng sắp mưa to. Chị Bảy thất thểu đi về phía thôn để trú mưa. Đầu thôn có một ngôi nhà chơ vơ một mình. ánh đèn leo lét khiến lòng chị ấm lại. Rất nhiều chuyện cổ tích đã nảy sinh từ những ngôi nhà như thế này, chuyện ma, chuyên trộm cướp, chuyện hiệp khách. Trong đầu chị đầy ắp những chuyện loại ấy. Chị mong gặp một bà già ngồi quay sợi bên ánh đèn leo lét. Bà cụ tóc trắng như bông, mặt mờ, miệng móm, tay như que củi, cử động chậm chạp, bụng dạ hiền lành. Bà đang đun một nối cháo. Chị Bảy nghĩ vậy, liền nghe thấy tiếng xa quay và ngửi thấy mùi cháo. Chị gõ cửa chứ không chọc thung giấy dán cửa sổ như trong chuyện cổ tích để nhìn trộm vào trong nhà.
Trong nhà đèn tắt phụt. Tiếng cuốc kêu không nghỉ ngoài vạt hướng dương. Chị Bảy lại gõ cửa, một giọng nữ hỏi khẽ:
– Ai đấy?
– Bác ơi, bác làm ơn! – Chị Bảy nài nỉ – Cháu đang lâm nạn!…
Trong nhà vẫn lặng im, chị Bảy kiên nhẫn chờ đợi. Cánh cửa hé mở, một bóng xám ló ra.
Dẫn chị Bảy vào trong nhà là một phụ nữ, chị ta rờ rẫm tìm đá lửa đập cạch cạch, tia lửa bén vào bùi nhùi. Chị thổi cho lửa bùng lên rồi châm vào ngọn đèn dầu. Qua ánh đèn vàng vọt, chị Bảy nhận ra chị ta rất trẻ và khỏe mạnh, da đen giòn. Chị Đen đội khăn chít ngang, mũi giày buộc mẩu vải trắng, đây là dấu hiệu của người vừa chết chồng. Trong lòng chị Bảy bỗng trào lên niềm thương cảm của những ngồi đồng bệnh tương liên, không đợi chị ta hỏi han, chị Bảy đã nước mắt lã chã, quì sụp kể lể:
– Chị ơi, chị hãy thương em, đã bảy ngày nay em chưa có chút gì vào bụng!
Chị Đen kinh ngạc phướn cặp lông mày cong vút, những nét thông cảm còn đọng mãi trên mặt chị y như nhưng gợn sóng trên mặt đầm trước làn gió nhẹ. Chị thêm nước vào nồi, bỏ thêm củi vào lò rồi lấy ra. mấy chiếc quần áo, bảo chị Bảy:
– Đừng ngại bẩn, mặc vào đi! Quần áo chị Bảy đã rách tã như xơ mướp, hở cả da thịt. Khi chị trút bỏ bộ quần áo trên người, mặc dù thương tích đầy mình và bê bết bùn đất, nhưng tấm thân ngà ngọc vẫn hiện ra lồ lộ. Đương nhiên, cái hấp dẫn nhất, khiến người ta hâm mộ và ghen tị nhất vẫn là cặp vú thanh tú của chị Bảy. Chị cảm thấy ngượng trước cái nhìn của chị Đen, nên vội quay đi mặc quần áo vào, bộ quần áo đàn ông, có mùi ẩm mốc. Chị Đen ngồi đun bếp, ánh lửa nhảy nhót trên mặt chị. Chị Bảy cảm thấy trong cặp mắt sâu lắng của người đàn bà da đen nhẻm kia ẩn chứa nhiều điều bí mật.
Vừa ăn bát cháo rau nóng hổi, chị Bảy kể hết, không giấu điều gì, về thân thế và hoàn cảnh của mình. Nước mặt chị rơi xuống bát cháo, khi chị thuật lại bảy ngày bảy đêm liền đạp lên chông gai đi tìm chồng. Người đàn bà kia như cảm động về chuyện của chị. Chị ta rơm rớm nước mắt, hơi thở dồn dập, tay cầm que củi đang cháy vẽ rất nhiều vòng tròn trên mặt đất.
Bên ngoài trời lại đổ mưa, mùi không khí ẩm ướt xộc vào trong nhà. Dầu đã gần cạn, một mùi quái gở lan khắp gian nhà, ngọn lửa tàn trong lò lóe lên lần cuối trước khi tắt hẳn, soi rõ hàm ràng trắng nhởn của chị ta. Chị Bảy liền nghĩ tới con hồ ly, chợt có ý nghĩ rằng người đàn bà này là do hồ ly tinh biến thành. Ngôi nhà chơ vơ bên ngoài thôn, một đêm vừa mưa vừa gió, một kẻ hoạn nạn, chính là không khí và hoàn cảnh sản sinh ra hồ ly tinh. Nghĩ vây, chị phát hiện cái mũi của người đàn bà dài ra như bằng cao su, mắt và lông mày nhòe dần đi, trên người mọc đầy lông. Chị Bảy suýt kêu thét lên. Người đàn bà thở dài, nói:
– Khuya rồi, đi ngủ thôi! – Nói rồi chị ta đứng lên, chỉ vào đống rơm ở xó nhà – Cô ngủ tạm một đêm vậy!
Chị Bảy chui vào ổ rơm, cảm thấy sung sướng vô cùng, chăn bông gối đệm cũng không dễ chịu bằng ổ rơm. Rất nhanh, chị đi vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau, khi chị Bảy tỉnh dậy thì đã thấy người đàn bà ngồi thẫn thờ trên ngưỡng cửa. Chị ta mặc chiếc áo tơi rộng, đầu đội nón lá như những người câu cá bên sông. Chị ta nhìn chị Bảy nở một nụ cười hờ htĩng, hỏi:
– Dậy rồi đấy à? Chị Bảy cảm thấy ngượng vì dậy muộn.
Người đàn bà nói:
– Đi, tôi đưa cô đi xem cái này? Nói rồi chị ta đứng dậy đi luôn, không ngoảnh lại. Chị Bảy rất phân vân nhưng vẫn đi theo người đàn bà. Ra khỏi nhà là cánh đồng, cao lương chính vụ đang phát triển như vũ bão. Người đàn bà bước nhanh, xuyên qua những luống hoa màu rẽ sang cánh đồng nho rồi chui vào một vạt rừng rậm rạp. Đây là khu lăng mộ, cây cối um tùm trên gò cao đây đó là những bông hoa nhỏ màu trắng. Chị Bảy không còn lòng dạ ngắm cảnh, trong lòng thấp thỏm, lại bắt đầu nghi ngờ người đàn bà là con hồ ly tinh, thậm chí còn trông thấy cái đuôi của chị ta đội vạt áo sau lên.
Khi trèo lên đỉnh gò, chị Bảy nhận ra phía trước mặt là biển Bột Hải xanh biếc, những ngọn sóng bạc dồn đuổi nhau chạy vào bờ. Cánh đồng nho tuyệt đẹp liền kề với bãi cát. Biển cả khiến chị Bảy sũng sờ. Chị không nghĩ rằng biển lại là như vậy, nhưng buộc phải thừa nhận biển là như vậy. Không để cho chị suy nghĩ, người đàn bà cắm cúi đi nhanh hơn. Lưng chừng gò có một bụi quán mộc che khuất một cửa han, mùi hôi thối từ trong hang bốc ra. Chị Bảy nghĩ, chắc là hang hồ ly đây rồi. Người đàn bà ra hiệu cho chị chui vào hang. Chị Bảy đánh bạo chui vào.
Bác-bít bị thương đang ẩn trong hang.
Vợ chồng vừa gặp nhau vừa ngạc nhiên vừa mừng, nhưng sau đó kết cục không đẹp chút nào. Đúng lúc vợ chồng Bác-bít đang ôm nhau, người đàn bà đứng phía sau cho nổ liền ba quả lựu đạn, cả ba đều chết.
Cái hang không lớn, người ta lấp nó lại thay vì đắp phần mộ cho ba người.