Bản Thảo Bằng Đá

Chương 19


Đọc truyện Bản Thảo Bằng Đá – Chương 19

Sau cái chết của Thái tử, ở Salamanca và các nơi lân cận mưa không ngớt lấy một ngày. Lòng sông Tormes thực sự chứa đầy nước tới mức mà dường như bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ bờ và nước có thể tràn vào các nhà và khu vực quanh cầu như đã từng xảy ra đối với các đại lộ khác. Tương tự như vậy, nước cũng tuôn vào hai suối Thần kỳ và Thánh Domingo chảy từ Bắc tới Nam, tạo thành hai vùng thung trũng phân chia khu dân cư thành ba vùng đồi lớn là Thánh Vicente ở phía Tây, Thánh Isidro ở giữa và Thánh Cristobal ở phía Đông. Vì vậy, một số người đã gọi đó là thành phố của ba quả đồi. Bên trong bức tường bao quanh thành phố, ngay cả một số ít đường được lát đá nhanh chóng và vội vã theo lệnh của Thái tử cũng không thoát khỏi bùn lầy mà ở một số nơi bùn đọng tới gần một gang tay, gây khó khăn cho xe ngựa đi lại, khiến giao thông trở nên phức tạp và, nhất là, đối với việc cung cấp lương thực thực phẩm cho một số vùng. Những quảng trường và khu chuồng trại không được lát đá thì ngập trong nước và phủ toàn bùn lầy mà những mỏm sa thạch nào đó nhô cao thì trông giống như những hòn đảo. Và cuối cùng, cái lạnh cũng đến sớm hơn, như báo trước một mùa đông băng giá sẽ kìm kẹp thành phố trong vòng vài ba tháng.

Giống như cuộc sống của người Salamanca, việc điều tra của Rojas cũng bị đe doạ bế tắc mặc dù anh đã cố gắng rất nhiều. Điều chắc nhất có trong tay anh là mảnh giấy với sơ đồ mà chẳng ai có thể hiểu nổi. Ngay cả người bạn của anh là cha thảo dược, rất tỏ tường với những điều thông dụng, nhưng cũng không có khả năng giải nghĩa nổi mặc dù ông đã nhớ thuộc lòng nó. Trông cha thảo dược tiều tuỵ và buồn bã do bị mất tất cả các cây dược liệu nên thỉnh thoảng cha lại đến thông báo một cách cay đắng với Rojas rằng ông sẽ từ bỏ tất cả để đi theo Columbus trong một chuyến du hành mới sang Ấn Độ. “Chắc chắn ở đấy, một lần cha giải thích với anh, ta sẽ kỳ vọng trở lại với một dự án nào đó và sẽ có nghị lực tinh thần cần thiết để thực hiện nó”. Sự tiếp cận của Hilario đối với những người theo ông Roa cũng không đạt kết quả do họ không tin anh ta.

Rojas dành nhiều thời gian nhất có thể để ở cùng Sabela. Khi cô làm việc, anh đứng ngoài đường theo dõi lối vào nhà chứa để xem gã sinh viên kia có xuất hiện không. Thế nhưng đã từ lâu, hắn không cho thấy dấu hiệu còn sống hay đã chết của mình, dường như hắn cũng đang trễ nải. Những lúc không ở cùng Sabela, anh cảm thấy thời gian trôi đi chậm chạp, đầy thất vọng mà đôi khi anh lại muốn một vụ giết người mới hay một thiên tai hoặc một vụ nổi loạn xảy ra, đối với anh chúng đều như nhau, nhằm thúc đẩy công việc điều tra tiến triển trở lại. Mặt khác, anh luyến tiếc cái thời dành cả ngày đọc tác phẩm của Petrarca để bảo vệ thế giới khỏi sự khắc nghiệt, rất an toàn trong phòng của mình.

Một buổi chiều, trong lúc giở đi giở lại mảnh giấy đó thì không hiểu sao Rojas lại nhớ tới một trong những thầy giáo của Học viện, cha German de Benavente, thuộc dòng Thánh Francisco, sau khi nghỉ hưu, ông rời tu viện để đi sâu nghiên cứu thuật phù thuỷ. Ý đồ của ông, theo như ông nói lúc đó, rõ ràng không phải theo nghề phù thuỷ, cũng không chống lại ma thuật, mà thực ra để hiểu kỹ trong phép thuật đó có gì, bởi ông tin rằng phần lớn những người nói về thuật phù thuỷ đều không nằm ngoài sự mê tín và lừa gạt. Ông có ý định phản bác như vậy, chống lại những điều tệ hại mà người ta có thể đọc được từ những cuốn sách được lưu truyền trong hàng ngũ công tố viên, như cuốn nổi tiếng Malleus maleficarum, hay còn có tên Chiếc búa của những mụ phù thuỷ, mà không phải ngẫu nhiên, anh thường nói thêm, được hai cha cố thuộc dòng Thánh Domingo viết ra. Từ lúc đó, hai người tách xa nhau và đã lâu rồi Rojas không biết gì về ông, nhưng anh tin chắc rằng nếu ai đó có thể giúp anh khám phá ra điều bí ẩn của sơ đồ thì người đó phải là cha German hay chí ít, anh muốn tin là như vậy. “Dù thế nào chăng nữa, anh nghĩ, cũng chẳng mất gì nếu muốn thử xem sao”.

Tu viện thuộc dòng Thánh Francisco nằm ở phía Tây, đối lập hoàn toàn với tu viện thuộc dòng Thánh Domingo. Để đến được tu viện, từ khu lưu trú, Rojas chỉ cần đi qua đường Traviesa, rồi xuống đường Moros, vượt cây cầu nhỏ bắc qua con suối Thần kỳ và đi vòng qua bức tường tu viện để tới cửa chính. Khi đã ở dưới vòm cửa, anh suýt nữa quay về vì lo ngại họ sẽ nói với anh rằng cha German không còn trên đời nữa hay ông vẫn còn sống, nhưng không muốn tiếp anh. Cuối cùng, khi anh quyết định gọi cửa, họ dẫn anh vào phòng của ông.

– Chào anh bạn Rojas, thật bất ngờ quá! – Cha German kêu lên khi vừa nhìn thấy anh.

– Con rất mừng thấy cha khỏe mạnh! – Rojas nói thay cho lời chào.

– Sao con lại ở đây? – Cha German dò hỏi – Đừng nói với ta là cuối cùng con cũng đến để xưng tội ở tu viện.

– Con e rằng còn sớm để làm việc đó, hoặc có thể đã quá muộn. Con thật sự không biết.

– Phục vụ Chúa thì không bao giờ là muộn cả. Không ai biết nơi mình được dành con đường riêng của Damasco(1). Trong bất cứ trường hợp nào, cha cũng khuyến khích, con có thể rất có ích đối với dòng thánh của chúng ta. Nhưng hãy nói với ta con đến đây vì cái gì vậy?

– Con đến để xin ý kiến cha, – Rojas giải thích, – vì cha là chuyên gia trong các vấn đề phù thuỷ.

– Ta mà là con, ta sẽ không dùng cái giọng chế giễu ấy. Con có biết Chiếc búa của những mụ phù thuỷ nói gì không? – Ông hỏi anh như nói chuyện với một học sinh. – Rằng không tin vào phù thuỷ là lỗi lầm lớn nhất của tà đạo và như vậy, con phải cẩn thận đấy.

– Nhưng chính cha đã nói với con đến hơn một lần rằng hầu như tất cả những điều liên quan đến thuật phù thuỷ đều không nằm ngoài sự mê tín và đơn giản hoá.

– Đúng vậy, – cha German thừa nhận, – có rất nhiều việc người ta coi là của phù thuỷ, nhưng lại là chuyện bịa đặt, kết quả của sự thiếu hiểu biết hoặc có thể được giải thích một cách tự nhiên, nhưng anh bạn ơi, điều ấy không hoàn toàn phủ nhận rằng nó tồn tại.

– Thế cha không tin rằng đằng sau nỗi ám ảnh của phù thuỷ là sự sợ hãi và thù ghét phụ nữ?

– Ta không nói, – cha German đáp với giọng bình tĩnh, – điều ấy không thể xảy ra trong một số trường hợp như trường hợp của hai người thuộc dòng Thánh Domingo không may ấy, nhưng điều dễ thấy nhất là có một số phụ nữ tôn thờ và lập thoả ước với Quỷ sứ để Quỷ sứ cho họ quyền năng ma thuật. Và chính chỗ này, – ông giải thích, – tạo nên sự khác biệt chủ yếu so với những người làm phép bùa ma, vì những người này không phụ thuộc và cũng không tôn thờ Ác quỷ để hành nghề.

– Con e rằng việc nghiên cứu đó, thay vì tạo ra sự tinh tường lại làm cho cha là người cả tin hơn, – Rojas nói đùa -, hay là do tuổi tác?

– Con đã làm một việc không đúng là cười ta. Khi mới bắt đầu nghiên cứu vấn đề này, ta cũng nghĩ như con, nhưng từ lúc đó ta đã xem và đọc rất nhiều thứ và giờ đây ta thấy nó không rõ ràng lắm. Ta không đề cập đến vấn đề bằng cách gì chúng chống lại niềm tin Thiên Chúa giáo và chúng ta phải trừng phạt như thế nào, bởi vì chỉ có Chúa, bằng sự hiểu biết khôn cùng, Người mới có thể phán xử được điều ấy. Này anh bạn, điều làm ta lo lắng nhưng đồng thời lôi cuốn ta là có những hiện tượng bí ẩn vượt khỏi khả năng lý giải của chúng ta. Nhưng thôi, chúng ta không nói chuyện này nữa, nhỡ có kẻ nào thuộc dòng Thánh Domingo ẩn nấp đâu đây, lại đưa hai ta lên giàn hoả thiêu.

Cha German tranh thủ bất cứ dịp nào để tấn công những cha cố thuộc dòng Thánh Domingo vì ông coi họ là những kẻ huênh hoang, kiêu ngạo và rất nguy hiểm. Không một ai lại không biết rằng giữa hai dòng thánh có sự hiềm khích cũ và mối hiềm khích này ngày càng gia tăng theo thời gian. Từ khi ông tới Salamanca vào thế kỷ XIII thì cả giáo phái này lẫn giáo phái kia đều rất nổi tiếng và sau đó họ tranh nhau là chủ sự các di chúc và dĩ nhiên, giành nhau một số ghế của Học viện, mặc dù có nhiều giáo phái và tu viện trong thành phố.

– Điều con sẽ hỏi cha, – Rojas bắt đầu nói, – liên quan đến việc điều tra mà con đang tiến hành để phát hiện ra thủ phạm của một vụ án.

– Sao một người được đào tạo bài bản và thông minh như con lại đi phục vụ công việc điều tra của Hội đồng? Con có đang gặp khó khăn về tài chính không?

– Không phải như thế đâu, con xin khẳng định với cha.

– Vậy như thế nào? cha hỏi lại, mỗi lúc một nghi ngờ hơn.

Rojas có một lúc e ngại vào thời điểm ấy, thời điểm mà cuối cùng anh phải thể hiện sự chân thành với một người bạn cũ và là thầy giáo của mình, anh thận trọng không kể hết tất cả.

– Con sẽ trung thực với cha. Con đang điều tra cái chết của cha Tomas de Santo Domingo do Giám mục uỷ thác.

– Chúa ơi! – cha German, cảm thấy bị xúc phạm, kêu lên. – Con điên à hay là con đã sang phía thù địch và bây giờ đến dụ dỗ ta phải không?

– Không đâu, xin cha hãy nghe con. Có những lý do quan trọng buộc con phải chấp thuận nhiệm vụ này. Không phải nhắc chắc cha cũng nhớ điều kiện phải chấp nhận trong cái ngày mà con cứu bố mình.

– Những thằng cha dòng Domingo thật tồi tệ! – ông kêu lên, tay giơ nắm đấm – Ta đáng lẽ phải mường tượng được điều này, con không biết là ta buồn như thế nào đâu.

– Con còn buồn hơn, nhưng giờ đây con mong muốn kết thúc tất cả chuyện này sớm và trở lại học tập nghiên cứu là điều duy nhất mà thực sự con quan tâm.


– Trong trường hợp như vậy, con sẽ được cha giúp đỡ! – cha German khẳng định.

– Đầu tiên, con muốn biết tờ giấy này gọi cho cha điều gì? Cha có tin là có gì đó liên quan đến thuật phù thuỷ không?

– Cho ta xem. Cái này đây, bên dưới là chữ I, hình như là một chữ thập Hy Lạp tương đối đặc biệt. Còn hình vẽ khác bên cạnh, về hình thức cho thấy có thể là một nghĩa địa hoặc một chiếc thuyền. Những nét gạch ở đây chỉ ra đường đi cần phải tiếp tục sau một mê cung rắc rối để tới một hình tròn cuối cùng ghi dấu chữ C. Dường như tất cả đều thể hiện là một loại sơ đồ.

– Cha có nghĩ rằng chữ I kia biểu tượng cho Địa ngục(2)?

– Có thể như vậy.

– Do đó, chữ C phải chăng là Thiên đường(3)?

– Được, đó là một giả thiết có lý, cha German nhượng bộ nhưng không mấy tin tưởng.

– Như vậy, đó là một con đường khó khăn đi từ Địa ngục tới Thiên đường.

– Ít ra thì đấy là điều mà các mũi tên chỉ ra, mặc dù có thể hiểu nghĩa khác: chữ I có thể là Nhà thờ(4), như một con đường duy nhất có thể đi tới Thiên đường sau khi chết; từ đấy mà có chữ thập và nghĩa địa. Đường mê cung thể hiện sự cám dỗ và những khó khăn cần phải chiến thắng để giành được nó. Trong bất cứ trường hợp nào, rõ ràng đây là một bức vẽ tượng trưng, về nguyên tắc, không thể hiện có gì liên quan đến thuật phù thuỷ. Nhưng, hãy nói cho cha biết việc này liên quan như thế nào đến cái chết của cha Tomas?

– Cái đấy, con chưa thể nói vào lúc này! – Rojas đáp sau một chút do dự.

– Thế còn việc gì khác ta có thể biết được không? – cha German hỏi lại với giọng hơi xúc phạm.

– Vâng còn, kẻ sát nhân đã đặt một đồng tiền trong miệng của cha Tomas.

– Một đồng tiền à?

– Chính xác là một đồng tiền như thế này. – Rojas nói tay đưa cho cha xem đồng bạc kẽm maravedi.

– Ta thấy rồi, ở Học viện, họ không dạy cho con một chút gì về thần thoại à, – cha German bắt đầu nói – Nếu không, con nên biết rằng ở Hy Lạp cổ, người ta chôn người chết với một đồng tiền, chính xác là một đồng bằng bạc đặt ở dưới lưỡi hay bên trên mắt để linh hồn người chết có thể trả cho Charon, người đưa họ bằng thuyền qua bờ bên kia của Suối vàng. Như con biết, cõi ấy ngăn cách giữa thế giới của người đang sống với người đã chết hay là cõi Âm phủ, ở đó Diêm vương thay Chúa trị vì nơi ấy…

– Con biết rõ về Diêm vương và sự cai quản của ông ta. – Rojas nói xen vào – Điều mà con không thấy rõ là mối quan hệ…

– Tất cả đều tuỳ từng lúc, anh bạn thân mến. – cha German bình luận – Giờ đây, điều rõ ràng duy nhất là tội phạm là kẻ có học.

– Con cũng đã kết luận như vậy vì người duy nhất bị nghi ngờ là một sinh viên, mặc dù con mường tượng rằng điều ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với cha.

– Thế con còn chờ gì mà không kể cho cha? – cha German hỏi với giọng trách móc.

– Con chờ cha khẳng định lại, con cám ơn cha điều đó.

– Được rồi. Mặt khác, việc đồng tiền, – cha German nói tiếp, – là một đồng bạc kẽm nên có rất ít giá trị. Ta nghĩ điều ấy chỉ cho chúng ta thấy phẩm chất ít ỏi và sự giả dối của nạn nhân, trong khi nạn nhân là thành viên của Nhà thờ nên trở thành hành động cáo buộc trầm trọng.

– Con phải thừa nhận là không mảy may suy nghĩ tới điều ấy, – Rojas ngạc nhiên bình luận trước lý lẽ của cha cố – Con nghĩ việc đặt đồng tiền là một sự lăng mạ, báng bổ Chúa, một sự sỉ nhục đối với niềm tin Thiên Chúa giáo.

– Được, cái này không thay thế cho cái kia. Việc thay một hình thức thiêng liêng bằng một đồng tiền có ít giá trị, không nghi ngờ gì nữa, là một sự xúc phạm đối với tôn giáo chúng ta, và ở mức độ cao nhất, cái đó lại được làm đối với thi thể của một nhà Thần học danh tiếng mà có thể chúng không để cho ông ta có thời gian thú tội.

– Còn một chi tiết nữa – Rojas thông báo – Thi thể có một vết xước trên mặt.

– Con nói đó là một vết xước cố ý chứ không phải là một vết thương bình thường?

– Đúng vậy! – Rojas khẳng định – Con nghĩ đó có thể là một loại chữ ký hoặc đánh dấu nhằm để lại danh tính an toàn khi mọi người biết vụ giết người. Hoặc có thể là một bức thông điệp gửi cho ai đó. Con chưa biết.

– Có thể là con có lý. Nhưng chữ ký đó, – cha German nói thêm như thể suy xét với giọng to hơn, – chỉ có ý nghĩa nếu tội phạm đã thực thi giết người trước đó hoặc suy tính trở lại hành sự. Còn trường hợp này thì không biết có đúng như thế hay không? – Ông bất ngờ hỏi lại với giọng câu nệ.

Rojas không còn cách gì hơn là phải thừa nhận vị cha cố đã bắt được lỗi của anh. Thực tế, chính anh đã khai ra mà không hay biết. Như vậy, anh không còn cách nào hơn là phải thú nhận nếu như muốn có được sự giúp đỡ của ông.


– Không chỉ riêng cái chết của cha Tomas, – Rojas bắt đầu nói, – mà cũng như thế với cái chết của Thái tử Juan và cô gái nhà chứa, người thi hành trực tiếp hoặc là kẻ đồng loã cần thiết cho vụ án thứ hai.

– Chúa ơi! Tại sao con không nói điều ấy với ta trước?

– Con xin lỗi, – Rojas nhận sai lầm – Con đã hứa với Giám mục là không nói điều này với ai. Về mặt chính thức, Thái tử chết do bị bệnh. Còn đối với cô gái, cô ta chết cách đây vài ba ngày; chính xác đúng vào ngày mà tờ giấy bí hiểm này đến tay con. Tờ giấy được cất giấu trong cái rương đựng quần áo của cô ta ở nhà chứa. Con thực lòng xin lỗi cha…

– Được rồi, được rồi. Giờ chúng ta không nhắc cái đó nữa. Ta hiểu là cả ba nạn nhân đều mang dấu vết ấy có phải không?

– Trong trường hợp của Thái tử, kẻ đầu độc là cô gái tội nghiệp ấy, có thể do bị gã sinh viên kia ép buộc. Nhưng Thái tử vài ngày sau mới chết ở dinh thự của Giám mục. Sau khi an táng, kẻ đó đã bật hầm mộ để đặt đồng tiền và đánh dấu ở mặt, chính bản thân con đã kiểm chứng. Còn đối với cô gái, người ta tìm thấy cô ta bị chét chìm dưới đáy giếng vào một buổi sáng, bị đánh dấu như thế và đồng tiền cũng ở trong mồm, nhưng trong trường hợp này, nằm bên dưới lưỡi.

– Điều này khẳng định giả thiết của ta. – cha German tỏ ra hài lòng.

– Vết đánh dấu ở mặt có gọi cho cha điều gì không? – Rojas hỏi lại.

– Có thể đó là dấu ấn của Quỷ sứ.

– Dấu ấn của Quỷ sứ à?

– Theo như người ta kể, Quỷ thường đánh dấu bằng móng vuốt của mình trên thân thể nạn nhân, thường ở trên mặt. Có thể kẻ giết người muốn chúng ta hiểu rằng, với dấu vết ấy, chúng đã hành động nhân danh Ác quỷ hay chúng có thoả ước với Quỷ sứ.

– Thực sự cha có tin rằng có gì đó ma quỷ đằng sau tất cả những chuyện này không? – Rojas hoài nghi hỏi.

– Điều quan trọng không phải là chúng ta tin, mà là thủ phạm vụ án tin như thế.

– Hay là điều chúng muốn chúng ta tin như vậy.

– Có thể thế, – cha German nhượng bộ. – Thế con có tin vào Quỷ không?

– Không đâu, con không dễ tin như vậy. Con cảm thấy nó không nằm ngoài tật xấu có ở tất cả chúng ta, nhưng chúng ta lại thích nhìn nó bằng một hình hài.

– Giờ con muốn nói với ta rằng chưa một lần nào con bị Quỷ cám dỗ có phải không?

– Giờ khi cha nói điều ấy, con lại nhớ một lần cha khuyên con trở thành thầy tu dòng Thánh Domingo, – Rojas bông đùa, – nhưng con đã thắng sự cám dỗ đó, cha đừng có vội nhé.

– Một ngày nào đó Quỷ dữ thực sự sẽ xuất hiện đối với con, – cha German nhắc nhở với dấu hiệu nghiêm khắc, – mà con không nhận ra nó, lúc ấy ta mới là người cười đấy.

– Quỷ chẳng qua là một hình tượng ví von hay là hiện thân của cái ác.

– Nhưng con biết rõ học thuyết của Nhà thờ về vấn đề này.

– Tuy nhiên, cha nên nhớ rằng sự tồn tại của Quỷ chưa được đề cập như một niềm tin giáo lý của Nhà thờ cho đến Hội nghị Giáo hội Letran lần thứ tư, vào khoảng năm 1215, cách đây gần ba trăm năm.

– Làm sao mà ta quên được khi chính hội nghị đó đã khẳng định quy chế của dòng thánh chúng ta. Con cũng biết người sáng lập của chúng ta có mặt trong hội nghị ấy.

– Và cả Thánh Domingo de Guzman. – Rojas đáp.

– Đúng vậy, ở đấy họ quen nhau; tuy nhiên không thể làm bạn tốt của nhau, như con có thể hình dung thấy được. Theo như người ta kể, ông này mạnh bạo đề nghị với Thánh Francisco sáp nhập hai giáo phái làm một, nhưng Francisco cho rằng đối với Nhà thờ, tốt hơn là cần duy trì hai phái. Từ lúc ấy, sự thù địch và bất hoà nảy sinh giữa chúng ta. Mặt khác, không một ai lại không biết rằng Thánh Domingo de Guzman là một trong những người có trọng trách lập ra Toà án Giáo hoàng ở một số vương quốc. Từ đấy về sau, những người thuộc dòng Thánh Domingo triển khai những khía cạnh thực tế của toà án.

– Con xin nhắc cha rằng những người thuộc dòng Thánh Francisco cũng có cái phải nhìn nhận trong đó.

– Nhưng cái đó mãi về sau, – cha German chỉnh lại – và với ý đồ duy nhất là chống lại sự thô bạo và tàn ác của những kẻ thuộc giáo phái Domingo.

– Trở lại với vấn đề Quỷ sứ…


– Ta thấy điều ấy vẫn đeo đuổi con, ông đáp với giọng châm biếm. Con có định thảo luận về điều mà người ta khẳng định bởi những chữ viết trên đó không?

– Nhưng ở đó không nói cho chúng ta về tính chất và điều kiện gì cả.

– Đấy là điều xấu của những người đọc Kinh thánh bằng cách riêng nguy hiểm của mình và không có sự chuẩn bị chu đáo. Họ không bao giờ vươn tới ý nghĩa đích thực của từ ngữ và chỉ tìm những gì mà họ muốn thấy.

– Dù thế nào chăng nữa, cha đã thống nhất với con là đôi khi nên quay trở lại với văn bản gốc.

– Không, chỉ khi nào điều người ta đề cập là một số giáo lý cơ bản của lòng tin.

– Giờ đây cha đang nói, – Rojas cảnh báo, – y như một trong những thầy tu của dòng Domingo, giáo phái mà cha ghét cay ghét đắng. Chỉ còn thiếu là cha yêu cầu phải đưa lên giàn thiêu đối với những kẻ không suy nghĩ giống như cha.

– Điều ấy thì con nhầm rồi, thầy tu dòng Thánh Francisco bào chữa. Điều chỉnh không phải là trừng phạt.

– Bất đồng cũng không có nghĩa là phạm phải tà giáo hay bỏ đạo! – Rojas lên án mạnh mẽ.

– Ta đã quên, – cha German thừa nhận, – là con rất giỏi trong tranh luận pháp lý và Thần học. Không ai han được con. Nhưng trong trường hợp này, ta rất tiếc là con không đúng sự thật.

– Dù sao chăng nữa, điều giờ đây con quan tâm không phải là vấn đề Thần học, mà là tóm được kẻ sát nhân đã giết hại vài người và còn có thể tiếp tục hành sự nữa.

– Vậy chúng ta hãy xem xét có thể lập ra mối liên hệ giữa vết đánh dấu, đồng tiền và sơ đồ để phát hiện ra kẻ sát nhân mà theo con, chúng ta chỉ biết đó là một gã sinh viên hay không, về vết đánh dấu, ta vừa nhớ ra trong tiếng Hy Lạp có từ óbolo (như con biết, từ này xuất xứ từ từ óbolo trong tiếng Tây Ban Nha, thông qua từ obôlus của La tinh và ta vừa chỉ cho con nó giống từ abolus, trong tiếng Hy Lạp là apolo(5). Với từ này, trong thời Helena, người ta đặt tên cho một ký hiệu mà các nhà ngôn ngữ học thời Alexandria thường dùng trong các ghi chép cổ. Đó là từ obole tiếng La tinh là obelus, tiếng Tây Ban Nha là óbelo hay obelo. Ký hiệu ấy gồm một nét ngang ở lề trái của tờ giấy mà người ta dùng để chỉ một đường giả mạo hay đoạn thêm giả tạo trong các tác phẩm của Homero và sau đó là của các tác giả khác. Như vậy, một lần nữa, dường như tội phạm nói với chúng ta rằng nạn nhân là những kẻ giả dối hay thối nát và, do vậy, xứng đáng nhận một cái chết ô nhục nhất.

– Thế có cách gì làm cho tất cả những điều này khớp với sơ đồ không?

– Như con đã thấy, kẻ tội phạm dường như rất tường tận thế giới Hy Lạp và từ đấy chúng ta cần tìm ra sợi dây liên hệ. Ngay từ đầu, việc xuất hiện một chữ thập Hy Lạp thay vì chữ thập La tinh trên tờ giấy là có ý nghĩa, mặc dù việc này có thể là ngẫu nhiên và chẳng nói lên điều gì cả. Dĩ nhiên, điều dường như không còn nghi ngờ là hai dấu vết để lại trên thi thể nạn nhân đưa ra bài học hoặc ý nghĩa kép vì có thể hiểu chúng qua ký hiệu Hy Lạp, cũng như ký hiệu Thiên Chúa giáo. Như vết đánh dấu trên mặt có thể là chữ ký của Alexandria để chỉ sự giả dối của một văn bản hay là vết đánh dấu nổi tiếng của Quỷ sứ. Trong khi đó, đồng tiền trong miệng nạn nhân có thể hiểu như một dịch vụ trả cho Charon hay một sự xúc phạm đối với Chúa Jesus hoặc cả hai cùng một lúc. Ta biết điều này đối với con như đánh đố, nhưng theo tất cả các dấu hiệu cho thấy, sơ đồ đề cập đến một nơi trong thành phố có liên quan đến thế giới Hy Lạp hay thế giới không tín ngưỡng và đồng thời cũng liên quan đến đạo Thiên Chúa và, cụ thể hơn, đến Quỷ sứ.

– Thế cha có nghĩ đến một địa danh nào đó trong đầu không? – Rojas hỏi, cố che giấu sự sốt ruột.

– Từ một lúc lâu rồi, có một địa danh cứ luẩn quẩn trong óc ta.

– Liệu con có thể biết đó là nơi nào không?

– Ta xin lỗi vì đã hứa với tội phạm là sẽ không kể với ai. – ông nói vờ như giận dữ.

– Con biết cha chẳng vừa ý chút nào việc con muốn duy trì lời hứa giữ bí mật.

– Nhưng con còn chờ đợi gì nữa? Con đến đây gặp ta sau khi chúng ta không gặp nhau, ta không biết đã bao lâu rồi, để yêu cầu ta giúp giải quyết điều bí ẩn và sau đó ta biết là con đã giấu ta điều quan trọng nhất. Thế mà con lại muốn ta vui được sao?

– Con đã xin lỗi cha rồi và cuối cùng con đã kể tất cả với cha. Con có thể làm gì hơn nữa? Con nghĩ là cha đang xử sự như một đứa trẻ.

– Điều con còn thiếu đối với cha, trên hết, là lòng kính trọng. Con gặp may là quy chế của dòng Thánh Francisco yêu cầu chúng ta giúp thiện trả ác, thậm chí đối với cả kẻ thù tồi tệ, nếu không thì… Cuối cùng, ta không hiểu con có biết về một huyền thoại cổ kể rằng Hercules, vị thần không tín ngưỡng có sức mạnh phi thường mà người Hy Lạp gọi là Heracles, khi đi công cán ngang qua vùng này, đã cắm đất lập ra cơ sở mà sau này gọi là Học viện Salamanca, nơi dạy tất cả các môn khoa học. Để làm việc đó, Ngài đã đào một cái hang sâu trong kho của mình và đặt vào đó những mã số khác nhau thuộc bảy môn nghệ thuật tự do, được gọi là tam tài và tứ tài, những môn mà con đã được học ở trườngẻ Sau đó, Ngài hiệu triệu tất cả dân chúng quanh vùng đi học, nhưng số dân đó còn hoang dã và thô thiển nên không đánh giá hết được điều kỳ diệu ấy. Do vậy, Hercules quyết định tiếp tục công việc của mình và để lại ở trong hang một bức tượng của Ngài, như một vật thay thế. Bức tượng này có biệt tài trả lời tất cả các câu hỏi dù khó đến mấy. Thực tế, những người quanh vùng kéo đến tham vấn, như hỏi một người uyên bác hay hỏi chính bà tiên Sibila. Với hình thức này, Học viện duy trì năng động trong nhiều thế kỷ, nhưng sau hình như mất đi khi Thánh tông đồ Santiago đến Tây Ban Nha và cải đạo tất cả mọi người để họ có niềm tin thật sựễ Đấy là nguồn gốc thần thoại của Học viện Nghiên cứu Tổng hợp chúng ta như tác giả Raoul Le Fevre đã kể trong cuốn sách thứ hai Chuyện dã sử thành Troye(6), sáng tác năm 1464.

– Một nguồn chỉ ra rằng ở Salamanca, – Rojas bị lôi cuốn đưa ra nhận xét – trường Đại học được thành lập trước thành phố.

– Tuy nhiên, – cha German lại nói tiếp, – có một số sách khác cổ hơn chỉ ra rằng để thực hiện công việc cuối cùng là xuống địa ngục tìm con chó Cerbero, Hercules đã mở một con đường đi thẳng tới âm phủ qua cái hang nổi tiếng ấy, một con đường mà nhiều năm về sau bị Ác quỷ lợi dụng để đến miền đất này nhằm dạy và truyền bá chống lại niềm tin của chúng ta. Vì vậy, trong năm 1102, sau khi những người Thiên Chúa giáo chinh phục hoàn toàn Salamanca, lúc Raimundo de Borgona đến đây với những cư dân đầu tiên thì bắt đầu đồn đại rằng chính Quỷ sứ dạy phép chiêu hồn và những môn khoa học cấm bên trong hang. Và thế là sự hấp dẫn của cái hang ma quỷ ấy lan ra cả trong và ngoài thành phố, tới mức mà giữa thế kỷ XII Giám mục Berengario quyết định xây dựng Nhà thờ lớn ngay bên trên cái hang đó. Thực tế, trong tu viện của nhà thờ, trường Đại học đã được Vua Alfonso IX de Leon nhanh chóng thành lập vào năm 1218. Bằng cách đó, họ định xoá sổ một địa điểm liên quan đến việc thờ cúng Quỷ thần, ngoài việc địa điểm đó còn có xuất xứ xưa kia là nơi không tín ngưỡng, tạo ra mối nguy hiểm gấp đôi. Nhưng, dường như đấy không phải là con đường duy nhất vào hang, bởi ngay sau đó, người ta nói về những lối vào khác ở hai phía khu đồi mà bên trên dựng lên Nhà thờ lớn. Một trong những lối vào nằm ở phía Tây, trên khối đá nơi trước kia là nhà thờ Alcazar, bị phá huỷ bởi sắc lệnh của Vua năm 1472, như con đã biết. Và vì vậy, nó rất gần với hội đồng Do Thái cũ. Trong khi đó, một lối vào khác nằm ở sườn dốc phía Đông, bên cạnh bức tường La Mã cổ. Trên lối vào đầu tiên, người ta xây dựng nhà thờ Thánh Juan del Alcazar và trên lối vào thứ hai là nhà thờ Thánh Cebrian, nơi giờ đây lại có lời đồn đại mạnh hơn về một huyền thoại khác, mặc dù không đề cập trực tiếp đến Hercules và sự nghiệp của ông, mà gắn với một hình ảnh gần đây về cả thời gian và không gian, nhưng thực ra là ông ta chưa bao giờ hiện diện bằng xương bằng thịt ở Salamanca. Ta đang nói đến Enrique de Aragon hay de Villena, giống như Virgilio, ông ta rất nổi tiếng về ma thuật và chiêu hồn nên không phải ngẫu nhiên mà ông viết tác phẩm với tên gọi Mười hai sứ mệnh của Hercules năm 1417.

– Trong những tác phẩm của ông, có tuyệt tác Bàn về thuật chiêm tinh và vở Hài kịch lược dịch của Dante, nhưng ông có vai trò gì trong chuyện này? – Rojas hỏi, rất ngạc nhiên được gặp lại tên tuổi một tác gia nổi tiếng.

– Theo truyền thuyết mới này, ông Enrique là một trong bảy học trò tham dự lớp của Quỷ sứ trong bảy năm dưới ánh sáng của một ngọn nến không cần sáp, trong hang bên dưới nhà thờ Thánh Cebrian. Nhưng khi kết thúc lớp học, như quy định, ông phải ở lại trong hang để chỉ trả những điều đã học. Tuy nhiên, ông thoát được ra ngoài nhờ sự ranh mãnh và thông minhệ Một số nói rằng ông ẩn trong một cái bình hoặc cái chum, còn số khác cho rằng ông nấp sau bàn thờ đợi lúc trời tối. Sự thực là khi ông chuẩn bị ra khỏi đền thì Quỷ sứ xuất hiện và nấp trong bóng của Enrique, sau đó biến mất hút.

Điều cuối cùng ta muốn nói với con là có thể sơ đồ có liên quan đến huyền thoại nổi tiếng ấy, trong đó thế giới không tín ngưỡng và việc thờ Ác quỷ lẫn lộn và cùng chung sống trong một khung cảnh, một cái hang mà hình như nối trực tiếp với chính địa ngục hay âm phủ. Có thể, với tất cả điều này, cái duy nhất mà gã sinh viên kia muốn làm là tán dương tội ác của mình hay đon giản chỉ là tạo ra cảnh hỗn độn hơn, nhưng ta không thể không nhìn thấy hắn như một Abadon(7) hay một Thiên thần Huỷ diệt, đến từ địa ngục sâu thẳm để trả thù hay mang theo linh hồn của những kẻ, mà theo hắn, nổi tiếng vì điều ác. Cuối cùng, hãy nói cho ta biết con có ý kiến gì về tất cả những điều này? – cha German hỏi trong khi Rojas đang trong tư lự.

– Nếu chân thành mà nói thi đây không phải lần đầu tiên con nghe kể về cái hang thú vị và huyền thoại nổi tiếng ấy, nhưng chưa bao giờ con nghĩ rằng lại có một nguồn gốc thần thoại và đồng thời một cơ sở thực tế như thế.

– Tất cả những thần thoại và huyền thoại, anh bạn ạ, đều có nền là sự thật. Và đằng sau mỗi huyền thoại, lại có một truyền thuyết khác cổ hơn, giống như dưới một ngôi đền Thiên Chúa giáo, luôn có một cái đền khác của một đạo không tín ngưỡng hay một hình thức tôn thờ ma thuật, tâm linh hay quỷ sứ, cha German nói thêm với điệu bộ chế giễu. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người vẫn cho rằng Salamanca là một thành phố ảo thuật.

– Rất may, – Rojas tuyên bố, – không phải ảo thuật mang lại cho Salamanca sự nổi tiếng và uy tín, mà chính trường Đại học.

– Thế ai đã nói với con rằng trong những sinh viên đến đây hằng năm, nhiều người lại không tìm kiếm những kiến thức rất khác so với những gì mà trường Đại học vẫn thường dạy và rất đỗi tự hào? Thực ra, có một số môn dạy trong Học viện không phải là không có tiếng xấu. Không phải nói đâu xa, Thuật chiêm tinh, môn mà con rất thích, có một số nội dung đáng nghi ngờ.

– Chính vì lẽ ấy, – Rojas bình luận, – phần lớn cái mà nhiều người tin là ma thuật, lại chỉ đon thuần là thuật chiêm tinh.

– Và thật không dễ dàng gì, anh bạn ạ, có thể phân tách rõ ràng giữa cái này với cái kia trong phạm vi hiểu biết. Những công tố viên, dường như họ cố ý đánh lộn sòng tất cả, vì đục nước, béo cò. Cuối cùng, con có biết biển hiệu mà trung tâm giáo dục muốn đặt ở cổng trường như thế nào không? Salamanca là trung tâm hàng đầu giảng dạỵ tất cả các môn khoa học. Ta nghĩ gồm cả các môn học bị cấm đoán và các môn…

– Nhưng chúng ta hãy trở lại điều quan trọng hơn, – Rojas nôn nóng cắt ngang – Nếu như con không hiểu lầm thì cha tin rằng thật sự có một cái hang thú vị ấy và thậm chí sơ đồ này có thể dẫn tới hang đó, có phải không?


– Ta cho rằng đúng thế, – vị cha cố trả lời rất tự nhiên.

– Chúng ta giả thiết rằng chữ C là cái hang(8), vậy chữ I là cái gì?

– Rõ ràng không đề cập tới Nhà thờ(9) như một tổ chức như lúc đầu ta đã nghĩ, mà là một nhà thờ riêng, một đền thờ.

– Trong trường hợp ấy, chúng ta, về nguyên tắc, có ba ứng cử viên. Cha có nghĩ rằng đó là Nhà thờ lớn?

– Theo những gì mà con đã kể với ta, đấy là nơi họ đã giết cha Tomas và cũng là nơi sau khi an táng, Thái tử bị một gã sinh viên đánh dấu vào mặt. Nhưng nếu thật sự là nhà thờ được xây dựng bên trên cửa chính của hang thì dường như không thể có lối vào ở đấy.

– Chắc chắn, – Rojas đột nhiên lưu ý, – con không biết là cha có biết về mâu thuẫn giữa Giám mục và Hội đồng giáo hội về địa điểm xây dựng nhà thờ mới không? Điều mà không nghi ngờ gì sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của nhà thờ hiện tại. Theo người ta đồn đại, Hội đồng giáo hội muốn rằng đầu tiên phải phá bỏ nhà thờ cũ và sau đó xây dựng nhà thờ mới trên nền đất cũ, chiếm cả phần đất mà hiện tại thuộc tu viện và có thể thêm một phần dinh thự của Giám mục. Tuy nhiên, Giám mục hết sức cố gắng giữ nguyên nhà thờ hiện tại và xây một nhà thờ khác ở bên cạnh. Tăng viện trưởng nghĩ rằng có thể được vì thấy việc xây dựng không ảnh hưởng đến dinh thự của ông. Nhưng có thể điều ông ta không muốn là người ta phát hiện trở lại lối chính đi vào hang.

– Điều ấy khẳng định, anh bạn Rojas, rằng lối vào ấy hiện vẫn được giữ gìn cần mật.

– Vậy chúng ta còn hai nhà thờ.

– Thường thì trên bản đồ, phần trên cùng là thuộc hướng Bắc, phía phải là thuộc hướng Đông. Tất cả đều chỉ theo hướng nhà thờ Thánh Cebrian, phù hợp với thực tế rằng chính ở nơi đó nảy sinh ra huyền thoại.

– Cứ cho đó là đền thờ, vậy con cần phải tìm gì ở đấy?

– Ta mường tượng rằng một cái cửa hay cửa thông tầng của lối vào hang.

– Nhưng, ở đâu? – Rojas nóng ruột hỏi.

– Như con biết, nhà thờ được xây dựng trên dốc Carvajal. Như vậy, chúng lợi dụng độ dốc để làm một cái hầm phía trong cùng, dưới điện thờ trung tâm, sát với hàng rào cũ. Đầu tiên, người ta dùng như kho để đồ thánh, sau này là nơi để mai táng. Nếu có một lối vào nào đó thì phải là ở đấy.

– Cha còn ý gì khác nữa không?

– Ta biết là chính ta đã đưa con vào con đường này và, vì vậy, giờ đây ta cảm thấy hơi có lỗi. Do vậy, ta mong con hãy hết sức cẩn thận, có thể tất cả những điều này không ngoài một cạm bẫy hay một chỉ dẫn giả tạo.

– Nếu đúng như cha gọi ý thì con thấy không phải ngẫu nhiên sơ đồ đến tay con, mà kẻ sát nhân muốn như vậy.

– Có thể là lời thách đố. Đối với gã sinh viên kia, có thể hắn thích thể hiện hắn ta là kẻ ranh mãnh và do vậy muốn thách thức con. Như vậy, từ bây giờ con phải hành động thận trọng hơn.

– Nếu sự thật như cha nói, con sẽ phải bất ngờ tóm hắn.

– Chỉ khi nào hắn không tóm được con trước.

– Đã rất muộn rồi, – Rojas quan sát qua cửa sổ căn phòng – Cha đã giúp con rất nhiều, con không biết cám ơn cha như thế nào đây.

– Đừng làm bất cứ điều gì ngốc nghếch và thông báo cho ta tin tức tất cả những việc xảy ra.

– Con bảo đảm sẽ sớm gặp lại cha.

– Điều ấy con đã nói trong lần gặp gần đây nhất, – cha German không thể cưỡng nổi việc mắng Rojas câu cuối cùng, mặc dù câu mắng đi kèm với một vòng tay ôm choàng lấy Rojas. – Hãy bảo người gác cửa đưa cho con một ngọn đuốc – ông nói thêm trời sắp tối rồi.

Chú thích

(1) Một thành phố của Syri.

(2) Infierno.

(3) Cielo.

(4) Iglesia.

(5) Tiền.

(6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: le Recueil des Histoires de Troye.

(7) Địa điểm huỷ diệt.

(8) Cueva.

(9) Iglesia.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.