Bá Tước Dracula

Chương 25: Nhật ký của mina harker


Đọc truyện Bá Tước Dracula – Chương 25: Nhật ký của mina harker

Ngày 1 tháng Mười Một. – Chúng tôi đi suốt cả ngày dài, và với tốc độ rất nhanh. Lũ ngựa có vẻ biết rằng chúng đang được đối xử tốt, nên chúng sẳn lòng phónng nước đại suốt. Chúng tôi đã có biết bao thay đổi, và cùng có một mục tiêu bất biến khiến chúng tôi như được khuyến khích để nghĩ rằng cuộc hành trình chỉ là một công việc dễ dàng. Bác sĩ Van Helsing rất ngắn gọn với những người tá điền rằng ông ta đang vội đến Bistriz, và trả hậu cho họ để thay đổi ngựa. Chúng tôi ăn súp nóng, hoặc cà phê, hoặc trà, và rồi chúng tôi lại đi tiếp. Đây thật là một đất nước dễ thương. Tất cả như được phủ đầy bởi những bức tranh tuyệt đẹp, và mọi người thì can đảm, khoẻ mạnh, đơn giản, và có vẻ như toàn là những đức tính tốt đẹp. Họ rất, rất mê tín. Tại căn nhà đầu tiên chúng tôi dừng chân, khi người phụ nữ phục vụ chúng tôi thấy vết sẹo trên trán tôi, bà ấy làm dấu thánh và đưa hai ngón tay về phía tôi, để giữ tôi tránh xa khỏi mắt quỷ dữ. Tôi tin rằng họ gặp vấn đề vì đã cho quá nhiều tỏi vào trong thức ăn, và tôi thì không thể chịu đựng tỏi được. Mỗi lần như vậy tôi đều tập trung vào việc không giở nón và mạng che ra, và nhờ đó tránh được sự nghi ngờ của họ. Chúng tôi đi rất nhanh, và chúng tôi không mang theo tài xế để khỏi phải chuyên chở theo những giai thoại, chúng tôi đã vượt lên các scandal. Nhưng tôi dám nói rằng nỗi sợ hãi về con mắt quỷ dữ vản theo chúng tôi suốt trên cả đoạn đường. Giáo sư hình như là không hề biết mệt. Cả ngày ông ấy chẳng hề nghỉ ngơi, dù ông ấy đã làm cho tôi ngủ suốt. Vào lúc hoàng hôn ông ấy thôi miên tôi, và ông ấy nói rằng tôi đã trả lời như thường lệ, “bóng đêm, nước vỗ và tiếng gỗ khua.” Như vậy là kẻ thù của chúng tôi vẩn đang ở trên sông. Tôi sợ nghĩ về Jonathan, nhưng lúc này tôi có phần nào không lo cho anh ấy, hay là cho tôi. Tôi viết những điều này trong khi chúng tôi đợi tại một ngôi nhà nông dân chờ khi ngựa được chuẩn bị xong. Bác sĩ Van Helsing đang ngủ. Con người tội nghiệp thân yêu, ông ấy trông rất mệt, già và xanh xao, nhưng môi ông ấy mím chặt như một người chinh phục. Thậm chí trong giấc ngủ ông ấy cũng đang tập trung tìm giải pháp. Khi chúng tôi khởi hành tôi để ông ấy ngủ trong khi tôi đánh xe. Tôi sẽ nói với ông ấy rằng chúng tôi còn phải đi nhiều ngày, và ông ấy phải không được ngã quỵ vì sức khoẻ của ông ấy là rất cần thiết… Tất cả đã sẳn sàng. Chúng tôi nhẹ nhàng lên đường.

Ngày 2 tháng Mười Một, buổi sáng. – Tôi đã thành công, và chúng tôi đã thay nhau lái xe suốt đêm. Bây giờ thì ban ngày đã đến với chúng tôi, rực rỡ dù lạnh băng. Không khí có vẻ nặng nề một cách lạ lùng. Tôi nói nặng nề để muốn nói về một từ khác tốt hơn. Tôi muốn nói đến áp lực đang đè nặng hai chúng tôi. Trời rất lạnh, và chỉ có những chiếc áo lông ấm áp mới có thể giữ cho chúng tôi dễ chịu. Đến bình minh thì Van Helsing thôi miên tôi. Ông ta nói tôi trả lời “tối tăm, tiếng gỗ khua và nước réo,” vì con sông đang chảy đến đoạn đổ thác. Tôi hy vọng rằng người yêu của tôi không rơi vào một trường hợp nguy hiểm hơn, nhưng chúng tôi đang ở trong tay của Chúa.

Ngày 2 tháng Mười Một, đêm. – Cả một ngày dài đánh xe. Đất nước này nhìn càng hoang dại hơn khi chúng tôi đi, và mũi núi lớn của dãy Carpathians đã hiện ra, làm cho Veresti càng có vẻ như xa khỏi chúng tôi và nằm thấp dưới đường chân trời, bây giờ chúng tôi có vẻ như đang bị vây quanh bởi một ngọn tháp trước mặt. Cả hai chúng tôi đều phấn chấn. Tôi nghĩ chúng tôi mỗi người đang cố vực tinh thần người kia, và làm như vậy chúng tôi đang cỗ vũ chính mình. Bác sĩ Van Helsing nói vào buổi sáng rằng chúng tôi sẽ đến Borgo Pass. Những ngôi nhà bây giờ đã ít thấy, nên chúng tôi không thể thay đổi ngựa. Ông ấy mang thêm hai con vào hai con chúng tôi đã đổi, nên bâu giờ chúng tôi có trong tay bốn con ngựa một cách khá lạ. Những chú ngựa thân yêu khá kiên nhẫn và tốt bụng, và chúng chẳng gây cho chúng tôi rắc rối gì. Chúng tôi chẳng phải lo gì về những khách du hành khác, vì vậy thậm chí tôi có thể đánh xe. Chúng tôi sẽ vượt qua Pass vào buổi sáng ngày. Chúng tôi không muốn đến đấy trước lúc đó. Vì vậy chúng tôi thong thả, và thay nhau nghỉ ngơi một lúc lâu. Ôi, ngày mai sẽ mang lại cho chúng tôi điều gì? Chúng tôi đang đến vùng đất mà người yêu tội nghiệp đã chịu nhiều đau khổ. Chúa muốn rằng chúng tôi có thể được chỉ dẩn bởi những điều phải, và Người sẽ rủ lòng thương để trông xuống chồng tôi và những người thân của cả hai chúng tôi, và cho những ai đang ở trong vòng nguy hiểm ghê gớm. Còn cho tôi, tôi không đáng cho Người quan tâm. Than ôi! Tôi không còn trong sạch trong mắt Người, và sẽ còn như thế cho đến khi có thể Người động lòng để cho tôi có thể đứng trước Người như một người không phải gánh chịu những thịnh nộ của Người.

NHỮNG BẢN GHI CỦA ABRAHAM VAN HELSING

Ngày 4 tháng Mười Một. – Những điều ghi này dành cho người bạn cũ và chân thật John Seward, M.D, ở Purefleet, London, trong trường hợp tôi không còn gặp anh ấy nữa. Điều này có thể giải thích được. Đây đang lúc buổi sáng, tôi đang viết bên đống lửa mà tôi đã giữ cho cháy suốt đêm, bà Mina giúp tôi. Trời rất lạnh, lạnh lắm. Lại đến nỗi bầu trời nặng nề màu xám đầy những tuyết, và khi nó rơi nó làm cho mặt đất mùa đông trở nên cứng rắn để đón nhận nó. Điều này có vẻ đã ảnh hưởng đến bà Mina. Bà ấy trở nên nặng đầu suốt cả ngày và đâm ra cáu kỉnh với bản thân. Bà ấy ngủ, ngủ và ngủ! Bà ấy không tỉnh táo như thường lệ, và hầu như chẳng làm gì trong suốt cả ngày. Bà ấy thậm chí không còn thèm ăn nữa. Bà ấy không ghi thêm một mục nào trong nhật ký, trong khi ở mỗi lần dừng bà ấy đã viết rất đều đặn. Có cái gì đó mách bảo với tôi rằng điều đó không tốt. Tuy nhiên, vào đêm thì bà ấy sống động hơn. Cơn ngủ dài suốt cả ngày đã giúp bà ấy tươi tỉnh và phục hồi lại, bây giờ bà ấy lại càng dịu dàng và tươi sáng hơn bao giờ. Vào lúc hoàng hôn tôi cố thôi miên bà ấy, nhưng than ôi! không hiệu lực gì. Năng lực đang mất dần đi mỗi ngày, đến đêm nay thì tôi hoàn toàn thất bại. Tốt, Chúa sẽ làm tất cả những gì có thể làm và dẩn mọi chuyện đến bất kỳ nơi đâu Người muốn.

Bây giờ thì trở về lịch sử một chút, vì khi bà Mina không viết bằng phương pháp tốc ký của bà ấy, tôi phải cáng đáng cái công chuyện nặng nề này, vì mỗi ngày trôi qua của chúng tôi không thể không ghi lại được.

Chúng tôi đến Borgo Pass chỉ sau khi mặt trời lên vào sáng hôm qua. Khi tôi thấy dấu hiệu của bình minh tôi đã sẳn sàng để thôi miên. Chúng tôi dừng xe lại, xuống xe để không gây nên một sự xáo trộn nào. Tôi làm một giường bằng lông thú, và bà Mina nằm lên, tự bản thân mình tuân theo như thường lệ, nhưng chậm chạp và trong thời gian ngắn hơn bao giờ hết vào giấc ngủ thôi miên. Như trước đây, câu trả lời đến là, “tối tăm và tiếng nước cuốn.” Rồi bà ấy tỉnh giấc, tươi tỉnh và hớn hở, và chúng tôi tiếp tục đi và nhanh chóng đến Pass. Đến lúc này và ở nơi này, nàng trở nên hừng hực với tất cả nhiệt tình. Có một năng lực mới rõ ràng xuất hiện ở bà ấy, vì bà ấy chỉ vào con đường và nói, “Chính là đường này.”

“Làm sao bà biết được?” tôi hỏi.

“Tất nhiên là tôi biết’ bà ấy trả lời, với một cái ngừng, thêm vào, “Chẳng phải là Jonathan của tôi đã đi qua và viết lại chuyến đi của anh ấy đó sao?”

Đầu tiên tôi nghĩ rằng điều này có phần lạ lùng, nhưng tôi sớm thấy rằng chỉ có một con đường như vậy. Nhưng nó rất ít khi được dùng, và rất khác với con đường xe khách từ Bukoniva đến Bistriz, rộng và chắc chắn hơn, và thường được dùng hơn.

Do đó chúng tôi đi xuống con đường này. Khi chúng tôi thấy những con đường khác, không phải lúc nào chúng tôi cũng chắc chắn chúng là những con đường, vì chúng có vẻ hoang phế và đóng đầy tuyết trắng, lũ ngựa biết và chúng chỉ đi theo con đường đúng. Tôi thả dây cương cho chúng, và chúng tiếp tục kiên nhẫn phóng đi. Chúng tôi lần lần được thấy những điều Jonathan đã mô tả trong cuốn nhật ký tuyệt diệu của anh ta. Và chúng tôi đã đi rất lâu, những giờ dài nối tiếp nhau. Đầu tiên tôi nói bà Mina đi ngủ. Bà ấy thử và thành công. Bà ấy ngủ suốt, ngủ đến nỗi cuối cùng tôi thấy nỗi nghi ngờ của mình tăng lên, và cố đánh thức bà ấy. Nhưng bà ta tiếp tục ngủ, và tôi không thể đánh thức được dù tôi đã cố. Tôi không muốn thử mạnh tay để không làm bà ấy đau. Bây giờ thì tôi biết là bà ấy rất mệt, và giấc ngủ lúc này là tất -cả – của – tất – cả đối với bà. Tôi nghỉ là bản thân tôi cũng ngủ lơ mơ, vì thình *** h tôi cảm thấy sai quấy, như thể tôi đã làm cái gì đó. Tôi thấy tự bản thân mình giật bắn lên, với cương vẩn trong tay, và lũ ngựa khoẻ vẩn đều đều gióng bước, gióng bước như thường lệ. Tôi nhìn xuống và thấy bà Mina vẩn ngủ. Từ lúc này đến hoàng hôn không còn lâu nữa, và trên nền tuyết trắng sáng rực lên ánh mặt trời làm vàng rực cả một vùng. vì chúng tôi đang đi vào một vùng bóng đen dài của những ngọn núi đang nối nhau vươn cao. Khi chúng tôi đi lên, đi lên, và tất cả thì ôi, đầy hoang dã và toàn là đá, giống như đây là nơi tận cùng của thế giới.

Tôi bèn đánh thức bà Mina. Lần này bà ấy thức dậy mà chẳng gặp rắc rối gì, và tôi cố thôi miên cho bà ấy ngủ. Nhưng bà ấy không ngủ, giống như là tôi chẳng làm gì cả. Tôi vẩn cố thêm, cho đến khi tôi thấy cả tôi và bà ấy đều chìm vào bóng đêm, và tôi nhìn quanh, thấy rằng mặt trời đã lặn mất rồi. Bà Mina phá lên cười, và tôi quay lại nhìn bà ấy. Bà ấy bây giờ trông rất tỉnh táo, và tôi chưa bao giờ nhìn thấy bà ấy khỏe mạnh như vậy kể từ lúc chúng tôi lần đầu đột nhập vào nhà bá tước. Tôi kinh ngạc và cảm thấy không thoải mái với chuyện này. Nhưng bà ấy trông tươi tỉnh,dịu dàng và trầm lắng với tôi đến nỗi tôi quên đi nỗi sợ. Tôi khơi một ngọn lửa, để chúng tôi đi tìm củi chung quanh, và bà ấy chuẩn bị thức ăn trong khi tôi tháo ngựa và cho chúng ăn trong phạm vi chuồng trại. Sau đó tôi quay về với đống lửa, bà ấy đã chuẩn bị sẳn sàng bữa tối. Tôi giúp bà ấy, nhưng bà ấy mỉm cười, và nói với tôi rằng bà ấy đã ăn rồi. Rằng bà ấy rất đói và bà ấy không đợi được. Tôi không thích chuyện này, và tôi rất nghi ngờ. Nhưng tôi sợ làm bà ấy kinh hoảng, nên tôi giữ im lặng. Bà ấy giúp tôi và tôi ăn một mình, sau đó chúng tôi cuộn trong những tấm lông thú và nằm cạnh đống lửa, và tôi nói bà ấy ngủ trong khi tôi trông chừng. Nhưng liền đó tôi quên sạch ngay chuyện trông chừng. Và khi tôi chợt nhớ ra chuyện trông chừng, tôi thấy bà ấy nằm lặng lẽ, nhưng tỉnh táo, và nhìn tôi bằng đôi mắt sáng rực. Một, hai lần như vậy, và tôi ngủ thẳng giấc đến tận lúc trời sáng. Lúc tôi tỉnh giấc tôi cố thôi miên bà ấy, nhưng than ôi! Dù bà ấy tuân theo lệnh tôi nhắm mắt lại, bà ấy vẩn không thể ngủ được. Mặt trời mọc lên, và lên cao, cao nữa, và rồi giấc ngủ đến với bà ấy một cách muộn màng, nhưng nặng nề đến nỗi bà ấy chẳng hề thức giấc. Tôi phải nâng bà ấy lên, và đặt bà ấy vẩn còn ngủ vào xe khi tôi thắng yên cương cho lũ ngựa và chuẩn bị sẳn sàng. Bà ấy vẩn ngủ, và trông giấc ngủ bà ấy trông càng khoẻ mạnh và hồng hào hơn bao giờ hết. Và tôi không thích như vậy. Và tôi sợ, sợ, sợ! Tôi sợ tất cả mọi điều, thậm chí nghĩ đến việc tôi phải tiếp tục công việc của mình. Tiền đặt cọc cho cuộc chơi của chúng tôi là cuộc sống và cái chết, hoặc còn hơn thế nữa, và chúng tôi không được nản chí.

Ngày 5 tháng Mười Một, buổi sáng. – Hãy để cho tôi tường thuật chính xác mọi chuyện, cho dù anh và tôi đã cùng nhau thấy nhiều chuyện lạ, anh có thể lần đầu tiên nghĩ rằng tôi, Van Helsing, đang điên. Có rất nhiều chuyện kinh dị và trạng thái căng thẳng kéo dài trong thần kinh cuối cùng đã đến trong não tôi.

Cả ngày hôm qua chúng tôi đi, luôn luôn tiến gần các ngọn núi, và đi vào một vùng đất càng lúc càng hoang dã và vắng vẻ. Những vách núi khắc nghiệt với những thác nước tuôn chảy, và Thiên Nhiên có vẻ như đang giữ lại cho mình những ngày hội xa xưa. Bà Mina vẩn chỉ ngủ và ngủ. Và dù tôi đã đói và sau đó là tạm lót lòng, tôi vẩn không thể đánh thức bà, thậm chí để ăn. Tôi bắt đầu sợ rằng lời nguyền tiền định của vùng đất này đã tác động lên bà, làm băng hoại bà với lễ đặt tên của Ma cà rồng. “Tốt,” tôi nói với chính mình, ” nếu như bà ấy ngủ suốt cả ngày, thì tôi cũng sẽ không ngủ về đêm.” Và khi chúng tôi đi đến một đoạn đường xấu, suốt cả con đường toàn những thứ cổ xưa và dở dang, tôi gục đầu xuống và ngủ.

Một lần nữa tôi bị đánh thức bởi một cảm giác tội lỗi khi thời gian trôi qua, và thấy rằng bà Mina vẩn đang ngủ, và mặt trời đã lặn. Nhưng tất cả thật sự đang đổi thay. Những vách núi khắc nghiệt như đã xa ơn, và chúng tôi đang lên đến đỉnh của ngọn đồi bậc thang, và trên đỉnh của nó là toà lâu đài như Jonathan đã mô tả trong nhật ký của anh ta. Ngay lập tức tôi cảm thấy hân hoan và lo sợ. Vì bây giờ, dù tốt hay xấu. cái kết cục đã đến.

Tôi đánh thức bà Mina, và một lần nữa thử thôi miên bà ấy. nhưng than ôi, công việc này bất khả cho đến lúc quá trễ. Và tiếp đó, trước khi bóng đêm bao la phủ xuống chúng tôi, và thậm chí sau khi mặt trời lặn bầu trời còn phản chiếu ánh dương quang trên nền tuyết, tất cả tạo nên một quang cảnh nữa sáng nữa tối thật tuyệt vời. Tôi thả ngựa và để cho chúng ăn trong một cái chuồng mà tôi có thể tạo ra. Sau đó tôi dựng một đống lửa, và gần bên nó tôi để cho bà Mina, lúc này đã tỉnh táo và càng hấp dẩn hơn bao giờ, ngồi thật thoải mái giữa những tấm thảm của bà. Tôi chuẩn bị thức ăn sẳn sàng, nhưng bà ấy không ăn, bà ấy nói đơn giản rằng bà ấy không đói. Nhưng bản thân tôi vẩn ăn, vì tôi tôi cần phải khoẻ mạnh để đương đầu cùng tất cả. Sau đó, với sự sợ hãi về cái có thể xảy ra, tôi vẽ một vòng tròn quanh chỗ bà Mina ngồi, đủ lớn để cho bà ấy vẩn có thể thoải mái. Và trên cái vòng ấy rôi rắc một số bánh thánh, tôi nghiền nó ra để nó có thể bảo vệ tốt. Bà ấy vẩn ngồi suốt thời gian đó, vẩn ngồi lặng như một người đã chết.


Và bà ấy trông càng lúc càng trắng hơn đến nỗi tuyết cũng không thể trắng hơn được nữa, và bà vẩn không nói một lời. Nhưng khi tôi lại gần, bà ấy bám vào tôi, và tôi có thể biết được rằng linh hồn tội nghiệp ấy đang run rẩy từ đầu đến chân với một nỗi sợ hãi thật đau đớn khi phải gánh chịu.

Tôi nói với bà ấy ngay sau đó, khi bà ấy càng lặng lẽ hơn, “Bà có muốn lại bên đống lửa không?” vì tôi muốn kiểm tra những gì bà ấy có thể làm. Bà ấy đứng dậy tuân theo, nhưng khi bà ấy bước được một bước bà ấy đứng lại, và đứng sững lại như đang bị một tác động nào đó.

“Vì sao lại không tiếp tục?” tôi hỏi. Bà ấy lắc đầu, và quay trở lại, ngồi vào chỗ cũ. Rồi, nhìn tôi với đôi mắt mở to, nhưng một người vừa thức dậy sau khi ngủ, bà nói một cách đơn giản, “Tôi không thể!” và trở lại im lặng. Tôi vui mừng, vì tôi biết rằng bà ấy không thể, không thể làm những điều mà chúng tôi đều kinh sợ. Điều đó có thể nguy hiểm cho thân xác bà ấy, nhưng tâm hồn bà ấy được an toàn.

Sau đó lũ ngựa bắt đầu rên lên, và giật mạnh những sợi dây buộc cho đến khi tôi đếnn bên chúng và làm chúng im lặng. Khi chúng cảm thấy tay tôi đặt trên chúng, chúng hí trầm trầm trong sự vui mừng, liếm tay tôi và im lặng một thoáng. Nhiều lần như vậy trong đêm tôi đến bên chúng, cho đến cái giờ phút lạnh lẽo và mà cả thiên nhiên đều nghỉ ngơi, vào cái lúc bước chân của tôi cũng trở nên yên lặng trong chúng. Trong cái giờ lạnh lẽo khi ngọn lửa sắp tàn, và tôi đi về phía nó và khơi lại, vì lúc này tuyết đã rơi dày và một đám sương lạnh lẽo. Thậm chí trong đêm vẩn lấp lánh ánh sáng, vì khắp nơi chỉ toàn là tuyết, và có vẻ như là những bông hoa tuyết và những luồng sương đang đọng thành hình những người phụ nữ với những vệt quần áo bên ngoài. Tất cả sự im lặng chết chóc và u ám này càng chỉ khiến lũ ngựa run rẩy và rên rỉ, nhưng thể đang khiếp sợ cùng cực. Tôi cũng bắt đầu sợ, một nỗi sợ kinh dị. Nhưng trong tôi cũng đang dâng lên một cảm giác an toàn từ cái vòng vây quanh nơi tôi đang đứng. Tôi cũng bắt đầu nghĩ rằng đó là sự tưởng tượng của mình trong đêm đen, trong sự u mê, trong sự thiếu nghỉ ngơi mà tôi đã trải qua, và tất cả những sự lo âu khủng khiếp. Giống như những ký ức khủng khiếp mà Jonahtan trải qua đang hiện lại trước tâm tưởng tôi. Lúc này những bông tuyết và màn sương bắt đầu cuộn lại và vây tròn đến mức tôi có thể nhận ra hình bóng lờ mờ của những người phụ nữ đã muốn hôn anh ta. Và lũ ngựa càng lúc càng sợ hơn, chúng rên lên khủng khiếp như những con người đang bị thương. Thậm chí một cơn sợ hãi khùng điên đang trùm lên chúng, khiến chúng có thể vùng trốn ra. Tôi lo sợ cho bà Mina thân yêu khi những hình bóng man dại kia đang càng lúc càng gần và lượn vòng. Tôi nhìn bà ấy, nhưng bà ấy vẩn ngồi bình thản, mỉm cười với tôi. Khi tôi bước về phía đống lửa để khơi lại chúng, bà ấy nắm lấy tôi và giữ tôi lại, rồi thì thầm, với cái giọng giống như một người đang nói mơ, trầm lắng như thế.

“Không! Không! Đừng đi bất kỳ đâu. Ở đây ông sẽ an toàn!”

Tôi quay lại phía bà ấy, nhìn vào trong mắt bà ấy và nói, “Nhưng còn bà? Chính là tôi đang sợ cho bà!”

Câu này làm bà ta phá lên cười, một tiếng cười trầm và phi thực, rồi nói, “Sợ cho tôi! Vì sao lại sợ cho tôi? Không nơi đâu an toàn hơn trên thế giới này đối với chúng hơn tôi lúc này,” và khi tôi còn đang tư hỏi về ý nghĩa của những lời nói của bày ấy, một cơn gió thổi đến làm ngọn lửa bùng lên, và tôi có thể thấy vết sẹo đỏ trên trán bà. Và than ôi! Tôi biết rồi. Tôi đã không, không biết được sớm để cho những hình bóng lượn vòng kia của sương và tuyết đến gần hơn, chỉ còn bị giữ lại bởi vòng tròn Linh Thiêng. Và chúng đang bắt đầu hiện hiện, nếu như Chúa không lấy đi lý trí của tôi, vì tôi thấy điều đó bằng chính mắt mình. Đang hiện ra trước mắt tôi bằng da bằng thịt ba người phụ nữ mà Jonathan đã nhìn thấy trong căn phòng kia, khi chúng muốn hôn lên cổ họng anh ta. Tôi biết thế lực của những hình dáng đang lắc lư, của đôi mắt sáng cứng lên, của hàm răng trắng, của những sắc màu hồng hào, của những đôi môi khoái lạc kia. Chúng mỉm cười với bà Mina tội nghiệp thân yêu. Và khi tiếng cười của chúng xuyên qua sự im lặng của bóng đêm, chúng chắp tay lại chỉ về phía bà ấy, và nói bằng một giọng nói dịu dàng với âm sắc náo nức mà Jonathan đã nói là sự dịu ngọt quá đáng của tiếng gương vỡ vụn, “Đến đây nào, em yêu. Đến với các chị nào. Đến đây đi em.”

Tôi sợ hãi quay sang bà Mina tội nghiệp của tôi, và tim tôi bừng lên một niềm vui như một ngọn lửa hồng. Vì ôi, sự kinh sợ đang hiện ra trong đôi mắt bà ấy, sự ghê tởm, sự kinh khiếp, để khiến cho tim tôi lại ngập tràn hy vọng. Tạ ơn Chúa vì bà ấy vẩn chưa thuộc về chúng. Tôi với lấy một số que củi vẩn còn bên tôi, và để lên một ít Bánh Thánh, đưa nó hướng về ngọn lửa. Bọn chúng lùi dần trước mặt tôi, và vẩn cất lên tiếng cười trầm lắng kinh dị của chúng. Tôi khơi lại lửa, và không sợ chúng nữa. Vì tôi biết rằng chúng tôi an toàn trong cái vòng ấy, bà ấy không thể đi ra cũng như chúng không thể vào. Những con ngựa đã chấm dứt rên rỉ, và vẩn nằm trên nền đất. Tuyết đã nhẹ nhàng rơi đầy trên chúng, và trông chúng còn trắng hơn nữa. Tôi biết rằng những con thú tội nghiệp ấy không thể sợ hãi hơn được nữa.

Và chúng tôi vẩn để cho lửa đỏ như thế cho đến khi bình minh bắt đầu rọi ánh sáng xuống màn tuyết ảm đạm. Tôi buồn rầu và sợ hãi, lòng tràn ngập những điều buồn đau và kinh khiếp. Nhưng khi mặt trời xinh đẹp bắt đầu vươn lên trên đường chân trời, cuộc sống như trở lại với tôi. Việc đầu tiên khi bình minh xuất hiện là những hình bóng ấy tan ra thành sương và tuyết. Những vệt chuyển hoá mờ ảo ấy chuyển đi hướng về phía lâu đài, và biến mất.

Theo bản năng, khi bình minh đến, tôi quay về phía bà Mina, định thôi miên bà ấy. Nhưng bà nằm vật ra và ngủ thiếp đi bất thình *** h, tôi không thể đánh thức được. Tôi cố thôi miên bà ấy dù bà đang ngủ, nhunưg bà ấy không đáp trả, hoàn toàn không,và ánh sáng ban ngày đã đập tan mọi nỗ lực. Tôi vẩn sợ chưa dám làm động. Tôi đốt lửa và trông sang lũ ngựa, tất cả chúng đã chết sạch. Hôm nay tôi có nhiều chuyện phải làm ở đây, tôi phải đợi cho mặt trời lên cao đã. Có nhiều chỗ tôi phải đi, nơi mà ánh mặt trời xuyên qua sự che phủ của sương và tuyết để mang đến cho tôi sự an toàn.

Tôi sẽ lo cho sức khoẻ của mình trước với bữa sáng, và rồi tôi sẽ tiến hành công việc kinh khủng của mình. Bà Mina vẩn ngủ, và cám ơn Chúa! Bà ấy vẩn bình lặng cùng giấc ngủ…

NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER

Ngày 4 tháng Mười Một, buổi chiều tối – Tai nạn xảy ra với con tàu là một chuyện thật tồi tệ đối với chúng tôi. Nếu không có nó thì chúng tôi đã đưa thuyền đi một quãng xa và bây giờ Mina thân yêu đã được tự do. Tôi sợ để nghĩ về nàng, đang chập chờn gần bên vùng đất kinh khiếp ấy. Chúng tôi có ngựa, và chúng tôi lần theo dấu vết. Tôi chú ý trong lúc đó Godalming đã sẳn sàng. Chúng tôi đã có vũ trang. Bọn Sznagy phải con chừng nếu chúng muốn giao tranh. Ôi, phải chi có Morris và Seward ở đây với chúng tôi. Chúng tôi phải giữ hy vọng! Nếu tôi không còn dịp để viết nữa thì xin Tạm biệt Mina! Chúa sẽ ban phúc và gìn giữ cho em.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 5 tháng Mười Một. – Khi bình minh chúng tôi nhìn thấy một toán người Sznagy phía trước chúng tôi, đang lướt nhanh dọc theo con sông với một chuyến xe hàng. Họ bao quanh nó thành một toán, và lướt nhanh dù đang bị bao vây. Tuyết vẩn rơi nhẹ nhàng và có một chuyển biến lạ trong không khí. Có thể đó chỉ là cảm giác của riêng chúng tôi, nhưng tình trạng trì trệ này rất lạ. Từ đằng xa tôi nghe thấy tiếng sói. Tuyết mang nó đi vẳng khắp các ngọn núi, và có vẻ như nguy hiểm đang đến với tất cả chúng tôi, từ tất cả mọi hướng. Ngựa đã gần như sẳn sàng, và chúng tôi sẽ đi sớm. chúng tôi đang lao đến với cái chết đang dành sẳn cho ai đó. Chỉ có Chúa mới biết đó là ai, ở đâu, bởi cái gì, khi nào, và nó diễn ra như thế nào…


BẢN GHI CỦA BÁC SĨ VAN HELSING

Ngày 5 tháng Mười Một, buổi chiều. – Ít nhất tôi vẩn còn tỉnh. Cám ơn Chúa đã ban phúc cho tất cả mọi chuyện, dù chúng có tác dụng khủng khiếp. Khi tôi để bà Mina nằm ngủ trong vòng tròn Linh Thiêng, tôi lên đường tiến về lâu đài. Cây búa thợ rèn mà tôi đã mang đi trong chuyến xe từ Veresti sẽ hữu dụng, dù cho tất cả các cánh cửa đều đã mở toang tôi cũng sẽ đập nó thành bụi, bởi vì khi bước vào tôi có thể sẽ không đi ra nữa. Những kinh nghiệm cay đắng của Jonathan có thể có ích cho tôi ở đây. Trong những điều được ghi lại trong nhật ký cuỷa anh ấy, tôi có thể tìm thấy con đường dẩn đến nhà thờ cổ, tôi biết rằng công việc của tôi nằm ở đấy. Không khí rất ngột ngạt. Nó giống như một làn hơi lưu huỳnh, làm cho tôi đôi lúc cảm thấy choáng váng. Vẳng đến bên tai tôi tiếng gầm gừ và tôi e rằng từ đằng xa có tiếng sói tru. Đoạn tôi nhớ ra bà Mina, và tôi thấy mình đang ở trong một tình thế khó khăn. Tôi rơi vào một trạng thái tiến thoái lưỡng nan.

Tôi không dám mang bà ấy vào trong này, mà để nàng nằm an toàn nằm an toàn khỏi lũ Ma cà rồng trong vòng tròn Linh Thiêng. Nhưng ở đấy thậm chí còn có sói dữ nữa. Tôi biết rằng công việc của mình đang nằm ở đấy, và ở đấy là lũ sói mà chúng tôi phải qui phục, nếu như đó là ý Chúa. Dù gì đi nữa chỉ có cái chết và tự do đằng sau. Và tôi phải lựa cho bà ấy. Nếu như chỉ là cho riêng tôi thì sự lựa chọn sẽ dễ dàng, dạ dày của lũ sói thì hẳn sẽ nơi yên nghỉ tốt hơn nấm mộ của Ma cà rồng. Vì vậy tôi quyết định sẽ tiếp tục công việc.

Tôi biết rằng ít nhất có ba ngôi mộ để tìm kiếm, những ngôi mộ còn sống. Và tôi lùng sục, lùng sục, lùng sục và tôi tìm thấy một cái trong số chúng. Nàng ta nằm đó, trong giấc ngủ của Ma cà rồng, tràn đầy sự sống và vẻ đẹp hoan lạc đến nỗi tôi rùng mình khi nghĩ rằng có thể tôi đang phạm tội sát nhân. A, tôi nghi ngờ không biết trong những thời gian cổ xưa, khi mà công việc diễn ra như thế này, đã có nhiều lần người đàn ông đứng trước một nhiệm vụ dành cho mình, để rồi cuối cùng anh ta thất bại trước cảm xúc con tim, trước thần kinh cảm nhận của chính mình. Và anh ta ngừng lại, ngừng lại, ngừng lại, đến lúc mà chỉ đơn thuần là vẻ đẹp và sự quyến rủ dâm đãng của kẻ Chưa Chết kia thôi miên lại anh ta. Và anh ta tiếp tục, cho đến khi hoàng hôn buông phủ, và giấc ngủ Ma cà rồng chấm dứt. Rồi đôi mắt xinh đẹp của người phụ nữ yêu kiều kia bừng mở và nhìn chan chứa yêu thương, và đôi môi hoan lạc kia mang đến một nụ hôn, và con người quỵ ngã. Và lại thêm một nạn nhân nữa của giới Ma cà rồng. Và hàng ngũ rùng rợn và tàn nhẫn của bọn Chưa Chết lại có thêm một nhân vật nữa.

Hẳn nhiên là có một sự quyến rũ, khi tôi bước đến chỉ bởi sự hiện hữu của cảm xúc này, thậm chí là khi nàng ta đang nằm trong một ngôi mộ bị sự gậm nhấm của năm tháng và bị phủ nặng bởi những lớp bụi của hàng thế kỷ, dù rằng cái hương vị kinh khiếp đặc trưng ở những nơi hang ổ của bá tước vẩn còn vương vấn. Vâng, tôi đã bước đến. Tôi, Van Helsing, với tất cả mục đích và với động cơ để căm ghét. Tôi bước đến với sự ao ước được ngừng lại, dường như nó làm cho năng lực của tôi bị tê liệt và linh hồn của tôi như nghẽn lối. Nó có thể là do sự cần thiết của một giấc ngủ tự nhiên, và sự ngột ngạt kỳ lạ của không khí đã bắt đầu tràn ngập tôi. Chắc chắn rằng tôi đang rơi vào trạng thái ngủ, với đôi mắt đang ngủ mở rộng của kẻ đang tuân theo một sự quyến rũ dịu dàng, thì xuyên qua màn tuyết vẩn đang rơi dài trong không khí, vẳng lên một tiếng khóc trầm lắng, tràn ngập đau khổ và trắc ẩn nó đánh thức tôi như tiếng kèn lanh lảnh. Tôi đã nghe được đó là giọng của bà Mina thân yêu.

Và tôi lại gắng hết sức mình trong cái nhiệm vụ kinh khủng, và với một cái vặn mạnh văng nắm mộ đi tôi lại tìm thấy một kẻ khác trong số chị em của nàng, một kẻ tăm tối khác. Tôi không dám ngừng lại để nhìn nàng như tôi đã làm với chị em của nàg, để tôi không bị một lần nữa mê mệt. Nhưng liền sau đó tôi lại tiếp tục tìm kiếm đến khi tôi thấy một ngôi mộ ngất cao như thể nó được làm để dành cho con người được yêu thương nhiều nhất bởi những người chị em xinh đẹp khác, giống như Honathan tôi đã thấy khi nàng được tạo ra bởi những hạt bụi. Nàng nhìn thật là đẹp, một vẻ đẹp thật hồng hào, một vẻ hoan lạc thật trang nhã, nó làm cho bản năng đàn ông của tôi sống dậy trong tôi, làm cho tim tôi rộn ràng với một cảm xúc mới mẻ. Nhưng tạ ơn Chúa, rằng tiếng khóc tâm hồn của bà Mina thân yêu vẩn không mất đi trong tai tôi. Và trước khi sự phù phép kia có thể tác động hơn nữa vào tôi, tôi đã tự trấn tĩnh để tiến hành công việc man dại của mình. Vào lúc này tôi tiếp tục tìm kiếm tất cả các ngôi mộ trong nhà thờ, như tôi có thể nói. Và để đề phòng rằng sẽ có một bóng ma Chưa Chết nào đó sẽ lởn vởn quanh tôi trong đêm, tôi đã kiểm tra để chắc chắn rằng không còn một kẻ Chưa Chết nào tồn tại. Có một ngôi mộ lớn nhìn tráng lệ hơn tất cả. Nó thật ra là vĩ đại, và nhìn thật quý phái. Trên đó chỉ có một từ.

DRACULA

Như vậy kẻ Chưa Chết này chính là Ma Cà Rồng Vua, và tất cả phải tuân theo hắn. Cái quan tài trống rỗng càng nói hùng hồn hơn, làm chắc chắn hơn cái mà tôi đã biết. Trước khi tôi bắt đầu phục hồi những người phụ nữ kia về những cái chết nguyên thủ của họ, tôi đã rắc vào ngôi mộ của Dracula một ít Bánh Thánh, để trục xuất nó mãi mãi khỏi ông ta, cái gọi là sự Chưa Chết kia.

Bây giờ thì bắt đầu nhiệm vụ kinh hãi của tôi, và tôi sợ khiếp nó. Để so sánh, tôi đã làm với chỉ một. Nhưng lần này thì ba! Để bắt đầu với lần thứ hai sau cái lần tôi đã làm một công việc đầy kinh dị. Lần đó là một công việc khủng khiếp với cô Lucy, đó không phải là một kẻ xa lạ đã sống sót qua hàng thế kỷ, kẻ có sức mạnh để vượt qua năm tháng. Những kẻ đó sẽ, nếu có thể, lùng tìm cho cuộc sống nhơ nhuốc của họ…

Ôi, bạn John ơi, nhưng đây là một công việc đồ tể. Tôi chưa bao giờ bị dao động tâm thần bởi một người chết nào, và sự sống đang phủ lên một tấm màn sợ hãi như vậy thì tôi không thể tiếp tục. Tôi run rẩy và thậm chí run lật bật đến khi mà tất cả đều qua, cám ơn Chúa, thần kinh tôi phục hồi trở lại. Nếu như tôi không thấy được sự yên nghỉ có ở cái nơi đầu tiên tôi làm chuyện này, khi thấy niềm vui đã bị lấy trộm đi trước khi cái chết tận cùng quay lại, khi nhận ra rằng linh hồn đã chiến thắng, tôi có thể sẽ không thể tiến hành tiếp công việc đồ tể của mình. Tôi có thể đã không chịu được được tiếng rít kinh khiếp khi mà cây cọc xuyên vào cơ thể, đâm thọc vào những cơ thể quằn quại và những đôi môi sủi máu. Tôi tưởng chừng đã bỏ chạy trong kinh sợ và để lại những công việc đang làm dở dang. Nhưng tất cả đã xong! Và những tâmhồn tội nghiệp kia, tôi bây giờ đã có thể thương khóc cho họ, khi tôi nghĩ rằng mỗi người trong số họ đã có trong mình một giấc ngủ hoàn toàn bình yên trong cõi chết một khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi tan biến đi. Vì, bạn John ạ, khi con dao lạnh lùng cứng rắn của tôi cắt đầu của mỗi người ra, thì trước tiên toàn bộ cơ thể bắt đầu tan biến đi và tan thành những lớp bụi tự nhiên, giống như cái chết đáng lý phải đến từ hàng thế kỷ trước cuối cùng cũng quay lại xác nhận chính mình và ngay lập tức kêu lớn lên, “Ta ở đây!”

Trước khi rời lâu đài tôi tôi khoá chặt các lối vào để bá tước không bao giờ có thể đi vào khu vực Chưa Chết này.

Khi tôi đi vào trong vòng tròn nơi bà Mina đang ngủ, bà thức giấc và nhìn tôi, bộc lộ một nỗi niềm đau khổ mà tôi phải trải lòng chịu đựng.

“Đi!” bà ấy nói, “hãy đi khỏi nơi khủng khiếp này! Chúng ta hãy đi gặp chồng tôi, tôi biết anh ấy đang đi về phía chúng ta.” Bà ấy nhìn thật gầy gò, xanh xao và ốm yếu. Nhưng đôi mắt bà ấy thật trong sáng và lấp lánh sự nhiệt tình. Tôi rất vui khi thấy vẻ xanh xao và bệnh tật của bà, vì trong tâm tưởng của tôi đang tràn ngập sự tươi trẻ kinh khiếp trong giấc ngủ khoẻ mạnh của ma cà rồng.

Và với sự thật và hy vọng như vậy, với nỗi sợ hãi tràn ngập, chúng tôi đi về phía đông để gặp các bạn của chúng tôi, để gặp anh ta, người mà bà Mina nói với tôi rằng bà ấy biết đang đến gặp chúng tôi.


NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER

Ngày 6 tháng Mười Một. – Trưa nay đã khá trễ khi giáo sư và tôi lên đường đi về phía đông nơi mà tôi biết Jonathan đang đến. Chúng tôi không đi nhanh lắm, dù con đường dẩn xuống tạo thành bậc, vì chúng tôi mang đầy những tấm thảm nặng và quấn quanh người. Chúng tôi không dám đối mặt với khả năng chẳng còn chút hơi ấm nào trong giá lạnh và trong tuyết trắng. Chúng tôi cũng phải mang theo một số đồ dự trữ, vì chúng tôi đang ở trong một nơi hoàn toàn tiêu điều, và từ đằng xa chúng tôi có thể màn tuyết rơi dày, thậm chí không hề có một dấu hiệu nào của sự cư trú. Khi chúng tôi đi được khoảng một dặm, tôi cảm thấy mệt, bước đi nặng nhọc và ngồi xuống nghỉ ngơi. Đoạn chúng tôi nhìn lại vào nhìn thấy cái đường che phủ của lâu đài Dracula cắt ngang bầu trời. Có nghĩa là chúng tôi đã đi xuống khá sâu dưới đồi trên đó hiện ra góc độ phối cảnh của dãy Carpathians với vùng phong cảnh xa bên dưới. Chúng tôi thấy tất cả vẻ hùng vĩ của nó, từ trên cao hàng ngàn bộ trên đỉnh của những vách núi hầu như thẳng dốc, với sự cảm nhận về khoảng cách ghê gớm với những dốc đứng của những vách núi ở bất kỳ phía nào. Có một cái gì đó hoang dã và huyền bí ở nơi này. Chúng tôi có thể nghe từ đằng xa tiếng sói tru. Chúng vẳng từ xa, nhưng vang vọng, thậm chí dù là nó đến với sự nghẹn lại khi đi qua những cơn tuyết đổ làm nhẹ đi, nó vẩn chứa đầy sự kinh khiếp. Tôi biết từ các cách bác sĩ Van Helsing đang xem xét khi ông ấy thử xác định một điểm chiến lược, để chúng tôi có thể bớt bị nguy hiểm trong trường hợp bị tấn công. Con đường trắc trở vẩn đang dẩn xuống. Chúng tôi lần theo nó qua làn tuyết rơi.

Trong một thoáng giáo sư ra dấu cho tôi, nên tôi đứng lên và bước tới ông. ông ấy tìm thấy được một chỗ tuyệt diệu, một cái hốc tự nhiên trong vách đá, với một lối vào giống như một cái cửa giữa hai tảng đá. Ông ấy nắm lấy tay tôi và dắt tôi vào.

“Nhìn xem!” ông ấy nói. “ở đây bà sẽ có được chỗ nương náu. Nếu nếu lũ sói đến tôi có thể tiếp chúng từng con một.”

Ông ấy mang áo lông thú của chúng tôi vào, và làm thành một cái tổ tránh gió cho tôi, mang những đồ dự trữ vào và để nó phía trên tôi. Nhưng tôi không thể ăn, dù thậm chí đã cố làm công việc đang khá là đáng gớm đối với tôi, càng nhiều càng tốt để làm làm hài lòng ông ấy, tôi cũng không thể tự mình cố gắng được. Ông ấy trông có vẻ rất buồn, nhưng không trách tôi. Lấy cái kính trường của ông ấy dành cho trường hợp này, ông ấy đứng trên đỉnh của vách đá, và bắt đầu tìm kiếm theo chiều dọc.

Thình *** h ông ấy kêu lên, “Nhìn này! Bà Mina, nhìn! Nhìn kìa!”

Tôi nhảy lên và đứng sau ông ấy trên vách đá. Ông ấy đưa tôi cái kính của ông ấy và chỉ. Tuyết lúc này đã rơi nặng hơn, và rít lên lên hung tợn, vì những cơn gió lớn đang bắt đầu thổi. Tuy nhiên vào cái lúc có một khoảng ngừng giữa các bông tuyết tôi có thể thấy một con đường vòng khá dài. Từ trên cao nơi chúng tôi đứng có thể nhìn được ra một khoảng xa. Và từ đằng xa, đằng sau một khoảng trắng mênh mông những tuyết, tôi có thể thấy con sông nhìn giống như một dãi ruy băng đen , xoắn và cuộn lại theo đường uốn của nó. Thẳng ngay trước mặt chúng tôi và không xa lắm, thật sự là nó gần đến nỗi tôi tự hỏi là làm sao chúng tôi có thể không nhận thấy trước đó, là một toán người đang phi ngựa rất gấp. Trong đám bụi mù của họ là một chiếc xe ngựa chở hàng dài mà họ phi tản quanh từ bên này sang bên kia, giống như chiếc đuôi của một con chó đang ve vẩy, mỗi người trong số họ có một vẻ chăm chú khác nhau trên đường. Nhìn qua đường nét của họ trên nền tuyết, tôi có thể thấy qua quần áo của những người đàn ông rằng họ là những người nông dân hoặc dân gypsy.

Trên chiếc xe để một chiếc rương vuông lớn. Tim tôi đập mạnh khi tôi thấy nó, vì tôi cảm thấy cái kết cục đang đến. Buổi chiều bây giờ đã xế dần, và tôi biết rõ đến lúc hoàng hôn thì cái Vật đến lúc này vẩn còn đang bị cầm tù trong đó sẽ có một sự tự do mới và có thể biến thành nhiều hình dạng để tránh sự săn đuổi. Tôi quay sang giáo sư trong sự sợ hãi. Tuy nhiên, trong sự kinh ngạc của trôi, ông ấy không còn ở đó nữa. Trong một thoáng sau đó, tôi thấy ông ấy đang ở sau lưng tôi. Vòng quanh vách đá ông ấy đang vẽ một vòng tròn, giống như chúng tôi đã làm một cái chỗ trú ẩn trong tối hôm qua.

Khi đã làm xong ông ấy đứng cạnh tôi và nói, “Ít ra thì bà cũng sẽ an toàn trong đây với hắn!” Ông ta lấy lại cái kính khỏi tôi, và chờ đến khoảng lặng tuyết tiếp theo, toàn bộ khoảng cách giữa bọn tôi được quét sạch. “Nhìn đi,” ông ấy nói, “họ đang đến rất nhanh. Họ đang giục ngựa và phi nước đại hết sức mình.”

Ông ấy ngừng lại và nói tiếp với một giọng trống rỗng, “Chúng đang chạy đua cùng hoànn hôn. Chúng ta có thể đã quá trễ. Chúa sẽ làm việc phải làm!” Sau đó là một trận mưa tuyết tuyết mịt mờ khác trút xuống, và toàn bộ phong cảnh trở nên nhạt nhoà. Tuy nhiên nó qua rất nhanh và chiếc kính của ông ấy lại hướng về đồng bằng một lần nữa.

Và lần này là một tiếng kêu thình *** h cất lên, “Nhìn này! Nhìn này! Nhìn này! Xem kìa, có hai kỵ sĩ đang phóng theo rất nhanh, đang vượt tới từ hướng nam. Hẳn là Quincey và John. Cầm lấy kính đi. Hãy nhìn trước khi tuyết lại xoá đi tất cả!” Tôi cầm lấy kính và nhìn ra. Hai người đàn ông đó hẳn là bác sĩ Seward và ông Morris. Tôi biết tất cả các sự kiện của họ và Jonathan. Và cùng lúc tôi biết rằng Jonathan không xa đây. Nhìn quanh tôi thấy từ hướng bắc đang đến một đội hai người khác, đang phóng đến với tốc độ điên cuồng. Tôi biết một trong số họ là Jonathan và người kia tất nhiên là huân tước Godalming. Họ cũng đang săn đuổi cái toán đang đi với cái xe bò kia. Khi tôi nói với giáo sư ông ấy la toáng lên vui sướng như một đứa trẻ, sau khi nhìn chăm chú cho đến khi cơn mưa tuyết làm cho mọi thứ trở nên không thể nhìn được nữa, ông ấy đặt đường rãnh khẩu Winchester sẳn sàng để dùng trên tảng đá tại lối ra nơi trú ẩn của chúng tôi.

“Họ đang đổ về một chỗ, “ông ta nói, “Đến lúc đó chúng ta sẽ thấy dân gypsy ở khắp mọi hướng.” Tôi rút khẩu súng lục ổ quay của tôi ra sẳn sàng, bởi vì trong khi chúng tôi đang nói chuyện tiếng nói tru càng lớn và càng gần hơn. Khi cơn bão tuyết dịu đi trong một thoáng chúng tôi nhìn lại. Thật là kỳ lạ khi thấy tuyết đang rơi ầm đẩy những bông tuyết nặng trĩu về phía chúng tôi, và đằng sau nó, ánh trời càng lúc càng sáng rực khi nó đang lặn dần về hướng đỉnh núi phía xa. Quét chiếc kính trọn vòng tôi có thể thấy thấp thoáng những cái chấm di chuyển đơn độc, rồi thành nhóm hai, ba và ở số lượng lớn hơn. Lũ sói đang tập trung lại cho nạn nhân của chúng.

Mỗi khoảnh khắc lúc này đều giống như hàng thế kỷ trong khi chúng tôi đang chờ đợi. Gió bây giờ thổi điên cuồng, và tuyết rơi trong thịnh nộ như đang quét quanh chúng tôi một vòng tròn xoáy. Lúc đó chúng tôi không thể thấy độ dài của cánh tay trước mặt mình. Nhưng mặt khác, khi những âm thanh trống rỗng của gió lướt quanh chúng tôi, có vẻ như nó đang dọn quang khoảng không gian chung quanh chúng tôi để chúng tôi có thể nhìn thấy ra xa.Chúng tôi gần đây đã quen với việc quan sát mọi chuyện lúc bình minh và hoàng hôn,vì chúng tôi biết chính xác nó sẽ diễn ra khi nào. Và chúng tôi biết rằng mặt trời còn khá lâu mới lặn. Thật khó mà tin rằng chúng tôi đã quan sát ít hơn một giờ khi chúng tôi đợi trên vách đá trú ẩn trước khi các toán người khác nhau bắt đầu hội tụ về gần với chúng tôi. Bây giờ gió thổi đến càng lúc càng gay gắt và quét lên những cơn rét buốt hơn, và càng thổi mạnh từ hướng bắc.Nó có vẻ như đang hướng những đám mây tuyết về phía chúng tôi, chỉ cần với một sự bùng nổ nào đó, tuyết sẽ đổ xuống. chúng tôi có thể phân biệt rõ ràng từng người trong nhóm, những kẻ bị săn đuổi và đang săn đuổi. Sự việc lạ lùng đến mức những kẻ bị săn đuổi có vẻ không nhận ra, hoặc ít nhất không quan tâm đến việc họ đang bị săn đuổi. Tuy nhiên họ có vẻ vội vã đang tăng gấp đôi tốc độ khi mặt trời càng lúc càng hạ thấp dần trên những đỉnh núi.

Họ càng lúc càng phóng đến gần hơn. Giáo sư và tôi cúi mình xuống phía sau những tảng đá của chúng tôi, đưa vũ khí ra và chờ đợi. Tôi có thể thấy là ông ấy đã quyết định sẽ không để cho họ qua. Chưa một ai biết được về sự có mặt của chúng tôi.

Ngay lúc đó có hai giọng nói thét to, “Dừng lại!” Một là của Jonathan của tôi, vẳng cao lên đặc tả sự xúc động của anh ấy. Giọng kia vang lên âm sắc cương quyết mạnh mẽ trong sự ra lệnh của ông Morrris. Bọn gypsy không biết ngôn ngữ của chúng tôi, nhưng không thể nhầm lẩn về âm điệu, bất kể cái lưỡi nào đang nói lên những từ ấy. Theo bản năng chúng kềm cương lại, và trong khoảnh khắc huân tước Godalming và Jonathan lướt đến từ một hướng, và bác sĩ Seward và ông Morris đến từ hướng kia. Thủ lĩnh của toán gypsy, một gã bảnh choẹ ngồi trên một con ngựa trông giống một con nhân mã, vẫy họ lui lạ với một giọng nói hung tợn ra lệnh cho các bạn đồng hành của hắn vài lời để tiếp tục công việc. Chúng vung roi lên lũ ngựa để nhảy vọt tới. Nhưng bốn người đàn ông đã nâng cao nòng khẩu Winchester, theo một cách thức không thể lầm lẩn ra lệnh cho bọn họ dừng lại. Ngay trong khoảnh khắc đó bác sĩ Van Helsing và tôi đứng bật dậy ngay sau vách đá, chĩa vũ khí của tôi về phía chúng. Nhận thấy bị bao vây bọn kia càng siết chặt dây cương và lao lên. Tên cầm đầu quay về phía chúng và nói một tiếng khiến mỗi tên trong lũ gypsy kia đều rút thứ vũ khí mà chúng mang theo, dao hoặc súng ngắn và vung lên bộc lộ sự sẳn sàng tấn công. Kết quả sẽ đến trong khoảnh khắc.

Tên thủ lĩnh, với một động tác giật cương thật nhanh, tung ngựa về phía trước, vf chỉ về phía mặt trời, lúc này đã đã xuống gần đến đỉnh những ngọn đồi, và chỉ về phía lâu đài, nói điều gì đó mà tôi không hiểu. Để trả lời, cả bốn người đàn ông phía tôi đều cho ngựa phóng lên và lao về phía cái xe ngựa. Tôi cảm thấy sợ khiếp khi thấy Jonathan đang gặp nguy hiểm như vậy nhưng máu nóng của chiến trận đã bốc lên đầu toi cũng như những người còn lại. Tôi cảm thấy không còn sợ gì nữa, mà chỉ là một sự cuồng dại, tràn lên mong muốn làm gì đó. Thấy sự chuyển động rất nhanh của phe chúng tôi, tên thủ lĩnh của toán gypsy ra một mệnh lện. Người của hắn ngay tức khắc dàn đội hình quanh chiếc xe ngựa trong một nỗ lực vô kỷ luật, mỗi tên trong đám xô lấn chen đẩy lẩn nhau trong sự hăm hở thực thi mệnh lệnh của chúng.

Trong cái đám mù mịt đó tôi có thể thấy Jonathan từ một hướng trong đám rừng người đó, và Quincey từ một hướng khác, đang nỗ lực mở một đường máu về phía chiếc xe ngựa. Rõ ràng là họ đang nỗ lực kế thúc công việc của họ trước khi mặt trời lặn. không gì có thể ngăn cản hay thậm chí gây trở ngại cho họ. Không một thứ vũ khí nhắm bắn hay đường dao nào của bọn gypsy trước mặt hoặc tiếng sói tru ở phía sau có thể làm xao lãng sự tập trung của họ. Sự hăng hái của Jonathan, và mục đích duy nhất hiển nhiên của anh có vẻ làm cho tất cả bọn phía trước đều kính nể. Theo bản năng chúng hèn nhát dang ra một bên và để anh vượt qua. Trong khoảnh khắc anh ấy nhảy lên chiếc xe ngựa, với một sức mạnh gần như không thể tin được, nhấc cái hộp khổng lồ lên, và ném nó ra khỏi xe văng lên đất. Trong cùng lúc đó, ông Morris phải dùng sức mạnh để vượt qua đám người Szgany ở phía ông ấy. Trong lúc mà tôi gần như nín thở theo dõi Jonathan, tôi cũng thấy, trong một thoáng ở đuôi măt,sự nỗ lực tuyệt vọng liều lĩnh của ông ấy để tiến lên, và thấy lưỡi dao của những tên gypsy loáng lên khi ông ấy đã mở được một con đường trong số họ, và chúng chém xả vào người ông. Ông ấy đỡ gạt với một cái mác khổng lồ, và thoạt tiên tôi nghĩ ông ấy cũng vượt qua được một cách an toàn. Nhưng khi ông ấy nhảy đến bên Jonathan, lúc này anh ấy đã nhảy xuống từ chiếc xe, tôi thấy từ bên tay trái của ông ấy đang giữ chặt bên sườn, máu đang phun ra qua những ngón tay của ông ấy. Ông ấy chẳng hề ngừng lại hay quan tâm gì đến điều đó, vì lúc này, Jonathan,với một nỗ lực tuyệt vọng, đang phá vào một đầu của cái rương, cố nậy nó lên bằng thanh đao Kukri khổng lồ của anh ấy, ông ấy liền hăng hái tham gia vào với cái mác của ông. Dưới sự nỗ lực của hai người đàn ông, chiếc nắp đã phải chịu thua. Cái khoen bật lên với một tiếng rít, và phần trên của cái hộp bị ném bật ra đằng sau.

Lúc này bọn gypsy, tháy chúng đang bị bao phủ với những khẩu Winchester, dưới quyền của huân tước Godalming và bác sĩ Seward, đã dừng lại và thôi không chống cự nữa. Mặt trời đã gần như lặn xuống sau đỉnh núi, và bóng tối đang phủ lên toàn bộ nhóm người đang đứng trên tuyết. Tôi thấy bá tước đang nằm trong hộp, trên những lớp đất, và một số thứ rơi xuống từ chiếc xe đang phủ trên hắn. Hắn nhợt nhạt chết chóc, giống như một hình nhân bằng sáp, và đôi mắt đỏ đang bừng lên một cái nhìn hận thù kinh dị mà tôi đã từng biết.


Theo cái nhìn của tôi, đôi mắt ấy đang nhìn về phía mặt trời lặn, và sự căm ghét trong chúng đang chuyển sang cảm giác chiến thắng.

Nhưng, ngay trong khoảnh khắc ấy, thanh đao khổng lồ của Jonathan quét đến như một tia chớp.Tôi kêu bật lên khi tôi thấy nó cắt ngang cổ họng của hắn. Và trong cùng lúc đó, cây mác của ông Morris đã cắm thẳng vào tim hắn.

Chuyện này giống như một điều huyền diệu, nhưng ngay trước mắt của chúng tôi, gần như chỉ trong một hơi thở, toàn bộ cả thân hình kia tan ra thành bụi và biến khỏi tầm nhìn của chúng tôi.

Tôi sẽ còn mãi cái cảm giác vui mừng khi mà tôi còn sống thậm chí trong cái khoảnh khắc cuối cùng trước cái chết, cái cảm giác được đối mặt với sự an bình, cái mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được là có thể có ở đây.

Lâu đài Dracula bâu giờ đứng xa nổi trên bầu trời đỏ rực, và mỗi viên đá của trên bức những bức tường vỡ nát với những lỗ châu mai đang nối liền với những tia sáng của mặt trời đang lặn dần.

Bọn gypsy, từ mọi hướng quanh tôi, trước sự biến mất phi thường của người chết, đã quay đi, không nói một lời, và phóng vụt đi như thể nó là lẽ sống của chúng. Bọn khác nhảy xuống từ chiếc xe ngựa và kêu bọn phi ngựa kia đừng bỏ rơi chúng. Lũ chó sói, đã tản ra ở một khoảng cách an toàn, đi theo chân chúng, để chúng tôi ở lại một mình.

Ông Morris, đang nằm trên mặt đấy, trườn người trên khuỷu tay, giữ một tay ông bên sườn, Máu vẩn trào ra qua những ngón tay của ông. Tôi lao vột đến bên ông ấy, vì cái vòng tròn Linh Thiêng không còn giữ tôi lại nữa, và hai người bác sĩ cũng làm như vậy. Jonathan quỳ cạnh ông ta và người bị thương ngã đầu vào vai anh. Với một cái thở dài ông ấy nắm lấy tay tôi trong bàn tay thanh cao của ông ấy, trong một nỗ lực yếu ớt.

Ông ấy hẳn là đã thấy nỗi đau đớn trong tim tôi lộ rõ trên mặt, nên ông ấy mỉm cười với tôi và nói, “Tôi cũng rất mừng là đã làm xong việc! Ôi. Chúa ôi!” ông ấy thình *** h kêu lên, cố gắng để ngồi dậy và chỉ vào tôi. “Đó là cái giá của cái chết! Nhìn này! Nhìn này!”

Mặt trời lúc này vừa lặn xuống sau đỉnh núi, và xuống sáng đỏ của nó chiếy thẳng vào mặt tôi, làm cho nó như được tắm trong một vầng sáng hồng. Với một sự thôi thúc, những người đàn ông quỳ gối xuống, kêu lên sâu lắng và nhiệt tình “Amen” vỡ ra từ trong những đôi mắt của họ khi nhìn theo ngón tay của ông ấy.

Người sắp chết nói, “Nào, bây giờ thì tạ ơn Chúa rằng tất cả đã không đến nỗi vô hiệu! Nhìn xem! Tuyết cũng không thể nào trắng trong hơn vầng trán của nàng! Lời nguyền đã bị xoá bỏ!”

Và, trước sự đau đớn vò xé của chúng tôi, với một nụ cười và trong im lặng, ông ấy chết, người đàn ông quý phái hào hiệp.

GHI CHÚ

Bảy năm trước tất cả chúng tôi đã vượt xuyên qua lửa. Và hạnh phúc một số chúng tôi cũng là, chúng tôi nghĩ rằng, cũng là một cái giá tốt cho những đau thương mà chúng tôi phải chịu. Thêm vào đó một niềm vui cho Mina và tôi rằng ngày sinh nhật của con trai chúng tôi chính là cái ngày Quincey Morris chết. Tôi biết rằng mẹ nó vẩn luôn giữ một niềm tin bí mật rằng rằng cái tinh thần dũng cảm của nhóm bạn bè chúng tôi đã truyền vào cho nó. Cái chuỗi tên của nó liên kết tất cả bọn đàn ông chúng tôi lại với nhau. Nhưng chúng tôi gọi nó là Quincey.

Trong mùa hè năm nay chúng tôi làm một chuyến du lịch về Transylvania, và đi qua vùng đất cũ mà ở đó tràn đầy những kỷ ức sinh động và khủng khiếp cho chúng tôi. Gần như không thể tin được rằng những cái mà chúng tôi thấy bằng mắt mình và nghe bằng tai mình lại là những sự thật sống động. Tất cả mọi dấu vết giờ đã nhạt nhoà. Toà lâu đài vẩn đứng như trước, khuất sau trên khung cảnh hoang tàn rộng lớn.

Khi chúng tôi về nhà chúng tôi lại nói về những ngày tháng cũ, khi mà chúng tôi đã có thể nhìn lại mà chẳng còn tuyệt vọng, vì cả hai Godalming và Seward đều đã có gia đình hạnh phúc. Tôi để những giấy tờ ở một nơi an toàn ở cái nơi mà chúng tôi đã để nó sau cuộc trở về xa xôi ngày xưa. Chúng tôi điểm lại xác sự kiện, và tất cả khối tư liệu được ghi lại đã được biên soạn lại, để trở thành một tài liệu xác thực cao. Không có gì trong khối văn bản đánh máy, ngoài trừ sổ tay sau này của Minam, Seward và tôi, và những bản ghi của Van Helsing. Chúng tôi có thể sẽ khó khăn khi yêu cầu một ai, thậm chí chúng tôi đã mong ước như vậy, chấp nhập những điều đã được chứng thực trong câu chuyện man dại này. Van Helsing đã tổng kết tất cả khi ông ấy nói, với cậu con trai của chúng tôi bên đầu gối ông.

“Chúng ta không cần chứng minh. Chúng ta không yêu cầu ai tin chúng ta! Thằng bé này một ngày nào đó sẽ biết rằng mẹ nó là một người phụ nữ dũng cảm và hào hiệp như thế nào. Nó đã biết sự dịu dàng và sự chăm chút yêu đường của mẹ nó rồi đó. Sau này nó sẽ sẽ hiểu đã có những người đàn ông đã yêu thương bà ấy đến nỗi họ đã dám làm nhiều chuyện vì những điều tốt đẹp cho bà.

JONATHAN HARKER


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.