Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 5: Nhìn Về Phương Bắc, -chỉnh Đốn Phương Nam.
Khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi vua, ngài đã thiết lập các Kinh-diên quan để dạy các hoàng tử. Thông thường mỗi hoàng tử đều có nhiều Kinh-diên quan giảng dạy. Nhà vua, đôi khi là hoàng hậu sẽ chọn một trong các Kinh-diên quan, làm thầy chính cho mỗi hoàng tử. Thầy của Thái-tử được gọi là Thái-tử thái phó. Khi Thái-tử lên ngôi vua, thì ông thầy riêng này trở thành một đại thần phụ chính, giữ chức Thái-phó, hay Thái-sư, uy quyền bao trùm triều chính. Ông là cố vấn cho vua mọi vấn đề, được miễn mọi lễ nghi : Không phải quỳ tâu, không phải xưng tên, chức tước, được ngồi ghế.
Đại-Định hoàng đế lên ngôi vua, mới ba tuổi, nên chưa có Kinh-diên quan, dĩ nhiên không có Thái-phó. Đỗ Anh-Vũ không hề dạy nhà vua, văn dốt, vũ rát, cũng cứ được phong làm Thái-sư. Khi nhà vua bắt đầu học chữ, thì hai đại thần là Thái-úy Lưu Khánh-Đàm, Thượng-thư bộ Lễ Hoàng Nghĩa-Hiền được cử làm Kinh-diên quan. Năm nhà vua mười lăm tuổi thì Hoàng Nghĩa-Hiền mới được phong chức Thái-phó. Còn Lưu Khánh-Đàm thì vẫn chỉ là Thái-úy. Hai đại thần vẫn chưa được hưởng cái danh dự : Khi thiết triều được ngồi, không phải xưng tên họ, không phải quỳ gối.
Trước đây, khi Đỗ Anh-Vũ còn sống, mỗi khi một Kinh-diên giảng quan nhập cung giảng sách cho Thái-tử, thì y sai một người ngồi dự thính, nói rằng đó là sứ giả của Thái-hậu, quan sát việc thị giảng. Nếu Kinh-diên giảng quan là Hoàng Nghĩa-Hiền, Lưu Khánh-Đàm thì chính Anh-Vũ hoặc Thái-hậu ngồi nghe. Nếu hai ông giảng kinh, sách, thơ, văn thì không sao. Còn mỗi khi hai ông giảng về chính sự cổ kim của Đại-Việt, của Trung-quốc, thì Thái-hậu bắt ngừng ngay. Vì vậy hai ông chỉ giảng về văn thơ mà thôi. Từ ngày Anh-Vũ bị giết, hai ông mới được tự do giảng bất cứ điều gì mà hai ông muốn.
Hôm nay, sau buổi thiết Đông-cung triều đầu tiên, Long-Xưởng nói với Lưu Khánh-Đàm:
– Thưa thầy, hôm qua con đọc bộ Dụng binh yếu chỉ, của công chúa Thánh-Thiên có nhiều chỗ không hiểu. Xin thỉnh thầy vào cung khai sáng cho con.
Các quan ra về. Riêng Khánh-Đàm theo Thái-tử vào Đông-cung. Một đoàn thái giám, cung nữ theo sau. Biết chúng theo dõi mình, nhưng Long-Xưởng coi thường. Vương ban chỉ cho vú Loan:
– Xin u (tiếng bình dân để chỉ mẹ đẻ, mẹ nuôi, vú nuôi sữa) dạy con Nhài mang rượu, hoa quả vào thư phòng, để con vừa học, vừa dâng cho quan Thái-sư.
Hai thầy trò vào ngự thư phòng, chủ khách phân ngôi xong, vương mở cuốn Dụng binh yếu chỉ ra, để trước mặt Lưu Khánh-Đàm:
– Đây, thưa thầy đoạn này khó hiểu quá, mong thầy chỉ dẫn cho.
Khánh-Đàm nhìn vào trang sách, bất giác ông giật mình, vì giữa trang sách có mẩu giấy viết:
«Thưa thầy, tất cả cung nga, thái giám, mã phu, bộc phụ đều là người tai mắt của Thái-hậu cả. Con có nhiều điều muốn thỉnh giáo thầy. Vậy thầy có cách nào, để con được gặp riêng thầy không? ».
Khánh-Đàm biết phía sau ông với Thái-tử, bọn cung nga, thái giám đang hướng mắt, vểnh tai nghe ngóng, ông vội nói:
– Đoạn này, lối văn cổ, quá tối nghĩa, Thái-tử không hiểu cũng phải. Nghĩa chính của nó như sau « Đất nước ta vốn thuộc vùng thấp nhiệt, chỗ nào cũng có đồng ruộng, ao hồ, nên ta cần luyện đoản binh, mà không cần luyện trường binh » .
– Thưa thầy, thế sao thời đức Thái-tổ, Thái-tông, Khai-Quốc vương lại luyện cả trường binh, lẫn đoản binh?
– Không có gì lạ cả. Bởi bấy giờ vương đang muốn chỉ ngọn cờ lên Bắc đòi lại cố thổ. Chiến trường Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam là nơi ta có thể dùng trường binh. Để thần chú giải chi tiết đoạn này, hầu Thái-tử.
Nói rồi ông cầm bút viết:
«Rằm tháng sau, Thái-tử lấy cớ xem dân cho biết sự tình, rồi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ở Dương-xá. Thằng Ba là một người có rất nhiều bí ẩn. Cao nhất là Hoàng-thượng, Hoàng-hậu, điện hạ, cho đến triều đình đều không biết lý lịch y ra sao. Khi điện hạ xuất cung, ắt y sẽ đánh xe để kiểm soát. Thần có cách tìm ra căn cước y. Khi đi giữa đường, điện hạ đổi ý, bắt y đưa đi hành hương đền Kiêu-kị, thờ công chúa Gia-Hưng thời Lĩnh-Nam. Lão thần xin sắp xếp mọi sự ».
Thế rồi Lưu Khánh-Đàm chuyển qua giảng về chính sự Đại-Việt thời vua Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông. Sau khi giảng xong, ông hỏi:
– Không chóng thì chầy, Thái-tử sẽ lên ngôi cửu ngũ. Vậy thần muốn nghe cái chí của Thái-tử.
Long-Xưởng ngồi ngay ngắn lại, chắp tay xá Khánh-Đàm :
– Thưa thầy, chí của con là muốn gây dựng lại sự nghiệp của các vị tiên vương. Muốn thế thì trước hết phải làm gì ?
– Trước hết phải biết mình, biết người. Người đây là Tống. Không biết Thái-tử có thấy thế không ?
– Thưa thầy, con thấy chính sự của ta an hay nguy, thịnh hay suy, đều tùy thuộc vào lẽ thịnh suy của Trung-quốc. Thầy đã giảng về chính sự, pháp độ của tiên đế. Bây giờ con xin thầy giảng cho nghe về những biến cố của Trung-quốc vào thời Tuyên-Hòa, Tĩnh-Khang. Những biến cố này quá mới, nên chưa chép thành sử sách.
– Thái-tử hỏi vậy thực phải.
Ông hớp một chung trà rồi cất tiếng sang sảng :
– Thời vua Thần-tông, vì nghe lời Vương An-Thạch, vua dồn toàn lực các đội quân tinh nhuệ đang đối diện với Liêu, Hạ sang đánh Đại-Việt. Nhà vua hy vọng chiếm Đại-Việt trong một vài tháng, rồi đem tù-hàng binh Việt hợp với các đội quân đó quay lên Bắc chống Liêu, đòi lại một phần ba lãnh thổ bị Liêu chiếm. Nhưng, như điện hạ biết, các đội quân đó bị quân Việt, bị lam chướng giết gần hết. Tin này đưa về Liêu, Hạ. Hai nước cùng đem quân vượt biên tràn sang đánh Tống. Các đại thần Tống không biết làm gì hơn là cắt đất cho Liêu, cho Hạ để được an thân. Trải qua đời vua Triết-tông (1086-1100) lãnh thổ Tống càng thu hẹp, triều đình càng suy đồi. Đến thời Huy-tông (1101-1125) thì mất nước. Vua bị bệnh tật liên miên, lại say mê đạo Lão, coi mọi việc đều là hư ảo. Chính sự càng suy đồi. Bấy giờ Liêu bị một bộ lạc trong nước hưng thịnh lên, đem quân đánh đổ, lập ra nước Kim. Kim chiếm tất cả lãnh thổ của Liêu, chiếm luôn lãnh thổ Tống cắt dâng cho Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Khi quân Kim đang tiến như vũ bão, thì vua Huy-tông đóng cửa cung tịnh tu. Niên hiệu Tuyên-Hòa thứ bẩy (Aát Tỵ, DL.1125), vua nhường ngôi cho Thái-tử Hằng, để đi tu.
Long-Xưởng cười thích thú :
– Dường như bấy giờ bên Đại-Việt là niên hiệu Thiên-phù Duệ-vũ thứ 6, đời đức Nhân-tông nhà ta thì phải ?
– Khải điện-hạ đúng vậy. Thái-tử Hằng vừa khóc, vừa lên kế vị, tức vua Khâm-tông, lấy hiệu là Tĩnh-Khang. Khâm-tông tôn phong Huy-tông là Giáo-chủ đạo quân, Thái-thượng hoàng đế. Năm này bọn Nùng Quỳnh, Mạc Thất-Nhân ở châu Quảng-nguyên bên ta làm phản. Đức Nhân-tông sai Lễ bộ thị lang Lê Bá-Ngọc mang quân đi đánh. Thắng. Bọn Nùng, Mạc bỏ chạy sang Ung-châu xin kiều ngụ. Quan trấn thủ Ung-châu của Tống vẫn còn ớn ta trong sáu vụ đánh sang vào thời các tiên đế, chỉ vì họ chứa chấp bọn phản loạn. Họ bắt chúng giao cho ta.
Long-Xưởng lại cười :
– Muôn đời, Trung-nguyên luôn dòm ngó các nước lân bang, thấy yếu là ép, thấy mạnh là lùi.
– Năm sau, niên hiệu Thiên-phù Duệ-vũ thứ bẩy, bên Tống là Tĩnh-Khang nguyên niên (1126). Đức Nhân-tông nghe bên Tống hỗn loạn, có ý hợp với Kim đánh Tống, rồi chia hai thiên hạ. Ta lấy vùng Nam sông Trường-giang tức từ Trường-sa trở xuống. Phần còn lại nhường cho Kim.
Long-Xưởng thích quá suýt xoa :
– Tuyệt. Thưa thầy như vậy ta chỉ đòi lại phần đất bị Trung-nguyên chiếm, chứ ta đâu có lấn chiếm của họ ?
– Điện-hạ luận đúng.
– Con có một thắc mắc là, vào thời Lĩnh-Nam vua Trưng từng chiếm lại được vùng này. Lại nữa vào thời đức Thái-tông, Khai-Quốc vương đã hợp tám vùng tộc Việt giúp Nùng Trí-Cao tái chiếm cố thổ xưa. Sau đó bị bại. Thế mà vào thời đức Nhân-tông, khi ta đem quân phạt Tống. Sau khi diệt viện binh ở Hỏa-giáp, Hoài-hóa thượng tướng quân, Trực-tâm hầu Lý Đoan đã đề nghị với Trung-Thành vương rằng nhân thế thắng như chẻ tre, nên đem quân vượt Ngũ-lĩnh, chiếm Trương-sa, tái lập cố thổ thời Lĩnh-Nam. Tại sao bấy giờ ta không ra quân, mà bây giờ lại muốn ra quân ?
– Điện-hạ hỏi vậy thực phải. Bấy giờ ta không thể ra quân, vì ba lý do. Một là, binh lực Tống mạnh hơn bao giờ cả. Sở dĩ ta đánh sang mà thành công, vì ta xuất binh, tuyệt Tống không ngờ, không phòng. Ta cần rút về cố thủ để chống lại cuộc phục thù của Tống. Hai là bấy giờ quốc sản của Tống giầu có, lương thực sung túc. Ba là các nước Liêu Hạ đang án binh bất động. Ta ra quân, thì mình ta phải đương với Tống.
Long-Xưởng cung tay :
– Đa tạ thầy. Bây giờ con thử trình bầy ba lý do mà đức Nhân-tông muốn xuất quân, để thầy bổ khuyết cho. Một là lãnh thổ Tống hiện giờ hẹp hơn thời vua Thần-tông nhiều. Hai là lương thực, quân dụng, binh lực Tống bây giờ thua thời Thần-tông xa. Ba là, bây giờ Tống đang bị Kim bức ở phía Bắc muốn nghẹt thở, nếu phía Nam mà ta ra quân thì sẽ thành công.
Khánh-Đàm mỉm cười, khi thấy người học trò của mình kiến giải thức sáng sủa. Ông giảng :
– Còn một điều nữa khiến đức Nhân-tông ra binh là… Thời Lĩnh-Nam, ta chiếm lại được cố thổ, nhưng không giữ nổi, chỉ vì trong vùng tái chiếm, cứ ba người Hán mới có một người Việt. Người Hán nổi lên Bình man quy Hán. Nhưng nay, dân Trung-nguyên quá bất mãn với triều Tống. Vùng Tống nhượng cho Liêu, cho Kim, dân chúng ấm no, không có giặc cướp, lại chẳng có nạn tham quan ô lại. Khi họ chấp nhận sống dưới quyền cai trị của Kim được, thì họ cũng có thể sống dưới quyền cai trị của ta. Nếu như ta tái chiếm cố thổ, họ sẽ không giúp Tống triều, mà ngược lại còn có thể theo ta, giúp ta. Ta cai trị dễ dàng.
– Thưa thầy, thế việc liên minh này tiến hành ra sao ?
– Đức Nhân-tông nhân vụ Tống bắt tụi phản loạn trao cho ta, người lấy cớ đó sai sứ mang tài vật sang cống để tạ ơn, nhưng thực ra là dó xét tình hình.(1)
Ghi chú của thuật giả:
(1)Việc này ĐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ chép giản dị như sau :
Bính Ngọ Thiên-phù Duệ-vũ thứ 7, Tống Khâm-tông Hằng Tĩnh-Khang nguyên niên…
… Tháng 11 nhuận, sai Lệnh-thư gia Nghiêm Thường, Ngự-khố thư gia Từ Diên mang 10 voi thuần, kim, ngân, sừng tê, sừng nai, sang cống Tống để tạ ơn việc bắt Mạc Hiền. Sứ đến Quế-châu yết kiến Kinh-lược sứ. Kinh-lược sứ từ rằng «Năm nay tại Đông-kinh và các châu Kinh, Hồ, Lê đều đem binh đi đánh Kim, chưa biết lúc nào mới dứt. Dọc đường không còn ngựa trạm. Xin sứ giả đem lễ vật về » .
Chỉ độc giả Anh-hùng Đông-a mới biết chi tiết việc này mà thôi.
Long-Xưởng hỏi :
– Thưa thầy, rồi sau đó ta có sai sứ sang Kim không ? Tại sao việc Bắc tiến lại bãi bỏ ?
– Có đấy chứ. Đức Nhân-tông chuẩn bị sai sứ sang Kim. Nhưng sứ chưa lên đường, thì người băng. Vụ phục hồi cố thổ từ đấy không ai nói đến nữa. Mà dù có người nêu ra, cũng chẳng ai nghe, vì quốc sản khánh kiệt, binh lực tan rã sau cuộc nội chiến Thân Lợi khởi binh diệt Anh-Vũ không thành. Rồi Thiên-tử binh bị giải tán.
Đến đó con Nhài, người đầy tớ trung thành của vú Loan mang theo, nó bưng vào một đĩa chim bồ câu quay, một đĩa chả mực. Long-Xưởng rót một chung rượu đậu nành, hai tay trân trọng dâng cho Khánh-Đàm:
– Xin thầy cạn chung .
Rồi gắp đùi bồ câu quay bỏ vào bát Khánh-Đàm.
Vào thời phong kiến xưa, hoàng đế, hoàng hậu, thái-tử ban thưởng thức ăn cho các quan là sự thường. Nhưng thái độ cung kính đãi hiền của Long-Xưởng rất hiếm. Khánh-Đàm cảm động vì học trò hiếu kính thì ít, mà mừng vì tương lai Đại-Việt có một vị hoàng đế mẫn tiệp, biết nghe lời ngay, biết chiêu hiền, đãi sĩ không kém gì vua Trưng xưa; không thua gì Khai-Quốc vương trước đây… thì nhiều.
Ông vừa ăn, vừa chỉ vào con Nhài:
– Con bé này là người thế nào ? Dương như nó không phải là cung nga, nên thần không thấùy nó trang phục như cung nữ ?
– Thưa thầy nó là đứa con gái bất hạnh, rồi vú Loan mua về để hầu hạ Tăng Khoa. Khi vú nhập cung, thì mang nó theo.
Vương nói nhỏ :
– Trong Đông-cung này chỉ có vợ chồng vú Loan, đứa em sữa Tăng Khoa với nó là người thân tín của con.
– Tội nghiệp, đứa con gái này lưng ong chân tay dài, bàn chân bàn tay như úp măng, da trắng, dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển… chỉ phải cái mặt rỗ, bằng không thì là một tuyệt thế giai nhân.
Con Nhài cung tay :
– Tiểu tỳ đa tạ Thái-sư ban khen.
Nói rồi nó đứng hầu phía sau ông.
Lưu Khánh-Đàm tiếp :
– Năm Thiên-phù Khánh-thọ nguyên niên đời vua Nhân-tông ( Đinh Mùi, DL. 1127). Bên Tống là năm Tĩnh-Khang thứ nhì, Kim Thái-tổ A Cốt Đà sai con thứ nhì tên Oát Ly Bất cùng với tướng Niêm-Hãn đem quân đánh Tống. Oát Ly Bất phá tan các đạo quân của Tống, tiến về vây Biện-kinh. Tháng năm, năm ấy Biện-kinh thất thủ. Người Kim cướp hết tài vật mấy nghìn năm tại Biện-kinh, bắt hai vua Tuyên-Hòa, Tĩnh-Khang, hoàng hậu, phi tần, cung nữ mang về Bắc.(2)
Ghi chú của thuật giả:
(2)TS quyển 22, Huy-tông bản kỷ chép, về cái chết thê thảm của vua Huy-tông như sau :
… Năm Tĩnh-Khang thứ nhì (1127) tháng 2 ngày Đinh Mão, người Kim bắt vua về Bắc. Niên hiệu Thiệu-Hưng thứ 5 (Ất Mão, DL. 1135), tháng tư ngày Giáp Tý, vua băng ở thành Ngũ-quốc, thọ 54 tuổi. Niên hiệu Thiệu-Hưng thứ 7 (Đinh Tỵ, DL. 1237), tháng 9, ngày Giáp Tý, được tôn thụy hiệu là Thánh-văn, Nhân đức, Hiển hiếu hoàng đế. Miếu hiệu Huy-tông. Niên hiệu Thiệu-Hưng thứ 12 (Nhâm Tuất, DL. 1142), tháng 8 ngày Aát Dậu, tử cung (quan tài đựng xác vua) được đưa về Lâm-an… Niên hiệu Thiệu-Hưng thứ 13 (Quý Hợi, DL. 1143), tháng giêng ngày Kỷ Hợi tôn thêm thụy hiệu là Thể thần, Hợp đạo, Tuấn liệt, Tôn công, Thánh văn, Nhân đức, Huệ từ, Hiển hiếu hoàng đế.
TS quyển 23, chép về cái chết của vua Khâm-tông như sau :
…Niên hiệu Tĩnh-Khang thứ nhì tháng 4, ngày Canh Thân, gió lớn làm cây gẫy đá bay, người Kim bắt vua, hoàng hậu, hoàng thái tử về Bắc. Lại cướp hết các bảo vật như: Xe báu của vua, của hoàng hậu, đồ sứ, quần áo, mũ miện, lễ khí, pháp khí, nhạc khí, giáo phòng nhạc khí, tế khí, bát bửu, cửu đỉnh, ngọc khuê, đồ thờ trời, đồng nhân, cổ khí, các báu vật ở cung Cảnh-linh, lầu Đại-thanh, gác Tam-quán thư, các sách của châu quận, bắt hết thái giám, cung nữ, thợ thủ công, ca nhạc sĩ đem đi.
Tháng năm, ngày Canh Dần, Khang-vương lên nối ngôi ở Nam-kinh, tôn hiệu cho vua là Hiếu-từ, Uyên-thánh hoàng đế. Niên hiệu Thiệu-hưng thứ ba mươi mốt (Tân Tỵ, DL.1161), tháng 5, ngày Tân Hợi vua băng ở Kim. Tháng 7 năm đó, ngày Kỷ Sửu, tôn thụy hiệu là Cung-văn, Thuận-đức, Nhân-hiếu hoàng đế.
– Hai vua bị bắt rồi, con thứ của vua Huy-tông là Khang-vương Triệu Cấu, vượt Trường-giang xuống Nam-kinh, hô hào cần vương. Tuy Biện-kinh thất thủ, nhưng guồng máy cai trị của Tống ở miền Nam, miền Tây, miền Đông còn nguyên. Tướng sĩ, quan lại, hào kiệt, võ lâm tôn Triệu Cấu lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến-Viêm. Đúng lúc này đức Nhân-tông bên Đại-Việt lâm bệnh. Tháng 12, người triệu hạ thần vào nhận di chiếu rồi băng.
– Ban nãy thầy dạy rằng dân Tống chán ghét triều đình. Thế sao nay, võ lâm, hào kiệt còn giúp Triệu Cấu?
– Nguyên do như thế này: Kim đem hai vua về Bắc, làm nhục quá đáng. Họ bầy tiệc để chúa tôi vừa uống rượu vừa đem hai vua ra hành hạ. Họ đào một cái hố, chứa than quạt cho lửa hồng, lấy vỉ sắt đậy lên. Chúng bắt hai vua Tống mặc y phục da khỉ, đội mũ , đeo mặt nạ như khỉ, chân tay đeo lục lạc. Cuối cùng họ bỏ hai vua lên vỉ sắt. Chân hai vua bị nóng quá, nhảy chồm chồm lên, miệng rên la, lục lạc khua, giống hệt hai con khỉ. Chúa tôi Kim vừa uống rượu, vừa reo hò khoan khoái.
– Con hiểu rồi.
Long-Xưởng đoán: Tin này đưa về Trung-nguyên, khiến cho hào kiệt, võ lâm, dân chúng nổi giận… Họ nổi giận vì tự ái, mà phất cờ, chứ không vì triều Tống.
– Đúng vậy. Trong các hào kiệt, tường sĩ ấy, có năm người thuộc loại kiệt hiệt là Hàn Thế-Trung, Trương Tuấn, Ngô Giới, Ngô Lân, Nhạc Phi. Năm người đánh những trận long trời lở đất, chiếm lại được hầu hết các vùng ở phía Nam, Đông. Võ lâm Trung-nguyên gọi họ là Trường-giang ngũ kiệt.
– Trong năm người đó thì Nhạc Phi nổi tiếng hơn hết. Vậy tiểu sử ông ta ra sao ?
– Ông ta tự là Bằng-Cử, người đất Thang-âm, Tương-châu (Nay thuộc huyện An-dương, tỉnh Hà-Nam). Sinh niên-hiệu Sùng-ninh đời vua Huy-Tông nhà Tống (Quý Mùi, DL. 1103). Rất có hiếu với mẹ. Nhà nghèo, hiếu học, lầu thông Tả-thị Xuân-Thu, Tôn-Ngô binh pháp. Lớn lên, tòng quân theo Tông Trạch, đánh Kim. Sau làm tiên phong cho Trương Tuấn đánh Lý Thành. Có công đầu trong việc đánh quân Kim, tái chiếm vùng Giang-Hoài, được phong Vũ-an quân Tuyên-thừa sứ. Chính tay Tống Cao-tông viết lên lá cờ bốn chữ Tinh trung Nhạc Phi ban tặng. Nhờ phái Thiếu-lâm gửi giúp ba trăm đệ tử, Phi tiến quân đánh bại danh tướng Kim là Ngột Truật, đuổi Kim chạy dài, tái chiếm mười thành trong một tháng. Được phong hàm Thiếu-bảo, giữ chức Hà-Nam Bắc-lộ chiêu thảo sứ. Sau trận này, Phi mới biết rằng có tài dùng binh, mà không có tướng võ công cao, cũng khó khắc địch. Phi cùng Hàn Thế-Trung, Trương Tuấn, Ngô Giới, Ngô Lân tổ chức đại hội võ lâm ở Nam ngạn Trường-giang. Anh hùng võ lâm các gia, các phái nghe lời hiệu triệu của năm tướng, bỏ hết tỵ hiềm, sai tử đệ kết thành đội ngũ, theo giúp quân Tống. Trong dịp ngày, anh hùng võ lâm bầu Nhạc Phi làm minh chủ, rồi ban hành một tờ hịch mang tên Phá Hồ, phục cừu . Nội dung có ba điều quan trọng. Một là phục hồi Biện-kinh, để bảo tồn quốc thể. Hai là đánh thốc lên Bắc đem hai vua Tuyên-Hòa, Tĩnh-Khang về, để giữ chính thống. Ba là diệt hết bọn Hồ, tuyệt mầm hậu hoạn.
Long-Xưởng lắc đầu:
– Năm ông tướng này khí tiết có, tài dùng binh có, mưu lược có, nhưng thiếu cái mẫn tiệp. Chung cuộc chắc sẽ gặp những thất bại, chết đuối trên cạn.
– Điện hạ thử đoán xem, Thiệu-Hưng đế sẽ hành động như thế nào ?
– Con chắc cái ông vua Thiệu-Hưng, phải tính kế để cha, anh không thể trở về. Có lẽ ông ta phải chọn một trong các đường lối hành động sau: Một là cắt đất, chịu nhục tiến cống, nhường cho Kim miền Bắc, còn y thì giữ miền Nam. Hai là triệu Trường-giang ngũ kiệt về triều, trao cho những chức thực lớn, nhưng vô quyền. Trong năm tướng anh hùng trên, thì tên Nhạc Phi có tài cầm quân nhất, y sẽ vu cho Phi cái tội gì đó, rồi đem giết. Bốn tên còn lại, thì muốn vo tròn, bóp bẹp thế nào chẳng được.
– Quả đúng như Thái-tử ước tính. Thiệu-Hưng đế nghe tin này, vội vã ủy cho Tể-tướng Tần Cối sai sứ sang Kim nghị hòa. Điều kiện Tống đưa ra là: Tống nhường vùng Hoài-Bắc cho Kim. Hằng năm Tống nộp cho Kim ba nghìn tấm lụa, mười vạn lạng bạc, một vạn lạng vàng, hai mươi vạn thạch lúa. Khi sứ Tống sang Kim, thì đúng lúc Trường-giang ngũ hùng đang tiến quân như vũ bão, dân chúng ở những nơi bị Kim chiếm nổi dậy làm nội ứng. Vì vậy Kim chúa bằng lòng điều kiện của Tống đưa ra liền. Sứ Tống trở về phục mệnh. Nhưng trong khi đó, quân của Nhạc lại đánh bại Kim Ngột-Truật, chiếm Yển-thành, đang tiến về Chu-tiên trấn, cách kinh đô cũ của Tống có 45 dặm (22,5 km). Phi tuyên cáo với sĩ dân là, sau khi chiếm Biện-kinh, sẽ vượt Hoàng-hà lên Bắc diệt Kim, ép Kim trả hai vua (Canh Thân, DL. 1140). Tể tướng Tần Cối thấy nếu để Nhạc Phi tái chiếm Biện-kinh, thì thế lực Kim tan rã, ắt Kim trả hai vua về, rồi rút khỏi Trung-nguyên. Vì vậy, một ngày, y phát tới 12 tấm kim bài, bắt Nhạc Phi ngừng tiến quân, về triều phục mệnh. Nhạc Phi vâng chỉ ngưng tiến quân, khiến tướng sĩ, hào kiệt cùng phản đối. Nhạc Phi về triều, được trao cho chức Khu-mật viện phó sứ. Anh hùng thiên hạ khắp nơi thấy việc làm của Tần Cối, họ nhao nhao lên, đòi đem quân về triều giết gian tặc. Cối thấy uy tín Nhạc Phi quá lớn, càng kinh sợ. Y sai chân tay là Mặc Sĩ-Tiết đàn hạch Nhạc Phi rằng: Tại sao có kim bài gọi về, mà vẫn quân ? Phải đợi đến lần thứ mười ba mới chịu tuân chỉ. Cối sai giam cha con Nhạc Phi ở chùa Đại-lý, rồi giả chiếu chỉ giết đi (Tân Dậu, DL. 1141).
– Thưa thầy, con nghĩ việc gọi Nhạc Phi về, rồi giết chết Nhạc Phi là ông vua Thiệu-Hưng chứ không phải Tần Cối.
Khánh-Đàm không ngờ học trò mình lại thông minh ngư vậy, ông hỏi :
– Xin điện hạ minh giải ?
Long-Xưởng bật cười:
– Cái ông Nhạc Phi này có tài cầm quân nhưng là một thứ ngu trung, không xứng làm đại tướng. Chỉ nên cho làm chiến tướng mà thôi! Như thầy giảng, triều đình Nam Tống là do Triệu Cấu lập lên với hàng vạn quan chức… Nếu nay Nhạc Phi đem được hai vua về, thì ngôi vua của Cấu sẽ phải trả cho ông anh là vua Khâm-tông; quan chức sẽ thay đổi toàn diện. Trong lịch sử Trung-nguyên, thì đất không hai mặt trời, nước không hai vua. Khi một vua lên ngôi, thì một vua phải phế, rồi bị giết. Đó là lẽ thường tình. Con nghĩ, khi cái ông vua Thiệu-hưng nghe tin Nhạc Phi thắng trận, rồi truyền hịch đi khắêp nơi đòi đánh thốc lên Bắc đem hai vua Huy, Khâm về. Lại được tin anh hùng ứng nghĩa đông đảo, thì sợ hãi đến mất hồn mất vía. Chắc chắn ông ta phải giết Nhạc Phi để tự vệ. Dù ông ta có ngu, thì bọn văn quan ở tòa Trung- thư, Thượng-thư lệnh bàn ra, tính vào với Triệu Cấu, rồi cuối cùng đã giết cha con gã ngu trung Nhạc Phi.
Khánh-Đàm tránh né không muốn phê phán Thiệu-Hưng đế vì ông nghĩ đến việc Anh-Vũ lấn quyền Đại-Định hoàng đế, nhưng chính nhà vua ban chỉ sát hại công thần, tôn thất. Nếu bây giờ ông kết tội Thiệu-Hưng đế thì có khác gì kết tội Đại-Định hoàng đế. Ông nói lảng :
– Đó chẳng qua là Thái-tử lý luận.
Long-Xưởng lắc đầu:
– Được rồi, bây giờ con xin kiến giải, để thầy cho biết cao kiến.
– Thứ nhất Thiệu-hưng hoàng đế là ông vua thông minh, có tính quyết đoán. Ông ta lại là người cần lao chính sự, không việc gì mà ông ta không ghé mắt vào; trong khi Tần Cối là một tể tướng không có nhiều quyền. Thử hỏi như vậy làm sao y có thể giả mạo chiếu chỉ, bắt một tướng đang thắêng trận thế như chẻ tre lui quân? Rồi Nhạc Phi lui quân, một việc rầm rộ như thế màø nhà vua không biết ư? Lại nữa, Nhạc Phi đang cầm quân nghiêng nước, bỗng bị cách chức đem ve,à làm việc ở trong triều đến bẩy năm sau mới đem ra xử tội, rồi đem giết ở trong ngục. Gã Triệu Cấu có mù, có điếc đâu mà không biết? Sau đó con Phi là Vân cùng với tùy tướng của Phi, bị mang ra chợ giết; tài sản bị tịch thu. Triệu Cấu có bị bưng bít đến đâu, y cũng phải biết chứ? Việc này rõ ràng rằng, cái gã vua Tống chủ trương. Bởi cho đến lúc này, Cối cũng vẫn là tể tướng, được trọng dụng, tước tới Quận-vương. Nếu Cối giả chiếu chỉ thì nhà vua không giết y, ắt cũng cách chức y, chứ có đâu vẫn trọng dụng y ?(3)
Ghi chú của thuật giả:
(3)Theo Tống-sử quyển 473 trang 13.743 tới trang 13.767, Liệt-truyện 232, Gian-thần 3, thì Tần Cối được Cao-tông cực kỳ tin dùng cho đến khi băng. Mãi tới đời con Cao-tông là là Hiếu-tông, niên hiệu Thuần-Hy thứ nhì (Aát Mùi, 1175) y mới chết. Thọ 66 tuổi. Trước khi chết, tước của y là Kiến-Khang quận vương. Khi y chết, nhà vua ban cho thụy hiệu là Hiếu-Trung. Đến mãi niên hiệu Khai-Hỷ thứ nhì, vẫn là vua Hiếu-tông ( Bính Dần, 1206) tháng tư, mới ban chỉ đoạt vương tước. Nhưng hai năm sau, niên hiệu Gia-Định nguyên niên, cũng vẫn vua Hiếu-tông (Mậu Thìn, 1208) lại phục hồi danh dự, phong tước Thân-vương.
Khánh-Đàm ngừng lại, thở dài, chép miệng:
– Chả phải Trường-giang ngũ kiệt thiếu mẫn tiệp đâu, mà chỉ vì cả nghìn năm nay các tướng bên Trung-nguyên tuy tài ba, dũng cảm, nhưng họ không thoát ra ngoài Tả-thị Xuân-Thu, Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp mà thôi. Kìa Hàn Tín dụng binh như thần, một tay dựng nghiệp cho triều Hán, rồi kết qủa cả ba họ bị giết. Thời Đông-Hán, Nghiêm Tử-Lăng một tay dựng nghiệp cho vua Quang Vũ, kết quả bị Quang Vũ ném vào tù định giết. Rất may được anh hùng Lĩnh-Nam cứu ra.
– Thưa thầy, theo các thư tịch trên của Trung-nguyên, thì một đấng minh quân cần những đức tính gì? Một tể tướng cần những đức tính gì? Một vị tướng cần những đức tính gì?
– Thái tử hỏi vậy thực phải. Ta luôn phải đối đầu với Trung-nguyên, thì cần phải biết các ông vua, ông tể tướng, các ông tướng của họ được đào tạo như thế nào. Biết được cái sở học của họ, ta mới ước tính cái sở hành của họ mà đối phó. Có phải thế không?
– Thưa thầy vâng.
– Thần xin vì Thái-tử mà nói về những ông vua, những ông đại thần, những ông tướng của Trung-nguyên đã. Trước hết là những ông vua. Phàm làm vua phải hội đủ tám đức là : Nhân, hiếu, thông, minh, kính, tắc, kiếm, học. Các bà hoàng hậu, các bà phi, khi sinh ra một hoàng nam, là phải dạy cho con mình hội đủ bằng ấy đức tính. Khi bắt đầu học chữ, đến lượt quan Thái-phó phải dạy Tứ-thư, Ngũ-kinh, và luyện cho hoàng tử sao có đủ các đức tính trên. Trong tám đức thì đức nhân, đức hiếu là quan trọng nhất.
Long-Xưởng à lên một tiếng :
– Con hiểu rồi ! Con hiểu rồi ! Trước đây mỗi khi đọc Bắc-sử, thấy một ông vua băng, dù ông vua đó bất nhân, bất hiếu, ngu đần đến mấy đi nữa, thì ông vua con đặt tôn hiệu cho vua cha, nhất định ít nhất phải có hai hay ba chữ trong tám chữ trên. Như Tống Thái-tổ có chữ « chí minh, đại hiếu hoàng đế ». Vua Chân-tông có chữ « văn minh, võ định, chương thánh, nguyên hiếu hoàng đế ».Vua Nhân-tông có chữ « thần văn, thánh võ, duệ triết, minh hiếu hoàng đế ». Vua Thần-tông có chữ « anh văn, liệt võ, khâm nhân, thánh hiếu hoàng đế ». Chỉ duy vua Thái-tông là không có chữ hiếu trong thụy hiệu mà thôi. Thưa thầy tại sao vậy?
– Thái-tử minh mẫn thực, đã nhận ra cái khác thường ấy. Khi vua Thái-tông tại vị, cũng như sau khi băng, Tống triều tranh né nói đến chữ hiếu. Nên toàn triều Tống, duy vua Thái-tông là không có chữ hiếu trong thụy hiệu. Bởi ông đã làm một việc đại bất hiếu, bỏ di chúc của mẹ để lại, không nhường ngôi cho em là Tần-vương Đình-Mỹ mà nhường ngôi cho con là vua Chân-tông. Trái lại ông vu hãm cho em những tội tưởng tượng, đầy đi xa, rồi giết chết.
– Thưa thầy, còn các quan văn, quan võ của Trung-nguyên, thì họ phải có đức tính gì ?
– Cũng cần tám đức. Tám đức của quan văn là : Trung, chính, minh, biện, thứ, dung, khoan, hậu. Còn tám đức của quan võ gồm : Liêm, quả, trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, minh.
– Thưa thầy, vì được huấn luyện như vậy, nên quan văn, quan võ của họ thiếu cái mẫn tiệp. Con thì con cho rằng quan văn hay quan võ cũng cần có nhiều đức, nhưng căn bản là tinh, minh, mẫn, cán.
Đến đó viên thái giám hầu cận vào cung tay :
– Khải Thái-tử, phủ thừa Thăng-long có tấu trình khẩn.
Nói rồi y trình cho Long-Xưởng một trục giấy. Long-Xưởng trao cho Lưu Khánh-Đàm. Lưu cầm lấy đọc. Long-Xưởng thấy ông mở to mắt, ngồi bất động, thì biết có việc chẳng lành. Vương hỏi :
– Thưa thầy, việc gì đã xẩy ra ?
– Thái-tử thiềm sự, Hộ-bộ tham tri, trên đường dư Đông-cung triều trở về bị ám toán. Ông ta bị giết cùng với mã phu. Con ngựa cũng bị giết. Ngõ-tác giảo nghiệm cho biết, ông ta cùng với mã phu, ngựa bị giết vì Huyền-âm chưởng.
Hai thầy trò cùng kinh hãi nhìn nhau : Đức-Ý bị giết nhất định do việc ông ta trình bầy những lạm chi của cung Cảm-Thánh. Như vậy rõ ràng một trong các quan dự Đông-cung triều đã mật tấu với Thái-hậu, và Thái-hậu đã ra lệnh cho người đi giết ông ta để dằn mặt các quan.
Đến đây thấy Khánh-Đàm hơi mệt, Long-Xưởng vái một vái:
– Xin thầy tạm nghỉ, ngày khác con lại thỉnh thầy tứ giáo.
Long-Xưởng truyền cho cung nữ chầu hầu :
– Người mời Nhu-mẫn đoan duệ phu nhân.
Lát sau, vú Loan bước vào hành lễ với Khánh Đàm :
– Tiểu tỳ xin tham kiến Thái-sư.
– Phu nhân không nên đa lễ.
Vú Loan trao cho Long-Xưởng năm bao thư, với năm cánh thiếp:
– Khải điện hạ, cỗ dâng Thái-sư, Thái-phó, chư vị Kinh-diên quan, tiểu tỳ đã kiểm soát kỹ rồi. Chỉ còn chờ điện hạ ký vào thiếp này là tiểu tỳ thân đem đến dinh các ngài ngay.
Long-Xưởng ký rồi nói với Khánh-Đàm :
– Thưa thầy ! Hôm nay là ngày con thiết Đông-cung triều lần đầu tiên. Nhớ công ơn dạy dỗ của các thầy, con sai làm cỗ dâng các thầy, gọi là tỏ lòng hiếu kính. Vú của con thân dẫn cung nga, thái giám mang tới dinh các thầy.
Khánh-Đàm nói mấy câu cảm tạ, rồi lên xe ra về.
Một cỗ xe tứ mã chạy vào cổng phủ. Thân binh báo:
– Có công chúa Đoan-Nghi xin cầu kiến.
– Để ta ra đón công chúa.
Long-Xưởng với Tăng Khoa ra cổng cung. Đoan-Nghi thấy anh thì reo lên:
– Anh! Nghe nói hôm nay anh thiết Đông-cung triều. Em học xong vội đến thăm anh. Sao, có mệt lắm không?
Long-Xưởng nắm tay em:
– Mệt gì thì mệt, nhưng cứ gặp em là anh hết mệt ngay.
Thấy trên xe còn có một thiếu nữ, dáng điệu thanh nhã, mắt bồ câu, da trắng mịn, môi hồng tươi. Nhất là cái lưng tròn. Thực là một tuyệt thế giai nhân. Thiếu nữ ngồi cạnh Đoan-Nghi, hành lễ với Long-Xưởng. Long-Xưởng hỏi :
– Ai đây ?
– Là chị Bùi Trang-Hòa, con của cậu em.
Dù là Thái-tử, tước phong tới vương, dù là ông vua con, dù thông minh tuyệt đỉnh, từng sống trong Hoàng-cung, đã thấy không biết bao nhiêu cung tần, mỹ nữ, nhưng lần đầu tiên Long-Xưởng thấy một người đẹp như Trang-Hòa. Tự nhiên vương cảm thấy luống cuống :
– Thì ra Bùi tiểu thư, ái nữ của quan Thái-tử thái bảo, Lại-bộ tham tri Bùi Kinh-An, lĩnh đấy Cần-chính điện thuyết thư đấy. Bùi thiếu sư là thầy của anh, thì Trang-Hòa là người nhà cả. Em mời Bùi tiểu thư vào chơi. Em với Bùiã tiểu thư ăn cơm trưa với anh nghe? Hôm nay có món ngon đặc biệt lắm.
– Mẹ giỏi thực. Em xin với mẹ rằng sau buổi học sẽ đi thăm anh. Mẹ bảo: “Thế nào anh cũng giữ em lại ăn cơm trưa. ”
Đoan-Nghi để ngón chỏ lên môi, rồi hôn đến choét một cái, miệng mỉm cười, ánh mắt chiếu ra tia sáng lung linh:
– Anh! món ngon đặc biệt là món gì vậy?
– Cái gì mà mình chưa bao giờ được ăn, thì cũng là đặc biệt. Cái đặc biệt hôm nay là món ốc nấu giả ba ba. Em có nghe nói bao giờ không?
– Không! Món này gồm những gì?
– Lát nữa em hỏi vú Loan thì biết.
Vú Loan cũng ra đón Đoan-Nghi:
– Công chúa giá lâm vừa đúng lúc. Các món ăn đã nấu xong.
Nhìn món ăn bốc khói nghi ngút, Đoan-Nghi dùng đũa đảo bát giả ba ba, rồi hít hà:
– Chà, thơm ngon quá. Chị Trang-Hòa nấu ăn giỏi lắm. Chắc chị biết cái món này ?
Trang-Hòa cũng cầm đũa đảo bát giả ba ba, rồi nói :
– Thơm quá, có mùi mẻ này, có mùi mắm tôm này. À, có chuối xanh này, có ốc này, có thịt lợn này, có bánh đa này. Món ngon thế này mà sao ngự trù chưa từng dâng cho Thái-tử nhỉ?
Vú Loan nhìn Long-Xưởng, nhìn Đoan-Nhu, nhìn Trang-Hòa như nhìn chính người con mình. Trong lòng người mẹ nuôi này tràn ngập yêu thương:
– Để nô tỳ nói cho công chúa, tiểu thư nghe. Nguyên sau khi đức Thái-tổ băng hà vì trúng độc, đức Thái-tông ban chỉ cấm dâng những món ăn bình dân trong nội cung, mà Ngự-y khó kiểm soát được. Oác, nghêu, sò, rùa v.v bị cấm ngặt. Nay Thái-tử được ra ở Đông-cung, thì không bị chi phối luật trên nữa, nên nô tỳ mới dám dâng lên Thái-tử.
Bà chỉ vào con Nhài :
– Món ăn gì thì tiểu tỳ cũng dám tự hào cả. Còn món này, cũng như các món cá nướng, ca rán, chả cá thì con Nhài này nó làm giỏi bặc nhất. Nó còn có tài nấu tất cả các món ăn Trung-quốc mà không một đầu bếp Hoàng-cung nào sánh kịp.
Đoan-Nghi nhìn con Nhài :
– Ái chà, sao lại có người từ dáng dấp cho chí cơ thể đều đẹp thế này ? Chỉ tiếc cái mặt rỗ mà thôi.
Long-Xưởng thêm :
– Nhài lớn hơn anh mấy tuổi, cuộc đời nó thực bất hạnh. Nó cũng có học. Khi quan Thái-phó giảng sách cho anh anh cho nó đứng hầu bên cạnh, vốn có căn bản nên nó cũng hiểu được bẩy phần.
Đoan-Nghi nắm lấy tay vú Loan, nói với Long-Xưởng:
– Anh ơi! Có cách nào đổi ngôn từ xưng hô được không? Vú nuôi anh, thì anh cũng như con vú. Giữa mẹ con, mà cứ Thái-tử, công chúa, nô tỳ thì mất cái thâm tình đi. Còn Trang-Hòa nữa ! Chị ấy là con của thầy dạy anh, thì cũng như em của anh. Thế mà Hòa cứ phải gọi anh là Thái-tử, còn anh thì cứ gọi chị ấy là tiểu thư, nghe nó khách sáo làm sao ấy.
Long-Xưởng tát yêu cô em gái:
– Luật lệ từ đời đức Thái-tổ như vậy thì anh làm sao mà đổi đươc? Tuy lối xưng hô có cách biệt, nhưng tình giữa vú với anh, cũng thâm sâu như mẫu hậu. Anh nghĩ có khi vú yêu thương anh còn hơn Tăng Khoa nữa. Chỉ duy trường hợp Trang-Hòa thì không có trong luật lệ, chúng mình tha hồ định đoạt.
– Hay quá.
Đoan-Nghi reo :
– Từ nay Trang-Hòa cứ gọi anh là anh giống em. Còn anh cũng gọi Trang-Hòa là em. Được không ?
– Anh đã bảo, em muốn là trời muốn mà.
Long-Xưởng hỏi Trang-Hòa :
– Em cũng học cùng với Đoan-Nghi đấy à ?
– Vâng, chúng em học cùng thầy mấy năm rồi !
– Thế thầy là ? ? ?
– Là bố em.
Chợt nhớ ra một truyện, Long-Xưởng bảo Đoan-Nghi, Trang-Hòa :
– Tổ mẫu chỉ cấm phi tần, cung nga, thái giám luyện võ trong Hoàng-thành, chứ không cấm luyện võ ở trong Kinh-thành. Phủ Đông-cung nằm ngoài Hoàng-thành, có nhiều phòng luyện võ từ đời đức Thái-tổ để lại. Vậy từ nay hai em đến đây để luyện võ với anh.
– Có ai nữa không ?
– Có Tăng Khoa, con của vú Loan .
– Gia sư là ai vậy ?
– Là tướng quân Tăng Quốc, chồng của vú Loan.
Đoan-Nghi nhìn vú Loan, than:
– Vú của anh, thì anh đem về Đông-cung báo hiếu được. Còn vú của em bây giờ đang sống ở Đăng-châu, nghe nói chồng đã chết, không biết tin tức ra sao? Lắm lúc nhớ vú, em khóc một mình hoài.
– Em muốn gặp lại vú cũng không khó. Để anh sai một cung nữ về Đăng-châu tìm vú lên cho em. Thế gia cảnh vú ra sao ?
– Chồng vú là một thị vệ, tên Từ Nam, đã qua đời rồi. Vú chỉ có một người con gái bằng tuổi em tên Từ Thụy-Hương.
– Tại sao em không xin với Thần-phi, gọi vú về sống trong cung ?
– Lúc hết nuôi sữa, mẹ em cũng giữ vú lại đấy chứ. Nhưng quan Ngự-sử đại phu đàn hặc rằng lý lịch vú không rõ ràng. Vì vậy vú đành khóc rồi về quê.
– Anh không hiểu !
– Nguyên do như thế này. Hồi còn trẻ, vú là một ca kỹ xinh đẹp nhất của Thăng-long tên Trần Lệ-Mai. Nhiều người say mê cầu thân, nhưng vú từ chối, mà kết hôn với thị vệ Từ Nam. Một đêm, Từ Nam canh phòng cung Cảm-Thánh, bị gian nhân đánh một quyền vào lưng, mê man. Tuy Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh cứu ông thoát chết, nhưng hai chân thành tê liệt. Trong thời gian này vú mang thai Thụy-Hương. Nhân vú khỏe mạnh, Thụy-Hương xinh đẹp, nên vú được tuyển làm nhũ mẫu cho em. Khi em đủ ba tuổi, hết hạn nuôi sữa, thì Từ Nam chết. Vú mới 23 tuổi, nhan sắc vú càng diễm lệ, nhiều người có địa vị xin cầu hôn, vú đều từ chối. Vú xin ở lại trong cung với em. Nhưng Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh tâu rằng vú không phải là người trinh tĩnh, Thụy-Hương là con hoang, không phải là con Từ Nam. Theo bà Phương-Thanh, thì Từ Nam bị người ta đánh, khiến xương sống bị tổn thương, mà trở thành người giống thái giám, không thể có con. Quan Ngự-sử đại phu hặc rằng : Vú là người bất trinh, chồng bị liệt nằm đó, mà đi lang chạ với tình nhân sinh con. Vì vậy mẹ em đành thưởng cho vú thực nhiều vàng bạc rồi đưa vú về quê sống.
– Em yên tâm, Đông-cung nằm ngoài Hoàng-thành, anh toàn quyền quyết định. Anh cam đoan chỉ ba ngày nữa sẽ đưa vú với con vú về Thăng-long gặp em.
Đoan-Nhhi nắm tay anh, ánh mắt sáng ngời:
– Cảm ơn anh trước. Ví thử vú lên đây, anh có thể để vú ở tạm trong Đông-cung không? Một mai em ra ở riêng, sẽ đem vú về phụng dưỡng.
Long-Xưởng bẹo má cô em gái, nhắc lại lần thứ ba :
– Ý em muốn là trời muốn.
Ngay hôm ấy, Long-Xưởng phát lệnh chỉ, sai một cung nga lên đường đi Đăng-châu tìm vú Mai. Hai hôm sau, vú Mai với con gái tên Thụy-Hương được đưa về Thăng-long. Để làm vui lòng cô em gái, Long-Xưởng thân dẫn Đoan-Nghi ra cửa Đoan-phượng đón vú. Tuy hơn mười năm xa cách, Đoan-Nghi từ một cô bé mới biết nói, nay đã trở thành một thiếu nữ, nhưng vú Mai cũng nhận ra nàng. Thoáng nhìn vú, Long-Xưởng giật mình vì vương không ngờ vú lại xinh đẹp đến như thế. Hèn gì ngưới ta không ghen ghét với vú. Con gái vú là Thụy-Hương, có một sắc đẹp huyền ảo, như có như không, khiến người ngoài nhìn nàng, có cảm tưởng như bị hút vào đôi mắt u uẩn. Lạ một điều vú Mai, Thụy-Hương đều đẹp nhưng hai người hai vẻ khác nhau.
Lễ nghi tất.
Long-Xưởng truyền đưa vú với con gái là Thụy-Hương vào ở trong Đông-cung. Ngay chiều hôm đó Long-Xưởng ban chỉ phong vú Mai làm Thạc-hòa Anh-văn phu nhân, lĩnh chức Kim-ốc bảo khố. Chức này phụ trách trông coi dinh thự, kho tàng, lưu giữ bảo vật của Đông-cung. Thụy-Hương đươc phong nghĩa muội của công chúa Đoan-Nghi.
Kể từ hôm ấy, hằng ngày, sau buổi học văn, thì Đoan-Nghi, Trang-Hòa tới Đông-cung luyện võ với Long-Xưởng, Tăng Khoa, Thụy-Hương. Tăng Quốc đóng vai gia sư để che dấu tai mắt của Thái-hậu, còn thực ra thì Long-Xưởng tự luyện võ công Mê-linh suốt ngày đêm, rồi dạy lại cho bốn người.
Một hôm, sau buổi luyện võ, Long-Xưởng nghĩ đến tháng sau sẽ ra ngoài thành, hành hương đền thờ công chúa Gia-Hưng Trần Quốc, đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, chắc có nhiều chuyện vui. Vương nói với em:
– Tháng sau, anh đi hành hương đền thờ cao tổ mẫu Linh-Nhân hoàng thái hậu ở Dương-xá. Anh muốn em với Trang-Hòa cùng đi. Em về xin phép mẹ, Trang-Hòa cũng xin phép Thái-bảo rồi đi với anh.
Đoan-Nghi reo lên:
– Thế mình có phải sắm lễ gì không?
– Có chứ.
Tháng sau ngày mười tư, Long-Xưởng tuyên chỉ cho thằng Ba:
– Này anh Ba. Ngày mai, ta muốn theo gương Khai-Quốc vương, giả dạng dân chúng, ra ngoài thành thăm dân cho biết sự tình. Ta phải dấu thân phận, không cho ai nhận ra chúng ta. Vậy anh cũng mặc y phục dân dã, theo hộ giá cho ta. Còn xe, nếu đi xe của Đông cung, e dân chúng nhận ra căn cước thì hỏng bét. Vậy anh lấy xe của vú Loan đưa ta đi.
– Khải Thái-tử, xin Thái-tử cho biết đại giá Thái-tử thăm những nơi nào?
– Vì xuất hành lần đầu, ta muốn đi Dương-xá hành hương đền thờ cao tổ mẫu là Linh-Nhân hoàng thái hậu.
Long-Xưởng lại ban chỉ cho vú Loan sắm sửa lễ vật để mang đi, rồi lấy xe đến cung Chiêu-Linh vấn an Hoàng-hậu. Vừa tới nơi, người cung nga hầu cận Hoàng-hậu đã nói nhỏ :
– Thái-tử vào ngay đi. Hoàng hậu đang se mình.
Long-Xưởng vào trong cung, lên tiếng :
– Thần nhi vấn an mẫu hậu.
– Hài nhi đấy ư ? Vào đây.
Long-Xưởng ngồi xuống cạnh dường. Thấy một cung nga ngồi trên chiếc ghế chầu hầu phía sau, Long-Xưởng hỏi :
– Cung nga này là ai vậy ? Xin mẫu hậu cho y thị lui.
Hoàng hậu nói nhỏ :
– Cung nga nào đâu ? Á-tỳ đấy mà. Từ hôm con sang Đông-cung, Á-tỳ nhớ con quá, bà ta xin với mẹ được sang Đông-cung hầu hạ con. Mẹ thấy cung nga ở đây thì nhiều, nhưng chỉ có Á-tỳ là chú ý chăm sóc, hầu hạ con kỹ nhất. Vì vậy mẹ cũng muốn đưa nó ta sang Đông-cung với con. Con có bằng lòng không ?
Nguyên từ khi triều Lý lập lên, thì tất cả những người hầu hạ nhà vua, Hoàng-hậu, Phi tần nếu không là thái giám thì cũng là cung nữ. Thái giám thì hoặc là bẩm sinh, hoặc là tự nguyện tĩnh thân (tức là xẻo cái ấy đi). Còn cung nữ thì tuyển những thiếu nữ từ mười hai tới mười lăm, xinh đẹp, không bệnh tật, hoặc con nhà giầu, hoặc con các chức quan nhỏ. Bởi các cung nữ này bất cứ lúc nào nhà vua hứng ; cũng có thể dùng làm vợ. Tuy nhiên, Hoàng-hậu hay các bà phi cũng có quyền tự tuyển thêm người hầu hạ.
Nghe mẹ hỏi, Long-Xưởng nói với Á-tỳ :
– Bên Đông-cung, Thái-hậu tuyển cho cô gia nhiều cung nữ, bộc phụ. Nhưng những người đó đều là tai mắt của Thái-hậu, nên cô gia vẫn thiếu người trung thành ở cạnh. Nếu Á-tỳ sang đó, thì sẽ được ở dưới quyền vú Loan tức Nhu-mẫn Đoan-duệ phu nhân. Bên đó cô gia cũng có con Nhài, tuy xấu mặt, nhưng lọng dạ trung thành, hầu hạ cô gia rất tận tâm.
Á-tỳ cảm động, nàng bật lên tiếng khóc, rồi quỳ xuống tạ ơn Long-Xưởng. Long-Xưởng tuyên chỉ :
– Kể từ hôm nay, cô gia thăng Á-tỳ lên làm Á-Nương. Bây gờ cô gia muốn thăm bệnh mẫu hậu. Vậy Á-Nương hãy lui ra ngoài chờ.
Á-Nương ra rồi Hoàng-hậu nói nhỏ :
– Từ hôm con thiết Đông-cung triều đến nay có gì khó khăn không ?
Long-Xưởng cứ thực tình trình bầy. Hoàng-hậu ghé miệng vào tai Long-Xưởng nói thầm :
– Mẹ bị trúng Huyền-âm chưởng, lại bị bao vây, không thể liên lạc với ông ngoại. Nay con được thiết Đông-cung triều, được tiếp xúc với võ lâm trong nước. Con phải âm thầm báo cho các đại tôn sư võ học biết rằng : Thủ phạm dùng Huyền-âm chưởng gây ra biết bao nhiêu vụ án bấy lâu nay… chính là bọn chân tay của Thái-hậu. Như vậy họ sẽ tìm cách trừ chúng đi. Con lại tìm cách liên lạc với người của phái Sài-sơn, xin họ chữa tuyệt nọc Huyền-âm chưởng cho mẹ.
Long-Xưởng tâu nhỏ vừa đủ cho Hoàng-hậu nghe về việc mình đã tìm ra điều bí mật trong chiếc áo hồ cừu. Từ ngày ra Đông-cung, được quyền luyện võ, mình đã mời một võ quan, bản lĩnh bình thường là Tăng Quốc, làm gia sư để che mắt Thái-hậu. Trong khi mình luyện võ công Mê-linh, bí mật luyện nội công Aâm-nhu, Mê-linh kiếm pháp. Ngoài ra mình còn luyện võ cho công chúa Đoan-Nghi, tiểu thư Trang-Hòa, con trai vú Loan là Tăng Khoa,và con gái vú Mai là Thụy-Hương.
Hoàng hậu hỏi :
– Khi con luyện võ như vậy, thì thằng Ba có biết không ?
– Lúc đầu, nó có đến quan sát. Nó thấy Tăng Quốc dạy cho bọn con bản sự quá tầm thường. Nó lắc đầu bỏ đi.
Long-Xưởng xuất ra tập giấy chép nội công Âm-nhu, Long-biên kiếm pháp trao cho Hoàng-hậu :
– Đây, bí lục võ công Mê-linh đây, mẹ học thuộc rồi đốt đi. Những lúc vắng vẻ, mẹ tự luyện. Khi mẹ đã có đủ bản lãnh thắng bọn Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên ; mẹ con ta thình lình ra tay, để thoát khỏi cảnh tù giam lỏng này.
Long-Xưởng tiếp :
– Nay mai, con giả đi hành hương, rồi gặp Thái-sư Lưu Khánh-Đàm.
Hoàng-hậu rùng mình :
– Mẹ chỉ ngại một điều là cái thằng Ba lúc nào cũng theo sát con như bóng với hình, thì liệu con có thể bàn đại sự với Thái-sư không ? Muốn diệt cái mầm mống ngoại thích nguy hiểm của họ Đỗ, họ Lê thì cần phải trừ khử bọn Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên. Hễ trừ chúng rồi, thì mẹ mới làm chủ được Hoàng-cung. Làm chủ Hoàng-cung rồi, thì không còn cái triều đình gà mái gáy của Thái-hậu nữa. Khổ một điều là hiện các võ quan, thị vệ trong triều không ai địch nổi thằng Ba, thì còn hy vọng gì thắng thằng Hai, thằng Cả nữa ? Aáy là chưa kể sư phụ chúng, bản lãnh cao thâm không biết đâu mà lường. Còn như đợi cho mẹ con ta đủ bản lĩnh thắng chúng thì e lâu quá.
Bà ngồi nhỏm dậy, ghé miệng vào tai Long-Xưởng :
– Thái-hậu vốn thất học, lại tham dâm, trước kia người ỷ vào Anh-Vũ. Nay Anh-Vũ chết rồi, người ỷ vào bọn Nùng-sơn anh, Tô-lịch nhị tiên, mà không nghĩ đến nắm Khu-mật viện. Bây giờ con đã thiết Đông-cung triều, con phải chọn lấy những người thân tín nhất, thay dần bọn quan lại trong Khu-mật viện. Khi con nắm được Khu-mật viện thì bao nhiêu cơ mật quốc gia con sẽ biết hết. Trước đây, Khai-Quốc vương cũng từng ở trường hợp cô độc như con, khi lĩnh chức Phụ-quốc thái-úy, người khởi nắm Khu-mật viện trước, rồi sau nắm được cả.
Bà suy nghĩ một lát rồi tiếp:
– Khu-mật viện có ba ty. Ty Phòng-ngự do người của Binh-bộ đảm trách. Ty Nội-sát do người của Lại-bộ đảm trách. Ty Mật-sự thì do phụ hoàng cử. Hiện người đảm trách ty Mật-sự là Tô Hiến-Thành. Con lấy lý ông ta có công, trao thêm binh quyền, sai đi tuần cảnh ở Nam-thùy. Chồng của vú Loan là Tăng Quốc rất trung thành với con, ông ta mới được thăng lên tướng quân, con cử ông ta thay Tô. Với Tăng Quốc, con ban chỉ cho ông được mật khải mọi sự với con. Như vậy, dần dần con tìm kiếm những người thân tín nắm hai ty kia.
Long-Xưởng như người mù được mở mắt, vương nói :
– Con sẽ cố gắng làm như ý chỉ của mẫu hậu.
– Có một việc, con cần theo dõi, là trước đây Chiêu-Hiếu thái-hậu định phế phụ hoàng con xuống, lập em bà là Đỗ Anh-Vũ lên thay. Bà sai mật sứ sang Tống cầu phong cho y. Nhưng Tống không chịu. Khi Chiêu-Hiếu thái hậu băng rồi, đến Cảm-Thánh thái hậu cũng muốn học theo thái-hậu Dương Vân-Nga thời Đinh, lấy ngôi vua của con, truyền cho người tình là Lê Hoàn. Nhưng chưa kịp thi hành thì Đỗ Anh-Vũ bị Côi-sơn song ưng giết. Mẹ nghe nói, trong cung Cảm-Thánh còn có một sứ đoàn Tống tiềm ẩn. Sư phụ của Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên, chính là người của sứ đoàn. Mẹ cũng nghe nói, Anh-Vũ chết, Thái-hậu khóc lóc mấy ngày, rồi bà lại thông dâm với một tên trong sứ đoàn. Nghe đâu tên này là một mỹ nam tử, Thái-hậu sủng ái y còn muốn hơn Anh-Vũ nữa. Nếu như bà phế phụ hoàng con xuống, lập y lên thay, thì Tống triều sẽ phong vương cho y liền. Thế là ta mất nước. Bấy giờ Đại-Việt trở thành quận huyện của Tống. Nhưng, nhưng ta không thể nói với phụ hoàng. Vì nói với người, thì người cũng chỉ ừ hự cho qua, rồi không chừng người còn hỏi Thái-hậu nữa. Bấy giờ Thái-hậu sẽ cho người ám sát mẹ.
Long-Xưởng rùng mình :
– Thần nhi sẽ cố gắng tìm cho ra tung tích tên tình nhân của Thái-hậu.
Hôm ấy, khi trời vừa bình minh, Long-Xưởng trang phục như một công tử con nhà giầu. Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Tăng Khoa trang phục như những công tử, tiểu thư khuê các. Thằng Ba thay quần áo như một mã phu, y đánh xe ngựa cho Long-Xưởng. Ngựa rời Đông-cung, xuất ra ở cửa Đại-hưng, rồi vòng sang phía Bắc sông Hồng, tới bến Tiềm-long.
Long-Xưởng cau mày:
– Này anh Ba, ta đi thăm dân, mà anh đưa ta đến bến Tiềm-long làm gì vậy?
– Khải Thái-tử, ta tới bến Tiềm-long nhờ Thủy-quân đưa qua sông cho an toàn.
– Như vậy thì lộ hết rồi còn gì nữa? Thôi, anh quay trở lai đi. Ta ra bến Long-biên dùng đò của dân mà qua sông.
Xe đổi chiều, hơn khắc sau tới bến Long-biên. Long-Xưởng đã nhiều lần theo phụ hoàng sang Kinh-Bắc duyệt binh. Những lần đi như vậy, thì xa giá nhà vua đi giữa đoàn thị vệ tiền hô, hậu ủng, nên chưa lần nào Xưởng được thấy cảnh dân chúng, xe, ngựa chen chúc nhau, đi lại tấp nập thế này. Thằng Ba cứ phải luôn mồm bắt chước tiếng ngựa hí , kêu lên « Tránh ra… tránh ra…Ẹ,ẹ,ẹ…Hí,hí,hí ».
Xe đến bến đò Long-biên. Thời Lý, bến đò từ thành Thăng-long lên Kinh-bắc có ba tên gọi. Tên chung là Long-biên, nhưng ít khi dân chúng dùng tên này. Dân chúng thường dùng tên Bắc-ngạn và Nam-ngạn. Bắc-ngạn để chỉ Bến phía Bắc (ngạn nghĩa là bờ), thuộc lộ Kinh-Bắc. Nam-ngạn để chỉ bến phía Nam, thuộc Thăng-long. Vì là bến đò chính, nằm trên trục giao thông của Trung-quốc, của các lộ phía Bắc Thăng-long sang Đại-Việt, dẫn vào các lộ Nam Thăng-long, tới Chiêm-thành; nên bến lúc nào cũng có hàng mấy trăm đò chở thuê.
Năm thiếu niên Long-Xưởng, Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Tăng Khoa ngồi trên xe ngắm những khách điếm, những tửu lầu danh tiếng, mà y đã nghe bọn thị vệ, bọn cung nga, thái giám nhắc đến nhiều lần. Dọc hai bên đường dẫn tới bờ sông, nào khách điếm, nào nhà hàng, nào quán ăn, nào người bán hàng rong… cùng dành những cử chỉ thanh nhã, những lời ngọt ngào, những nụ cười thực tươi để chào mời khách. Riêng Trang-Hòa, Thụy-Hương, Tăng Khoa đã từng theo cha mẹ, qua lại bến đò này nhiều lần, nên thản nhiên ngắm nhìn.
Có đến bốn đứa trẻ, mặt mũi khôi ngô, da sạm đen, tay vin thành xe của Long-Xưởng, chân chạy theo, miệng không ngớt la lớn:
– Tiểu công tử! Mời tiểu công tử dừng bước xơi phở gà! Phở gà mái ghẹ có trứng non ngon lắm cơ!
– Tiểu công tử ! Xin tiểu công tử dừng bước xơi thịt chó. Bản hiệu có đủ mọi món: Chả chó, xáo chó, rựa mận, lòng chó. Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống Aâm-phủ hỏi có hay không?
Nghe người ta mời ăn thịt chó, Đoan-Nghi kinh hãi:
– Anh ơi! Người ta ăn thịt chó thực đấy à?
– Thực chứ sao lại không thực.
Một bé gái tay bám thành xe, miệng gọi:
– Cậu ơi! Cậu mua mía luộc không? Một đồng hai xâu!
Khi xe tới bờ sông, thì đám người chạy theo xe mời ăn biết rằng vô ích, họ bỏ cuộc, lững thững đi bộ. Bây giờ đám nhà đò lại níu kéo mời khách:
– Công tử! Công tử đi đò của tôi, cam đoan thuyền không tròng trành. Hễ tròng trành không lấy tiền.
– Cậu ơi, cậu đi đò của tôi có xẩm hát hay lắm.
Long-Xưởng ban chỉ:
– Anh Ba, anh cho tôi đi con đò nào càng lớn càng tốt.
Thằng Ba xuống xe, mặc cả một lát, rồi trao cương xe cho đứa trẻ của nhà đò. Con đò khá lớn. Trên đò chở đến sáu con ngựa, với hơn trăm hành khách.
Khi đò bắt đầu rời bến, thì toán xẩm bắt đầu tấu nhạc. Tuy mang tiếng là xẩm, nhưng cả ba đều sáng. Họ là một cặp vợ chồng tuổi khoảng trên ba mươi, và một bé gái, chín mười tuổi. Có lẽ đây là đứa con gái của họ. Người chồng cầm phách, người vợ vừa kéo nhị (đàn cò), vừa hát, đứa con gái bật trống cơm.
Long-Xưởng lắng tai nghe. Họ đang hát một bài tả cảnh mùa Xuân. Thuyền đến giữa sông thì bản nhạc dứt.
Long-Xưởng hỏi:
– Này ông bà! Ông bà có biết hát bài hát ả Đào không?
Người chồng phóng tia mắt nhìn Long-Xưởng, rồi nói:
– Điệu gì tôi cũng biết, bài gì tôi cũng thuộc. Nhưng, mỗi bài công tử cho mười đồng.
– Được, nếu hay tôi trả gấp đôi.
– Công tử muốn hát bài gì nào?
Long-Xưởng quay lại hỏi Trang-Hòa :
– Em muốn nghe bản gì nào ?
Trang-Hòa vuốt tóc một cái, cử chỉ thực mềm mại, thực nhu nhã, ánh nắng chiếu vào khuôn mặt thanh tú của nàng, khiến mặt nàng trở thành tươi hồng, làm Long-Xưởng rung động thực mạnh. Nàng nói :
– Chúng tôi muốn ông hát một bài nói về trận công chúa Thiên-Ninh phá giặc Tống ở Cổ-pháp, rồi chỉ cờ tái chiếm Như-nguyệt.
Mặt người đàn ông thoáng một nét kỳ dị, ông ta nhìn Trang-Hòa, trầm tư một chút rồi gật đầu:
– Thưa tiểu thư, bài này có sẵn, do một danh sĩ làm vào thời Anh-vũ Chiêu-Thắng (1076 – 1084) . Hôm nay gặp công tử với nhị vị tiểu thư đây, tôi xin hát để tạ lòng tri kỷ.
Nói rồi y trao phách cho bé gái, tay cầm dùi, tay đặt lên trống. Người đàn bà lấy chiếc đàn đáy để phía sau, tay vặn phím so dây. Người đàn ông đánh ba tiếng trống dạo, lập tức tiếng phách, tiếng đàn cùng vang lên. Người đàn bà ngâm sa mạc:
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng
Long-Xưởng gật đầu tán thành, vì đây là hai câu ca dao, lấy làm mưỡu tiền.
Thời Chiêu-Thắng, mùa Xuân năm Đinh Tỵ,(4a)
Tống Thần-tông đem tướng sĩ Nam xâm.
Phong Quách Quỳ với Triệu Tiết, làm nguyên soái, cầm quân.
Đến Như-nguyệt vượt sông, như thác đổ.
Nam-quốc sơn hà, Nam đế ở,(4b)
Bắc-cương địa giới, Bắc vương cư.
Lũ giặc kia, bay dám đến đây ư?
Trận Cổ-pháp phơi thây dư chục vạn.
Bọn Miêu Lý, Lưu Mân, Trương Thế-Cự,(4c)
Bị quần thoa, yếm thắm, đánh tan hoang.
Thương thay cái mộng họ Vương!(4d)
Ghi chú của thuật giả:
(4a) Chiêu-Thắng: Tức Anh-vũ Chiêu-Thắng (1076-1084), là niên hiệu của vua Lý Nhân-tông, từ tháng 4 mùa hạ năm Bính-Thìn (DL.1076), vua đặt niên hiệu này, sau trận đánh sang Ung-Liêm châu nhà Tống. Năm sau (Đinh Tỵ, DL 1077) vua Thần-tông nhà Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết mang đại quân sang báo thù.
(4b) Hai câu này lấy ý trong bài thơ đánh Tống của Lý Thường-Kiệt:
Nam- quốc sơn hà Nam-đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.
Nghĩa là: Nước Nam, thì vua Nam trị vì, điều này đã định tại Thiên-thư. Tác giả đổi đi đôi chút: Nước Nam do vua Nam cai trị, biên giới phía Bắc, vua Bắc ở. Bắc đây để chỉ vua Trung-quốc.
(4c) Cổ-pháp: Tên một châu thời Lý nay thuộc Hà-Bắc, nơi phát tích ra triều Lý. Lăng tẩm các vua Lý đều ở đây. Trong trận đánh mùa Xuân năm 1077, Quách Quỳ phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt rồi sai Vũ-kị thượng tướng quân Trương Thế-Cự, dẫn các tướng Miêu Lý, Lưu Mân ào ào tiến về Thăng-long, chỉ còn cách 25 cây số, là tới kinh đô Đại-Việt. Nhưng ba tướng bị công chúa Thiên-Ninh chỉ huy phòng tuyến này đánh bại, phải lui về Như-nguyệt. Sử gọi trận này là trận Cổ-pháp, Tống mất mười vạn binh. Lưu Mân tử trận.
(4d)Mộng họ Vương: Vương để chỉ Vương An-Thạch, tể tướng có tài kinh bang tế thế. Những cải cách của Thạch, chỉ trong chín năm, mà làm cho Tống giầu có súc tích. Nhưng vì bị phe bảo thủ công kích, Thạch chủ trương đánh Đại-Việt để bịt miệng phe đối lập. Nhưng mộng của y bị Linh-Nhân hoàng thái hậu phá vỡ! Xin đọc Nam-quốc sơn hà, 5 quyển, 2232 trang, của Yên-tử cư sĩ, do Đại-Nam, Hoa-kỳ xuất bản.
Long-Xưởng khen:
– Hay lắm! Không biết ba vị đây xưng hô thế nào?
Người đàn ông xá một xá:
– Tôi họ Đào, tên Duy. Vợ tôi họ Bùi tên Như-Yên. Còn con gái tôi tên Như-Như.
Long-Xưởng móc túi lấy tiền thưởng cho ba người họ Đào, nhưng trong túi chỉ có vàng, bạc, mà không có tiền. Vương móc ra nén bạc một lượng, hai tay trịnh trọng trao cho Đào Duy:
– Xin