Ba Chị Em Nhà Họ Tống

Chương 39


Bạn đang đọc Ba Chị Em Nhà Họ Tống – Chương 39

Ba Chị Em Nhà Họ Tống
Nguyên Tác: Nguyễn Vạn Lý
Chương 39: Người Ở Lại Trung Hoa
Nguồn: vietshare
 
Gia đình nhà họ Tống vẫn còn một người ở lại Trung hoa. Đó là bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Tôn Dật Tiên. Bà thù ghét phe Tưởng Giới Thạch đến nỗi không chịu theo gia đình ra ngoại quốc hoặc Đài Loan. Chị em bà hầu hết lánh nạn tại Hoa Kỳ; người con chồng của bà là Tôn Khoa thì sang Pháp. Tháng 5- 1949, quân cộng sản tiến vào Thượng Hải thì bà quyết định ở lại. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai gửi thư riêng cho bà, mời bà lên Bắc Kinh tham dự lễ tuyên cáo thành lập tân chế độ. Thoạt đầu bà Khánh Linh từ chối, lấy lý do Bắc Kinh là nơi gợi cho bà những kỷ niệm buồn vì chồng bà chết tại đó. Cuối cùng chính quyền cộng sản phải cử bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, thân hành xuống tận Thưởng Hải mời bà. Lúc đó bà mới nhận lời. Bà dùng xe lửa đi Bắc Kinh. Khi xe lửa của bà tới Bắc Kinh, bà được đông đủ lãnh tụ cộng sản cao cấp nhất ra tận sân ga đón chào, gồm có cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức và nhiều người khác.
Ngày 1- 10- 1949, Bà đứng cạnh Mao Trạch Đông tại khán đài trên Thiên An Môn để nghe Mao Trạch Đông tuyên cáo thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, và chứng kiến hàng triệu người diễn hành. Lúc đó bà đã 57 tuổi.
Phe cộng sản phải trọng vọng biệt đãi bà Tống Khánh Linh, và mời bà lên khán đài Thiên An Môn mặc dù bà không phải là một đảng viên cộng sản, vì bà có một uy tín rất lớn trước quảng đại quần chúng Trung hoa. Người Trung hoa vẫn tôn kính chồng bà là Tôn Dật Tiên. Kể từ lúc Tôn Dật Tiên chết, bà được coi là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng của chồng bà và của Trung hoa. Quần chúng càng ngưỡng mộ bà hơn khi bà tỏ ra thù ghét chế độ Quốc dân đảng thối nát do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Bà không bao giờ hùa theo phe Tưởng để phe Tưởng có thể lạm dụng uy tín chính trị của bà. Không những thế, trong những năm cuối cùng của phe Tưởng tại Trùng Khánh, bà hầu như bị giam lỏng tại gia.
Khi cuộc nội chiến Quốc Cộng chấm dứt, Khánh Linh trở về sống tại căn nhà cũ tại Thượng Hải. Khi chính phủ Trung cộng thành lập, bà được mời làm phó chủ tịch chính phủ tại Bắc Kinh, một chức vụ tượng trưng, hữu danh vô thực, vì cộng sản đang cần đến uy tín của bà. Căn nhà bà từng sống chung với Tôn Dật Tiên trên đường Molière tại Thượng Hải được biến thành một thánh tích quốc gia. Bà dọn về căn nhà cũ của thân phụ. Trong chính quyền Trung cộng, bà chỉ quý mến thân thiện với Chu Ân Lai. Bà chỉ gặp Mao Trạch Đông một vài lần, nhưng thường cố ý tránh né. Năm 1960 bà bị bệnh ung thư bạch huyết và sống bệnh tật trong hai mươi năm cuối cuộc đời bà.
Năm 1950 cuộc chiến tại Triều Tiên bùng nổ. Trung Cộng cho rằng Mỹ muốn dùng Triều Tiên như một bàn đạp để xâm chiếm Trung hoa cho phe Tưởng Giới Thạch, nên tung mấy triệu chí nguyện quân sang chiến đấu giúp Bắc Triều Tiên. Bà Khánh Linh kịch liệt tố cáo Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến tại Triều Tiên, và bà nỗ lực tranh đấu cho hòa bình thế giới. Năm 1951 bà được trao tặng giải Hòa Bình Stalin. Tháng 12- 1952, bà lãnh đạo một phái đoàn Trung cộng tham dự Hội Nghị Hòa Bình Các Dân Tộc tại thủ đô nước Áo, tại đó bà ngồi ghế chủ tọa cùng với những nhân vật nổi tiếng thế giới. Bà tố cáo Hoa Kỳ dùng chiến tranh vi trùng tại Triều Tiên. Vào giữa tháng 1- 1953, trên đường về nước, bà ghé qua Mạc tư khoa, và là người khách ngoại quốc cuối cùng gặp Stalin trước khi Stalin chết.

Kể từ năm 1950, bà Khánh Linh dấn thân vào các hoạt động bảo vệ thiếu nhị Bà bị xẩy thai đứa con duy nhất của bà năm 1922, bây giờ bà dành tất cả tình thương ọi trẻ con trong xã hội. Địa vị của Khánh Linh vượt quá cả cái giới hạn tượng trưng mà người cộng sản dành cho bà. Năm 1957, khi Mao Trạch Đông đi Mạc tư khoa tham dự Hội nghị Cộng đảng Quốc tế, Mao mời bà Khánh Linh làm một thành viên của phái đoàn Trung cộng. Mao Trạch Đông mời bà ngồi cạnh khi Mao ký bản tuyên ngôn vào lúc bế mạc hội nghị. Là một người vừa lôi cuốn, khôn khéo và tận tình dâng hiến cho phúc lợi của quần chúng, bà Khánh Linh đã biểu tượng cho những hình ảnh đẹp nhất cho Trung hoa. Bà đã tham dự nhiều chuyến du hành thiện chí trên thế giới và đã tạo được những ấn tượng rất thuận lợi. Tại thủ đô Ấn Độ năm 1955, thủ tướng Nehru đã nói về Khánh Linh: “Trong những năm vừa qua, dù Trung Hoa trải qua bất cứ cơn bão tố nào, niềm tin của bà Tống Khánh Linh không bao giờ lung laỵ Bao giờ bà cũng lên tiếng cho hòa bình.”
Người cộng sản cũng biết ơn sự ủng hộ của bà Khánh Linh, và đã cung cấp cho bà một cuộc sống sang trọng. Nhà riêng của bà tại Bắc Kinh là một dinh thự bên trong Cấm Thành, nơi trước kia vua Phổ Nghi của nhà Thanh chào đời. Bà cũng được cung cấp một số đông đảo gia nhân. Chính cái dinh thự sang trọng dành cho bà đã khiến bà bị chỉ trích đã sống một đời xa hoa trong khi quần chúng mỗi gia đình chỉ có một phòng ngủ. Thực ra bà không có một lương tâm phạm tội. Nếu bà chọn lựa con đường vật chất tiền tài thì bà có thể sống sang trọng gấp trăm lần như thế, như các chị em của bà. Nhưng bà từ chối mọi của cải vật chất, và chỉ sống một cuộc đời thanh đạm. Bà coi của cải và sự hoang phí của quá khứ là kết quả của sự khai thác bóc lột. Chính vì thế bà thích sống trong căn nhà cũ của thân phụ tại Thượng Hải hơn là cái dinh thự nguy nga đồ sộ dành cho bà tại Bắc Kinh.
Có một người quyền lực tại Bắc Kinh thù ghét bà Khánh Linh. Đó là Giang Thanh, vợ cuối cùng của Mao Trạch Đông. Giang Thanh rất căm giận khi Khánh Linh được coi là người phụ nữ số một của Trung hoa. Giang Thanh nghĩ rằng địa vị ấy phải là của mình. Năm 1966, khi Giang Thanh phát động cuộc Cách mạng Văn hóa, thì một trong những nạn nhân đầu tiên của Giang Thanh là bà Khánh Linh. Năm đó bà Khánh Linh đã 73 tuổi. Thoạt đầu một người vệ sĩ của bà chết một cách bí mật. Hồng vệ binh của Giang Thanh trương biểu ngữ tố cáo Khánh Linh là tư sản phản động, vì bà rất yêu thích những nghệ phẩm đẹp, vẫn để tóc dài và không chịu gia nhập đảng cộng sản. Trước đó chính quyền cộng sản cho xây một ngôi đền thờ Tôn Dật Tiên tại nơi sinh quán của Tôn Dật Tiên. Bây giờ đền thờ này bị Hồng vệ binh đập phá san bằng. Hồng vệ binh tố cáo Tôn Dật Tiên làm một cuộc cách mạng tiểu tư sản. Cuối năm 1966, mộ của song thân bà bị khai quật lên, và Hồng vệ binh gán cho vợ chồng Tống Giáo Nhân là đầu sỏ của một gia đình độc ác, đã sinh sản ra những kẻ thù của nhân dân. Bà Khánh Linh rất đau lòng khi mộ của cha mẹ bị khai quật xúc phạm đến như thế.
Một ngày tháng 9- 1966, Hồng vệ binh Thượng Hải tràn vào nhà bà Khánh Linh để đập phá đồ đạc và cướp đồ. Chúng định cắt mớ tóc dài của bà. May mắn lúc đó bà không có nhà, nhưng bà không khỏi kinh hoàng và cảm thấy có thể bị làn sóng đỏ tràn ngập. Chu Ân Lai được tin bà bị tấn công, vội vàng đứng ra can thiệp, cảnh cáo Hồng vệ binh không được đụng chạm tới bà. Chu Ân Lai ra nghiêm lệnh: “Tuyệt đối không được đụng chạm tới đồng chí Tống Khánh Linh.” Ngôi mộ của song thân bà được trùng tu lại, và quân đội được phái tới canh gác tư thất của bà và ngôi mộ của song thân bà. Chu Ân Lai đã hết sức bảo vệ bà Khánh Linh. Trong buổi lễ kỷ niệm sinh nhật của Tôn Dật Tiên ngày 12- 11- 1966, Chu Ân Lai phải trích dẫn những bài diễn văn dài của Mao Trạch Đông ca ngợi Tôn Dật Tiên năm 1956, khi Mao xác nhận vai trò lịch sử quan trọng của Tôn Dật Tiên. Nhờ thế Giang Thanh mới chịu bỏ qua và để bà Khánh Linh được yên thân.
Tuy bà Khánh Linh không còn bị xúc phạm trực tiếp nữa, nhưng bà vẫn sống trong sự bất ổn và lo sợ. Bà sống trong một tình trạng căng thẳng, không dám đi ra khỏi nhà và cũng không dám tiếp khách. Mọi hoạt động của bà ngừng hẳn. Nhiều người bà con bên ngoại của bà bị Hồng vệ binh tấn công vì tội có thân nhân ở ngoại quốc. Bà Khánh Linh bất lực không thể cứu giúp gia đình họ hàng được. Nhưng bà cương quyết bênh vực lý tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên. Bà cũng vẫn tìm cách bênh vực giúp đỡ những đảng viên cộng sản bị Giang Thanh hành hạ. Khi bà Vương Quang Mỹ, vợ của Lưu Thiếu Kỳ, bị tống giam vào ngục tối, chính bà Khánh Linh đã tìm cách giúp các con của Vương Quang Mỹ được vào thăm mẹ. Nhưng cũng phải sáu năm sau, mãi đến năm 1972, các con của Vương Quang Mỹ mới được gặp lại mẹ. Vương Quang Mỹ là một tuyệt thế giai nhân, thế mà chỉ mấy năm nằm trong tù của Giang Thanh, Vương Quang Mỹ đã trở thành một người khác hẳn, yếu đến nỗi không thể đứng dậy được, tóc rụng gần hết và ho khạc ra máu.
Năm 1966, khi địa vị của Mao Trạch Đông được đưa lên ngang hàng với thần thánh, và tiền nhân bị chê bai, thì bà đọc một bài diễn văn rất dài trong buổi lễ kỷ niệm Tôn Dật Tiên. Bà trình bày rất chi tiết mọi hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên. Bài diễn văn của bà năm đó không có những khẩu hiệu cuối diễn văn: “Vạn tuế đại lãnh tụ Mao chủ tịch!” như thường lệ. Cuộc đời bà sống với cộng sản thực ra cũng chỉ là một thứ đi đầy trong sự hào nhoáng bề ngoài. Bà không khỏi đau lòng khi thấy tên em gái là Tống Mỹ Linh bị coi là tội phạm chiến tranh số một tại Trung Cộng, và gia đình nhà họ Tống bị coi là một trong bốn gia đình tội ác nhất Trung hoa.
Khánh Linh đã có một đời góa phụ dài nhất, suốt 56 năm kể từ năm 1925 khi Tôn Dật Tiên từ trần và bà còn rất trẻ, mới chỉ có 32 tuổi, cái tuổi đẹp nhất của một người đàn bà. Bà có rất nhiều người ái mộ, cả người Trung hoa và người ngoại quốc. Thủ tướng Nehru của Ấn Độ gặp bà năm 1927 tại Mạc tư khoa đã vô cùng say mê bà. Về sau này trong phòng làm việc của Nehru lúc nào cũng có treo hai tấm hình đàn bà, một tấm là hình của người vợ đã chết và một tấm là hình của Khánh Linh.
Ngoài Nehru ra còn nhiều ký giả ngoại quốc cũng say mê bà sau khi gặp bà. Sau này người ta đồn rằng bà có một mối tình khác đối với người thư ký riêng của bà, nhưng chuyện đó có thể là sản phẩm tưởng tượng của Giang Thanh nhằm hạ uy tín của bà. Người Trung hoa thương xót bà phải sống cảnh góa bụa khi còn rất trẻ, nhưng họ cũng không muốn bà kết hôn một lần nữa. Họ muốn bà là một hình ảnh đẹp vĩnh hằng. Thực ra Khánh Linh lúc nào cũng thận trọng giữ gìn tiếng thơm của bà. Bà không phải chỉ là một góa phụ thủ tiết thờ chồng đã chết, và cũng không phải chỉ là một góa phụ đạo đức bảo vệ danh tiếng trong sạch của mình. Đúng ra bà đã kết hôn với lý tưởng của bà, và không muốn làm nguy hại đến những lý tưởng đó để kẻ thù có thể làm ô nhục bà.
Khánh Linh không có con. Bà bị xảy thai một lần trong lúc phải chạy trốn khi dinh tổng thống tại Quảng Châu bị quân phản loạn của Trần Quýnh Minh tấn công. Trong những năm cuối cùng của bà, Khánh Linh để hết tâm trí chăm sóc hai người con gái nuôi. Khi phong trào Hồng vệ binh tan rã, và Giang Thanh bị bắt, cuộc đời bà lại trở lại bình lặng. Lần xuất hiện cuối cùng của bà trước công chúng là ngày 8- 5- 1981, khi bà nhận bằng tiến sĩ luật khoa danh dự tại đại học Victoria, Gia Nã Đại.

Khánh Linh ủng hộ đường lối kinh tế thực nghiệm của Đặng Tiểu Bình. Khi nhóm Giang Thanh bị bắt, và Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền, bà đã hết sức vui mừng và viết trong bài ” Chí Nhân Dân Nhất Định Thắng”: “Hôm nay tôi đã ngoài 80 tuổi. Nhưng khi tôi được chứng kiến con tàu của nước Tân Trung Hoa đi đúng đường sau khi suýt bị lật chìm, và bây giờ đang thẳng tiến một cách huy hoàng, vượt qua được mọi sóng gió, thì không lời nào diễn tả hết được niềm vui và hạnh phúc của tôi. Bây giờ chúng ta lại có hy vọng cho Trung Hoa”
Ngày 16- 5- 1981, bà Khánh Linh được Trung Cộng phong chức Tổng thống Danh dự của Trung cộng. Và tuần lễ sau đó bà bị bắt buộc gia nhập đảng cộng sản Trung hoa. Nhưng thực ra lúc ấy Khánh Linh không biết gì về việc được bầu làm tổng thống và việc gia nhập đảng cộng sản, vì bà đã hôn mê vì bệnh ung thư rồi. Ngày 19- 5- 1981, bà từ trần tại Bắc Kinh, hưởng thọ 88 tuổi. Các lãnh tụ lớn của Trung cộng như Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đặng Dĩnh Siêu… đã tới nghiêng mình trước giường chết của bà.
Bà Khánh Linh để lại chúc thư xin được chôn cất tại Thượng Hải, bên cạnh mộ phần của song thân, mặc dù khi còn sống, thân phụ bà là Tống Giáo Nhân đã từ bà khi bà nhất quyết kết hôn với Tôn Dật Tiên. Bà không muốn được chôn bên cạnh mộ chồng. Bà muốn chứng tỏ rằng bà cũng là một chiến sĩ độc lập tranh đấu cho đất nước Trung hoa, chứ không phải chỉ là một cái bóng mờ bên cạnh Tôn Dật Tiên.
Bà Khánh Linh tận tụy suốt cuộc đời cho lý tưởng yêu mến nước Trung hoa của bà. Bà đã đạt được mục đích ấy khi cả nước Trung hoa kính trọng biết ơn bà, và bà là người đã làm rạng danh nhà họ Tống. Bà Tống Khánh Linh quả thực là một người phụ nữ vĩ đại nhất của Trung hoa trong thế kỷ 20. Hai người chị và em của bà là Ái Linh và Mỹ Linh cũng thỏa mãn được chí nguyện của họ. Ái Linh đã thành công về tiền bạc và là người giầu nhất nước Trung hoa. Mỹ Linh cũng đã trở thành người đàn bà uy quyền nhất Trung hoa trong địa vị một tổng thống phu nhân, vợ của nhà độc tài quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Người Trung hoa đã nhận xét rất đúng về ba chị em nhà họ Tống, khi họ nói: “Trong ba chị em nhà họ Tống thì một người yêu tiền, một người yêu quyền và một người yêu nước Trung Hoa”
The end!
    Ba Chị Em Nhà Họ Tống
    Nguyên Tác: Nguyễn Vạn Lý
    Chương 21: Vai Trò Của Borodin Tại Trung Hoa (1)

    Nguồn: vietshare
     
    Sau khi bị sứ quân Quảng Đông lật đổ, Tôn Dật Tiên trở về Thượng Hải nằm liếm vết thương chờ thời. Đang cơn túng quẫn bị nhiều người xa lánh vì việc sứ quân Quảng Đông công bố tài liệu hợp tác với cộng sản Nga, và không biết xoay trở cách nào thì phái bộ Nga sô do Joffe cầm đầu tìm đến. Tôn Dật Tiên và phái bộ Nga sô thảo luận nhiều ngày liên tiếp, tìm phương thức hợp tác. Joffe cố thuyết phục Tôn Dật Tiên rằng Nga sô không có tham vọng đất đai tại Trung hoa. Joffe chứng minh một xã hội phong kiến như Trung hoa không thể là một vùng đất tốt cho chủ nghĩa cộng sản. Những điều Joffe nói có lẽ phản ảnh đúng ý kiến của Lênin và Trotsky đang cầm quyền lúc đó, chứ không phải chủ trương của Stalin sau này. Joffe nhấn mạnh trong công cuộc chống lại ngoại bang, Trung hoa có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của Nga sô.
    Tôn Dật Tiên cẩn thận yêu cầu Joffe viết giấy xác nhận những nguyên tắc mà chính quyền cộng sản Nga sô đã công bố khi mới thành lập chế độ cộng sản, như từ bỏ các nhượng địa Trung hoa, và xóa bỏ những hòa ước giữa Nga hoàng và triều đình Mãn Thanh. Các điều này đã được công bố trong bản thông cáo chung bằng Anh ngữ khi “đồng chí” Joffe rời Thượng Hải đi Tokyo ngày 26- 1- 1923. Bản thông cáo không tiết lộ những hứa hẹn của Nga sô giúp đỡ Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng về tài chánh trong mưu đồ tranh quyền làm chủ Trung hoa. Về phần Tôn Dật Tiên, trước hết ông phải chứng tỏ khí thế của mình bằng cách kiểm soát được miền nam Trung hoa, và cũng để tỏ thiện chí, Tôn Dật Tiên phải cho đảng cộng sản gia nhập Quốc dân đảng.
    Rồi vận may của Tôn Dật Tiên cũng trở lại. Tôn Dật Tiên tìm cách liên kết được với hai sứ quân Vân Nam và Quảng Tây vốn là kẻ thù của sứ quân Quảng Đông. Quân đội của hai sứ quân này cùng với số binh sĩ trung thành với Tôn Dật Tiên đủ mạnh để bao vây và áp lực sứ quân Quảng Đông. Trần Quýnh Minh cảm thấy ở thế yếu, nên quyết định rời bỏ chính trị, ôm tài sản trở về hưởng phú quý tại Hương Cảng. Tất cả xảy ra đúng hai ngày trước khi Joffe đến gặp Tôn Dật Tiên. Chiến thắng bất ngờ gia tăng uy tín của Tôn Dật Tiên rất nhiều. Bây giờ Tôn Dật Tiên đường hoàng trở về Quảng Đông với tư cách là Tổng Thống Đặc Biệt, và đó cũng là điều kiện đầu tiên để được viện trợ của Nga sô.
    Lần này, Tôn Dật Tiên và Khánh Linh cẩn thận hơn, không dám ở trong dinh tổng thống cũ nữa. Tôn Dật Tiên cho sửa chữa lại một nhà máy trên một hòn đảo ngoài sông, và dùng nơi đó làm dinh tổng thống. Tại đây việc phòng thủ dễ dàng hơn, vì có sông bao quanh và toà nhà rất kiên cố có thể chống đỡ được những đợt pháo kích. Tôn Dật Tiên không tìm vệ sĩ là người Trung hoa. Ông mướn Morris Cohen, một cựu võ sĩ quyền Anh người Gia nã đại, làm vệ sĩ cho ông.
    Cuộc thảo luận sơ khởi với Joffe đã mở đường ột nhân vật Nga sô đặc biệt tới Trung hoa. Đó là Borodin, tên thật là Mikhail Markovich Grusenberg. Borodin được Lênin phái tới Trung hoa làm cố vấn cho Tôn Dật Tiên với tư cách là đại diện tổ chức cộng sản thế giới tại Trung hoa. Borodin có quyền hạn rất lớn, nhưng nhiệm vụ thật vô cùng nặng nề khó khăn. Việc khó khăn nhất của Borodin là phải tổ chức lại Quốc dân đảng thành một đảng chính trị thống nhất có kỷ luật. Từ trước Quốc dân đảng là một tổ chức rất lỏng lẻo, ai cũng muốn làm lãnh tụ chứ không chịu thừa hành lệnh của người khác. Việc khó khăn thứ hai là tài trợ, huấn luyện và trang bị quân đội Quốc dân đảng thành một quân đội có thể đảm nhiệm được vai trò chiến đấu. Quân đội Quốc dân đảng lúc đó vô kỷ luật, thiếu khả năng, thiếu trang bị về vũ khí, nhưng lại rất thiện nghệ hôi đồ cướp của, và rất khôn ngoan bỏ trốn khi gặp nguy hiểm.
    Borodin là một đảng viên cộng sản cao cấp có tài, đã từng hoạt động thành công trong những nhiệm vụ rất khó khăn tại nhiều quốc gia Mỹ châu và Âu châu. Borodin có lần suýt được bổ nhiệm làm đại sứ tại Anh quốc. Borodin rất thân cận Lênin, và được Lênin tin dùng trong những nhiệm vụ trọng yếu. Trước khi tới Trung hoa, Borodin hoạt động tại Tô Cách Lan, trợ giúp các thợ hầm mỏ của Anh đình công, và bị tù nửa năm tại khám đường Barlinniẹ Khi mãn hạn tù Borodin bị trục xuất khỏi Anh quốc. Nhưng khi trở về đến Mạc tư khoa, Borodin được Lênin phái ngay sang Trung hoa đảm nhiệm trách vụ quan trọng, đặt nền móng để đưa Trung hoa vào quỹ đạo cộng sản.
    Khi tới Trung hoa, Borodin được Tôn Dật Tiên rất quý mến tin cẩn. Ngày đầu tiên, Tôn Dật Tiên nắm tay Borodin, bắt ngồi xuống bên cạnh mình, và mỉm cười nhìn rất lâu vào mắt Borodin, như nhìn vị cứu tinh của mình. Borodin trông thấy ngay vị thế nguy hiểm của Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng. Thành phố Quảng Châu đầy binh lính của các sứ quân khác nhau. Các binh sĩ này hưởng lương của Quốc dân đảng, nhưng không thể tin cậy được. Tôn Dật Tiên chỉ có khoảng 200 tay súng trung thành làm vệ sĩ.
    Sứ quân Trần Quýnh Minh quay trở lại, tìm cách chiếm lại thành phố. Quân của Trần Quýnh Minh đóng ngay bên ngoài thành phố, lúc nào cũng sẵn sàng mở cuộc tấn công. Các lính đánh thuê của Tôn Dật Tiên thì chỉ mải du hí, không quan tâm đến sự phòng thủ thành phố. Borodin lập tức tuyển lựa được 450 tay súng trong đảng cộng sản để huấn luyện và thành lập đoàn quân xung kích đầu tiên. Năm tuần lễ sau khi tới Quảng Đông, ngày 15- 11, Borodin đem toán quân này đến trình diện Tôn Dật Tiên thì thấy Tôn Dật Tiên đang chuẩn bị thu dọn hành lý để đào tẩu, vì Tôn Dật Tiên mới nghe tin Trần Quýnh Minh sắp sửa tấn công vào Quảng Châu. Tôn Dật Tiên không chịu bàn luận với Borodin về kế hoạch đương cự lại Trần Quýnh Minh, mà chỉ muốn bàn luận kế hoạch bỏ chạy của ông được bảo đảm an toàn.
    Borodin vô cùng thất vọng chán nản, và đành phải tự mình đứng ra bảo vệ Quảng Châu bằng nhóm xung kích ít ỏi mới được thành lập. Borodin dạy cho toán xung kích phương pháp đánh giết tàn bạo nhất, theo kiểu mẫu hung bạo của thời cách mạng Nga sô tại St. Petersburg, Nga sộ Lối tấn công hung bạo của Borodin khác hẳn lối đánh nhau thông thường của các sứ quân Trung hoa. Trong các cuộc đụng độ giữa những sứ quân cũng có những tổn thất lớn lao, nhưng phần lớn là do sự hỗn loạn và tàn sát dân lành vô tội. Trong một trận đánh, quân của các sứ quân Trung hoa vừa chiến đấu vừa quan sát xem có thể vơ vét được của cải gì sau trận đánh. Các trận đánh chỉ có mục đích làm cho bên địch rút lui để mình tới vơ vét, chứ không cố tình tàn sát, và cũng không bao giờ có vấn đề liều chết cố thủ. Nếu chỉ bị núng thế thì họ lập tức rút lui ngay.

    Chính vì tinh thần chiến đấu thiếu hăng say của binh lính các sứ quân như thế, nên khi Borodin tung ra cuộc tấn công tàn sát thì năm trăm tay súng của ông đã đánh bại hàng ngàn quân của sứ quân Trần Quýnh Minh. Từ đường phố, đến các nhà chứa và sòng bạc, các tay súng của Borodin mặc sức bắn giết, không chậm trễ, không thương xót, phải bắn hạ tất cả, kể cả những kẻ đang chạy trốn. Sứ quân Trần Quýnh Minh vô cùng kinh hoàng trước sức tấn công vũ bão của bên địch, nên vội vàng bỏ chạy thục mạng, cùng với những quân lính chạy nhanh nhất của mình.Nhờ Borodin, lần này Tôn Dật Tiên không phải đào tẩu nữa. Nhưng chính quyền Quảng Đông của Tôn Dật Tiên thì thực là hỗn độn, bất trị. Người tây phương xa lánh Tôn Dật Tiên vì thấy Tôn Dật Tiên tin dùng Borodin. Nhiều người khuyên Tôn Dật Tiên nên loại bỏ Borodin. Một người bạn Hoa Kỳ đến thăm Tôn Dật Tiên với mục đích trình bày sự nguy hiểm khi dùng Borodin. Người bạn này hỏi Tôn Dật Tiên:
    “Bác sĩ có biết tên thực của Borodin là gì không? “
    Tôn Dật Tiên nháy mắt mỉm cười trả lời, “Có chứ. Tên thực của ông ta là Lafayette” (Lafayette là một người Pháp đã đến giúp người Mỹ chiến đấu chống người Anh để dành độc lập.) Câu trả lời này chứng tỏ Tôn Dật Tiên nhất quyết chọn con đường đi với Nga sộ Thực ra đó cũng là con đường duy nhất ông chọn được. Các nước tây phương khác đều từ chối không trợ giúp ông.
    Fanya, vợ của Borodin, và hai con trai cũng từ Nga sang sống tại Quảng Đông. Borodin còn có một thanh niên cộng sản Trung hoa rất thông minh khôn ngoan làm thư ký và đảm nhiệm công việc văn phòng. Người đó là Chu Ân Lai. Tôn Dật Tiên rất thán phục Borodin, nhất là sau lần thành công bảo vệ thành phố Quảng Châu. Borodin khuyên Tôn Dật Tiên phải nắm được một khu vực trung ương, như Hán Khẩu chẳng hạn, và một căn cứ tại Mông cổ có Nga sô đứng sau thì Tôn Dật Tiên mới có thể đương đầu được với các quốc gia tây phương thù nghịch. Trong những lần bàn luận với Tôn Dật Tiên, Borodin càng nhận thấy nhận xét của Lênin về Tôn Dật Tiên là đúng. Tôn Dật Tiên quả thực là một người ngây thơ, trong khi đó vẫn tưởng chỉ có mình mới là “Anh hùng, ” còn mọi người khác chỉ là một đám đông tầm thường.
    Tuy nhiên sự kiêu hãnh của Tôn Dật Tiên không phải là nguyên do sự nhức đầu của Borodin. Chính Tưởng Giới Thạch mới là người gây khó khăn cho Borodin. Ngay từ năm 1920, Tưởng Giới Thạch đã tỏ ra chú ý đến Nga sộ Tưởng đã học tiếng Nga và đã viết thư cho Tôn Dật Tiên biết chính sách của Nga sô thật là đúng khi tập trung hết nỗ lực vào an ninh nội bộ trước khi giải quyết những sự chống đối từ bên ngoài. Điều Tưởng thán phục nhất ở người Nga là kỷ luật. Không có kỷ luật thì không thể nào đạt được kết quả. Tưởng đã có quá nhiều kinh nghiệm bản thân với các đồng chí và quân lính Trung hoa. Nhiều lần Tưởng đã phải từ chức vì các thuộc hạ không áp dụng kỷ luật để có thể thi hành mệnh lệnh một cách chính xác và thành công. Tưởng đã từ chối tham gia chính phủ Quảng Đông cho đến khi được bảo đảm có được sự tuân lệnh của thuộc cấp và quân lính dưới quyền.
    Kỷ luật của Nga sô là trách nhiệm của tổ chức công an quốc gia, lúc đó được gọi là Cheka, đã xâm nhập cả vào quân đội, và làm câm họng mọi tiếng nói chống đối. Trong thời gian Cheka hoành hành nhất, các nhân viên Cheka đã bắn chết, đâm chết, dìm nước cho chết và đánh chết khoảng 500 ngàn người Ngạ Hoạt động khủng bố của Cheka được các lãnh tụ cộng sản ca ngợi và bênh vực, vì Cheka phục vụ cho quyền lợi của chính họ. Lênin từng tuyên bố, “Việc khủng bố quảng đại quần chúng cần phải được khuyến khích.”
    Tưởng Giới Thạch cũng nghe biết về những sự tàn bạo của công an Nga, vì rất nhiều người Nga bỏ trốn sự khủng bố của cộng sản đã tới Thượng Hải, tìm một nơi trú ẩn an toàn. Năm 1923, Tôn Dật Tiên cử Tưởng sang Nga sô nghiên cứu. Tưởng tuyên bố sẽ ở Nga ít nhất từ 5 đến 10 năm. Nhưng Tưởng vỡ mộng ngay khi tới Nga sộ Những huy hoàng của giới vô sản không hề có như trong những tài liệu tuyên truyền của Nga sộ Tưởng chỉ thấy một sự sợ hãi cùng sự đói rách của giới vô sản, cộng với một đời sống vô cùng buồn tẻ. Nga sô không phải là nơi Tưởng có thể tìm thấy sự thoải mái, nhất là một người đã từng sống buông thả như Tưởng. Tưởng cũng nhận thấy người dân Mạc tư khoa vừa sợ vừa ghét người Á Đông.
    Nhưng về phương diện chính trị thì cuộc viếng thăm Mạc tư khoa của Tưởng là một thắng lợi lớn cho Quốc dân đảng. Ngay khi tới Mạc tư khoa ngày 2- 9- 1923, Tưởng đọc diễn văn trước đại hội của tổ chức cộng sản quốc tế, bày tỏ niềm tin tưởng rằng cuộc cách mạng tại Trung hoa sẽ thành công trong hai hoặc ba năm. Khi nghe thấy các đảng viên cộng sản người Trung hoa chê bai Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng, Tưởng liền nhấn mạnh đại hội cộng đảng không hiểu phong trào cách mạng tại Trung hoa, và yêu cầu Nga sô cử thêm nhiều quan sát viên sang Trung hoa để nghiên cứu tình hình tại chỗ.
    Tưởng được đi thanh tra hồng quân Nga, viếng thăm các trường quân sự và các tổ chức đảng, thăm căn cứ hải quân Petrograd. Đúng ra Tưởng dùng rất nhiều thời giờ với các nhân viên mật vụ Cheka, và học hỏi phương thức của họ. Điều không may cho Tưởng là trong lúc ở Mạc tư khoa thì Lênin bắt đầu lâm trọng bệnh, hôn mê trước khi chết. Tưởng đàm đạo rất nhiều với Trotsky. Trotsky bảo đảm vai trò của Nga sô sẽ cung cấp tối đa tinh thần và viện trợ vật chất cho phong trào cách mạng tại Trung hoa, nhưng Nga sô sẽ không phái quân đội sang Trung hoa giúp Quốc dân đảng.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.