Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 45: Di Chúc Nguyên-phong
Niên hiệu Nguyên-phong nguyên niên đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1251, Tân Hợi),
bên Trung-quốc, phương Nam nhằm niên hiệu Thuần-hựu thứ 11 nhà Tống;
phương Bắc nhằm niên hiệu Nguyên Hiến-tông Mông-Kha nguyên niên.
Hôm ấy là ngày 14 tháng 4. Khắp các thôn, các xã trong vùng Ngũ-yên là Yên-phụ, Yên-dưỡng, Yên-sinh, Yên-hưng, Yên-bang thuộc trấn Đông-triều như chìm vào trong không khí ảm đạm, thê lương. Dân chúng ít ra đường. Người người gặp nhau, chỉ liếc mắt nhìn lên, rồi lại cúi đầu lầm lũi đi. Nguyên do: Sáng nay, mõ khắp các thôn, các xã đều rao rằng: Yên-sinh vương lâm bệnh trầm trọng, khó qua khỏi. Ba vương tử là Hưng-Ninh vương Trần Quốc-Tung, Vũ-Thành vương Trần Quốc-Doãn, Hưng-Đạo vương Trần Quốc-Tuấn đang thao diễn Thủy-quân ở Tiên-yên, được tin báo vội vã trở về để nhận di chúc. Vương phi luôn sai ngựa trạm đi thúc ba vương tử về khẩn cấp. Bây giờ là giờ Ngọ, mà tam vị vương tử vẫn chưa về tới.
Kể từ niên hiệu Thiên-ứng Chính-bình thứ 6 (DL.1237, Đinh-Dậu), là năm Yên-sinh vương được cắt đất phong cho làm thang ấp. Vương về đây quy dân, khai thác đến nay trải đã 14 năm. Vùng Ngũ-yên trước kia, dân thưa sống rải rác trong rừng hoang, đầy thú dữ, rắn độc, khí hậu thấp nhiệt. Nay trở thành một vùng đất trù phú, đồng ruộng mênh mông, dân chúng từ các nơi tụ về đông đảo. Nhà nhà giầu có, gia súc nuôi thả khắp đồng cỏ, khắp ven núi, cạnh rừng. Dần dần Ngũ-yên trở thành vùng giầu có nhất nước.
Dân chúng các nơi thấy Ngũ-yên thuế nhẹ, không có nạn cường hào ở thôn xã, quan lại công bằng, trộm cắp không hề xẩy ra. Họ tấp nập tụ về. Yên-sinh vương, vương phi, cùng các vương tử luôn gần dân, thương dân, thăm nuôi người già, an ủi kẻ bệnh, giúp đỡ người nghèo. Thành ra họ coi vương như bậc cha mẹ.
Họ biết vương là anh ruột của Nguyên-Phong hoàng đế (Trần Thái-tông). Nhưng họ không hề thấy vương về Thăng-long triều kiến. Họ cũng không thấy triều đình cử các quan đến Ngũ-yên cai trị. Luật lệ của triều đình dường như không được thi hành ở Ngũ-yên. Ngũ-yên như một nước riêng biệt, không thống thuộc triều đình.
Hầu hết những anh hùng võ lâm, những kẻ sĩ, những người bất mãn với triều đình, đều tụ tập về Ngũ-yên. Yên-sinh vương chiêu nạp họ làm tân khách. Họ không có nhà thì cấp nhà. Họ không có ruộng thì cấp ruộng. Họ không có tiền thì cấp tiền. Trong vương phủ, có hàng trăm dẫy nhà, để cưu mang hàng mấy nghìn tân khách. Dần dần, bao nhiêu tinh hoa của võ lâm, bao nhiêu bậc văn tài của trời Nam, đều tụ về Ngũ-yên cả.
Dân chúng Ngũ-yên sống trong hạnh phúc. Họ chẳng hiểu tại sao vùng Ngũ-yên lại không bị triều đình quản chế. Có một vài người biết chuyện. Họ thì thầm với nhau rằng giữa nhà vua với vương có một mối thâm thù, mà lỗi về phía nhà vua. Cho nên suốt vùng đất Ngũ-yên, vương muốn làm gì thì làm, nhà vua cũng phải nhắm mắt lờ đi. Triều đình không ai dám đề cập tới. Ngay cả người có uy quyền lớn nhất, bao trùm nhà vua là Quốc Thượng-phụ Trần Thủ-Độ cũng làm lơ chuyện Ngũ-yên.
Sang giờ Thân, thì tam vị vương tử về tới. Tam vị bái kiến vương mẫu rồi vào thăm phụ vương. Yên-sinh vương đã mệt mỏi lắm rồi. Ngài ngồi trên giường, dựa lưng vào cái gối lớn, mắt lờ đờ nhìn vào không gian. Thấy ba con trở về, thần thái của vương trở thành linh hoạt. Hai mắt sáng rực, mặt hồng hào. Vương vẫy tay ra hiệu miễn lễ, rồi ban chỉ:
– Ba con về vừa kịp. Bằng không, ta ra đi, mà không để di chúc cho các con, thì đành ôm hận xuống suối vàng. Vậy các con ra gọi tất cả anh em, cùng 18 tân khách thân tín vào đây.
Mọi người tề tựu quanh giường bệnh. Yên-sinh vương cất giọng trầm trầm nói:
– Các vị là tân khách của ta. Các vị đã cùng ta luận bàn quốc sự. Các vị đã cho ta những lời khuyên, vì vậy ta coi các vị như bậc thầy. Bây giờ, biết rằng gần đất xa trời, ta mời các vị vào đây để trao di chúc.
Các tân khách đều im lặng, vì họ biết lúc này là lúc quan trọng nhất, thiêng liêng nhất của đời người.
Vương chỉ vào một thiếu niên dáng người hiền hòa, tai to, mặt trông giống như đức Thích-ca Mâu-ni :
– Đây là con trưởng của ta tên Quốc-Tung. Bẩm sinh tính khí ôn hòa, tâm mở rộng như trời như, biển; thương xót dân chúng như thương xót con cháu. Tung lại sớm ngộ đạo từ bi, không tham danh lợi. Trong các con ta, Tung là người bác học đa năng, nghe rộng, nhớ dai. Phúc đức giòng họ ta sau này nếu có là nhờ Tung. Chính sách nuôi dân, chăm sóc dân, tổ chức học phong vùng Ngũ-yên là do Tung nhi.
Vương lại chỉ vào một thiếu niên uy vũ, mắt rồng, mũi lân, dáng người như Thanh-y đồng tử trong tranh:
– Đây là con thứ của ta, tên Quốc-Tuấn. Quốc-Tuấn có tài nghiêng trời lệch đất, giỏi tổ chức binh bị. Ta e Tôn Vũ, Ngô Khởi cũng không hơn. Lực lượng quân sự Ngũ-yên mạnh như ngày nay, hoàn toàn do Tuấn nhi. Suốt vùng Ngũ-yên ra Bắc-biên, mười năm qua không trộm, chẳng cướp là do Quốc-Tuấn.
Lại chỉ vào một thiếu anh tuấn:
– Đây là con thứ của ta tên Quốc-Doãn. Cả Tung, Tuấn lẫn Doãn đều là những thiếu niên có chí khí dọc ngang trời đất, có tài lấp biển vá trời. Cả ba đều có thể nối chí của ta.
Vương chỉ vào một thiếu niên thân thể hùng vĩ, mặt đẹp như ngọc:
– Đây là cháu Trần Tử-Đức của ta, tước phong Phú-lương hầu, lĩnh ấn Trung-vũ thượng tướng quân, hiện chỉ huy ba hiệu bộ binh của Ngũ-yên. Võ công Đức cực cao. Tính tình cương trực. Sau này có thể trao việc lớn.
Lại chỉ vào một người dáng dấp như một văn nhân:
– Đây là một thiếu niên, mà ta yêu thương như con đẻ, tên Phạm Cụ-Chích. Chích mồ côi, phải đi ở chăn trâu, bị đời khinh khiến. Ta đem về nuôi dạy. Chích hiện lĩnh ấn Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, coi hiệu Ngưu-binh của Ngũ-yên. Tính tình ngay thẳng, biết yêu thương kẻ dưới, nên tương lai có thể thành một Ngô Khởi.
Vương ngừng lại thở hai hơi, rồi chỉ vào một người da đen, mắt sáng như sao:
– Người này là bạn ta, dòng dõi vua Lê, hiện là sư đệ, cũng là em ruột của chưởng môn phái Sài-sơn Lê Ngân-Sơn, được võ lâm tặng cho mỹ danh Nam-thiên tam tuyệt. Đệ nhất tuyệt là khinh công. Đệ nhị tuyệt là mưu thần, chước thánh. Đệ tam tuyệt là thuật kỵ mã. Lê đệ hiện lĩnh ấn Vũ-kỵ thượng tướng quân, coi hiệu Kỵ-binh Phù-Đổng. Tiến trình tương lai của Lê đệ thực vô cùng rộng lớn.
Vương ngừng lại, hít một hơi dài, rồi tiếp:
“…Thời vua Cao-tông nhà Lý, vì nghe lời gian thần, giết cha con một tướng tài có công là Phạm Bỉnh-Di, Phạm Bỉnh-Du, mà có loạn. Đức Nguyên-tổ nhà ta (Trần Lý) nhân đó suất lĩnh hào kiệt dẹp loạn, lập lại thời thịnh trị. Đức Nguyên-tổ băng, đức Thái-tổ khai vận, lập cực, hoằng nhân, ứng đạo, thuần chân, chí đức, thần vũ, thánh văn, thùy dụ, chí hiếu hoàng đế (Trần Thừa) cùng em là Kiến-quốc đại vương (Trần Tự-Khánh) đánh Đông, dẹp Bắc, nhân tâm quy phục.
Vua Huệ-tông nhà Lý không con nối dòng, mới nghĩ đến truyền ngôi cho con gái. Người có hai công chúa. Lớn là Thuận-Thiên, đã gả cho ta, lại phong cho ta tước Phụng-càn vương. Nhỏ là Chiêu-Thánh, được lập làm Thái-tử, truyền ngôi thành Chiêu-Hoàng. Nhờ ân đức của đức Thái-tổ nhà ta, mà em ta là Trần Cảnh được kết hôn với Chiêu-Hoàng, rồi được nhường ngôi. Bấy giờ mới tám tuổi. Nhận ngôi vua từ triều Lý, nhân tâm ly tán, giặc dã khắp nơi, đất nước kỷ cương không còn, Cảnh chỉ ngồi trên ngai cho có vị. Việc cai trị thiên hạ, do đức Thái-tổ lèo lái, dần dần đất nước trở lại thanh bình, thịnh trị.
Niên hiệu Thiên-ứng Chính-bình thứ ba (DL,1234. Giáp Ngọ), đức Thái-tổ băng, ta kế vị người được phong Hiển-hoàng, lĩnh Phụ-quốc thái-úy”.
Vương ngừng lại, đưa mắt nhìn Quốc-Tuấn:
“…. Ba năm sau, giữa ta với Thái-sư Trần Thủ-Độ có chỗ bất đồng trong việc cai trị. Ta thì ta muốn dùng chủ đạo mấy nghìn năm của tộc Việt, mà cai trị dân. Nhất thiết noi theo phong tục, luật lệ của Đại-Việt từ nhiều đời để lại.
Còn Thủ-Độ thì lại muốn đem phong tục của bọn rợ Hung-nô, bọn Thát-đát vào nước ta. Sau những lần tranh cãi, giữa ta với Thủ-Độ đã có nhiều điều tương thuận. Duy điều Thủ-Độ muốn từ nay về sau, trong Hoàng-tộc thì cho con cô, con cậu; con chú, con bác kết hôn với nhau. Phàm Hoàng-hậu thì phải là con chú con bác ruột. Ta cực lực phản đối. Vì như thế là loạn luân. Các Ngự-y cũng đồng ý với ta, bởi nếu như cứ để trong họ kết hôn với nhau, thì con cháu sinh ra sẽ bệnh hoạn, ngu đần, tàn tật. Thủ-Độ cho rằng ta nói móc người. Vì người đã giáng Linh-từ Kiến-vũ thái hậu xuống làm công chúa, rồi lấy làm vợ. Nhân ta thu nạp một cung nhân triều Lý làm tỳ thiếp. Thủ-Độ sai chân tay vu cáo ta cưỡng dâm thị. Triều đình họa theo Độ, đàn hặc ta, rồi giáng ta xuống làm Hoài-vương. Ta giận quá, từ chức Thái-úy. Độ cử Phạm Kính-Ân thay ta để an lòng tướng sĩ”.
Ghi chú của thuật giả
Biến cố này, ĐVSKTT,Trần kỷ, Thái-tông kỷ chép :
Bính Thân (DL.1236) niên hiệu Thiên-ứng Chính-bình thứ 6.
…Mùa hạ tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ-thiên.
Bấy giờ Hiển-hoàng Trần Liễu làm tri Thanh-Từ cung, nhân nước to đi thuyền vào chầu, thấy người cung phi cũ của triều Lý, liền cưỡng dâm ở cung Lệ-thiên. Đình thần hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung ấy là cung Thưởng-xuân. Giáng Hiển-hoàng làm Hoài-vương.
Sự kiện này hết sức vô lý. Bởi niên hiệu Kiến-trung thứ nhì (1226), triều đình đã đem tất cả cung nhân, con gái họ hàng Lý Huệ-tông gả cho các tù trưởng người Man ; thì làm gì còn cung phi triều Lý để Hiển-hoàng cưỡng dâm ? Chỉ độc giả AHĐA mới biết rõ sự thực vụ này là : Thủ-Độ muốn hạ uy tín Hiển-hoàng Trần Liễu. Cho nên ngay năm sau mới có vụ đem vương phi của vương là công chúa Thuận-Thiên vào làm hoàng hậu của vua Thái-tông.
Trước đây, các tân khách, cũng như vương tử đều nghe phong phanh rằng, Yên-sinh vương dám kết tội Thái-sư Quốc Thượng-phụ Thủ-Độ với Linh-từ Quốc-mẫu cũng là mẹ vợ, là cô ruột. Không ai hiểu nội vụ ra sao. Bây giờ nghe Vương nói, mọi người mới hiểu rõ.
“… Ta kết hôn với công chúa Thuận-Thiên từ năm công chúa mới 9 tuổi, còn ta đã 15 tuổi. Đến năm công chúa 18 tuổi thì sinh Quốc-Doãn.
Niên hiệu Thiên-ứng Chính-bình thứ 6 (DL.1237. Đinh Dậu), trong cung, Chiêu-Thánh hoàng hậu mới 20 tuổi, chưa sinh hoàng nam. Tôn thất nhà Lý bắt đầu nghị luận. Họ mong Cảnh với Chiêu-Thánh không con, để có cớ đòi lập một tôn thất nhà Lý lên ngôi vua.
Bấy giờ công chúa Thuận-Thiên có thai lần thứ nhì với ta. Thủ-Độ lo sợ, không có kế gì đối phó, mới bàn với Linh-Từ, bắt công chúa Thuận-Thiên lập làm Hoàng-hậu. Độ nghĩ rằng, sẽ dùng con của ta dối rằng con của Cảnh, để bịt miệng thế gian, giữ ngôi vua cho họ Trần. Lại giáng Chiêu-Thánh xuống làm công chúa.
Trước việc làm thương luân bại lý như vậy, ta xuất thân binh đánh chiếm phủ Thái-sư giết Thủ-Độ. Ta chiếm được. Nhưng Linh-Từ quốc mẫu can không cho ta giết lão. Ta rút quân về. Còn Cảnh phải xa Chiêu-Thánh, quá khổ sở, đang đêm lấy ngựa trốn lên chùa Yên-tử, xin với bạn cũ của người là sư Phù-vân, cho thọ giới tỳ kheo.
Thủ-Độ không ngờ anh em ta lại phản đối quyết liệt như vậy. Độ dẫn các quan lên chùa Yên-tử đón vua trở về kinh sư. Vua nói:
” Vì trẫm còn trẻ, không cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề. Phụ hoàng lại vội lìa bỏ, trẫm thiếu chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua, làm nhục Xã-tắc”.
Độ nài nỉ nhiều lần không được vua nghe, mới nói với các quan rằng:
“Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó”.
Thế rồi Độ cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên-an, chỗ kia là gác Đoan-minh, sai người xây dựng.
Sư Phù-Vân thấy thế tâu rằng:
“Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại rừng của trời đất”.
Vua trở về Thăng-long thì được tin Chiêu-Thánh mất tích. Tin này làm rúng động triều đình. Thủ-Độ sợ Chiêu-Thánh trốn ra ngoài các trấn, rồi hô hào phục hồi triều Lý thì loạn to. Một mặt Thủ-Độ bắt phải dấu nhẹm chuyện này, rồi ra lệnh cho Khu-mật viện tìm kiếm. Một mặt tìm một thiếu phụ có gương mặt giống Chiêu-Thánh, đem vào cung thay thế. Bí ẩn này, cho đến nay cũng không ai biết. Riêng ta, ta biết Chiêu-Thánh đang ở đâu, nhưng ta không nói ra.
Thủ-Độ đem quân ăn mày bao vây dinh thự của ta.Ta không thèm lý đến y. Ta chờ Cảnh về Thăng-long, lẻn đến giết chết đứa em tàn bạo. Giữa lúc ta sắp hạ thủ, thì Linh-Từ xuất hiện. Người can ta. Võ công ta thấp hơn Linh-Từ một bậc. Ta đành nín nhịn. Linh-Từ giảng giải cho ta biết rằng việc làm nghịch thiên, bạo địa này là do Thủ-Độ, vua cũng là nạn nhân như ta. Anh em ta ôm nhau mà khóc. Chúng ta, biết không làm gì được Độ. Cảnh thiết triều phong cho ta vùng Yên-phụ, Yên-đường, Yên-sinh, Yên-hưng, Yên-bang. Những vùng đất này đều là vùng rừng thiêng nước độc. Phàm quan quân lên trấn nhậm chỉ có đi mà không có về.
Ta căm thù, dẫn vương phi, các con, tộc thuộc lên vùng này. Từ hồi ấy đến giờ, trải 14 năm, nằm gai nếm mật, chờ này phục thù, rửa nhục. Cách đây ba năm Thuận-Thiên băng, trong khi tuổi mới 33. Hồi đầu năm nay, Cảnh đem con gái là công chúa Thiên-Thành gả cho Quốc-Tuấn với ý định dùng cuộc hôn nhân, xóa mối thù”.
Vương nhìn công chúa Thiên-Thành, tức Hưng-Đạo vương phi đang ngồi ôm mặt khóc:
“…Con khóc ư? Con đau khổ một, thì ta đau khổ mười. Bây giờ gần đất xa trời, ta vẫn chưa rửa được cái hận mười mấy năm nay. Hỡi ơi, bây giờ bệnh tình ta quá nặng, không hy vọng gì trả thù nữa rồi “.
Vương hướng mắt qua cửa sổ, nhìn vào không gian đen như mực, rồi tiếp:
” Đây là di chúc của ta: Sau khi ta qua đời rồi, thì các con, cũng như tân khách, tiếp tục nối chí ta. Nhất thiết trọng nghĩa, khinh tài, khuất thân cầu hiền. Khi thấy lực lượng đã đủ, thí cất quân về Thăng-long, trước giết Thủ-Độ, sau đoạt lấy ngôi vua. Có như vậy hồn ta mới siêu thoát được”.
Công chúa Thiên-Thành hỏi:
– Thưa phụ vương. Như phụ vương dạy, thì phụ hoàng cũng như phụ vương đều là nạn nhân của Thái-sư Thủ-Độ. Tại sao lại đoạt ngôi vua để trả thù?
– Khi Linh-Từ giảng hòa giữa ta với Cảnh. Cảnh khóc lóc than thở rằng: Dù Thủ-Độ cố đem Thuận-Thiên vào cung, đặt lên ngôi Hoàng-hậu chăng nữa, Cảnh quyết giữ gìn cái tình chị dâu em chồng, không bao giờ phạm đến thân thể. Thế nhưng, sau khi sinh ra đứa con của ta, đặt tên là Quốc-Khang, Thuận-Thiên lại sinh ra Thái-tử Hoảng, rồi Quang-Khải, Nhật-Vĩnh, Ích-Tắc. Thế thì rõ ràng thằng em của ta là đồ vô luân, chứ đâu phải Thủ-Độ?
Chư vị vương tử, vương tôn, quận chúa, tiểu thư cùng chắp tay:
– Chúng con không bao giờ quên thù này.
Các tân khách đều rơi lệ thông cảm mối thương tâm của vương. Họ cùng dơ tay thề:
– Bọn thuộc hạ nguyện trả thù cho vương gia.
Vương thở dài nhẹ nhõm:
– Sau khi ta hoăng rồi, việc tang chế nhất thiết giản dị. Tuyệt đối không nhận phúng điếu. Phần mộ của ta xây cho có. Đừng xây lăng mộ lớn, mà tốn sức, tốn của, tốn mồ hôi của dân. Sau 100 ngày thì đốt tang phục. Mọi người tiếp tục công việc.
Ghi chú của thuật giả
Hiện nay, ngôi mộ của Yên-sinh vương vẫn còn ở Đông-triều, nằm cạnh con đường dẫn tới chùa Yên-tử. Trong dịp hướng dẫn phái đoàn Pháp nghiên cứu vùng vịnh Hạ-long, Đông-triều hè 1998, chúng tôi có thăm mộ Yên-sinh vương. Tôi không ngờ ngôi mộ một vị Đại-vương, uy quyền, giầu sang bậc nhất hồi đó, sinh ra nhiều con, cháu là những anh hùng dân tộc, cầm binh quyền toàn quốc, mà lại nhỏ như vậy. Có lẽ Hưng-Đạo vương chiếu di chúc, xây giản dị, sau này cũng không cải táng, để nêu cái đức cần kiệm thương dân của phụ vương. Tôi tò mò, quan sát địa thế ngôi mộ về phương diện phong thủy, và tìm ra ngôi mộ này kết phát tới hơn 700 năm. Nay linh khí đã hết. Tôi nhờ. Kỹ sư Pháp dùng máy trắc nghiệm. Kết quả: Quan tài còn nguyên. Những xương chính còn đầy đủ. Chiều sâu của mộ là 1,8m. Nhưng tôi không dám quyết rằng đây là mộ thật của ngài, bởi truyền thống họ Trần thuộc dòng Hưng-Đạo vương, khi qua đời thì thiêu rồi chôn vào một nơi bí mật. Cả hai trường hợp đều làm mộ giả.
Hiện (1988) tại núi Yên-phụ, xã Kim-xuyên, huyện Hiệp-sơn, nay là huyện Kim-sơn tỉnh Hải-hưng còn ngôi đền thờ An-sinh vương mang tên Trần hoàng thân từ. Trong đền có đôi câu đối :
Phụ linh giáng trần, lẫm liệt khôn phò chính khí,
Đông a dực vận, huy hoàng sử sách lưu danh.
(Cha linh thiêng, nên có con là thánh giáng trần phù chính khí. Làm cho vận số dòng họ Trần lâu bền, trong sử sách còn chép tên).
Phụ linh văn trung, Trần khải thánh , An-sinh vương linh thanh truyền cổ miếu.
Đào nguyên động thượng, Lạc-long quân từ thanh thế hợp tân Xuân.
(Cha là An-sinh vương Liễu linh thiêng, tiếng đồn mãi về cổ miếu này. Suối Đào-nguyên, quốc tổ Lạc-long quân dùng lời từ ái gọi vương về hưởng phúc mùa Xuân mới).
Tài liệu.
ĐVSKTT, Trần kỷ Thái-tông kỷ.
ĐNNTC.
Đồng-Khánh địa dư chí lược.
Nói đến đây quá mệt mỏi, hơi thở của vương ngắt quãng. Vương nhắm mắt lại, rồi thều thào:
– Thuận-Thiên! Thuận-Thiên…Hãy…hãy…chờ ta.
Rồi mắt vương trợn ngược. Vương phi kêu thét lên:
– Vương gia! Vương gia!
Ngự y chẩn mạch, lắc đầu:
– Vương gia quy tiên rồi.
Bấy giờ là giờ Tuất, ngày 14 tháng 4 niên hiệu Nguyên-phong nguyên niên đời vua Thái-tông (DL.1251,Tân Hợi).
Ghi chú của thuật giả
Về ngày hoăng của Yên-sinh vương, sử không ghi rõ. Nhưng con cháu Vương cúng giỗ vào ngày 14-4, thì ta có thể tin chắc đó là ngày Vương hoăng.
Quốc-Tung là con trưởng, là tang chủ, tức khắc họp gia thuộc, tân khách, loan báo đại tang. Khắp vùng Ngũ-yên, dân chúng đều để tang vương. Hưng-Ninh vương sai sứ phi ngựa về Thăng-long báo tang. Nguyên-phong hoàng đế (Thái-tông) khẩn thiết đại triều, báo tang trên toàn quốc, cùng gửi sứ giả ra Đông-triều điếu tang, ban chiếu gia phong Đại-vương.
Lời trối trăn của Yên-sinh vương Liễu, hiện diện tuy chỉ có các con, cùng những tân khách thân cận, tín cẩn nhất. Nhưng rồi dần dần cũng lọt ra ngoài, và Khu-mật viện biết được. Bấy giờ Khâm-thiên đại vương Trần Nhật-Hiệu (Em An-sinh vương và nhà vua) lĩnh chức Thái-úy, quản Khu-mật viện. Khi được tin này, Vương kinh hoàng, vội tâu lên Nguyên-phong hoàng đế. Hoàng đế triệu Thái-sư Trần Thủ-Độ vào cung, báo cho biết biến cố này. Thủ-Độ bàn:
– Từ 14 năm nay, Ngũ-yên như con dao dí vào mạn sườn triều đình. Bây giờ là lúc thịnh thời, trong nước vô sự, ngoài biên cương không có giặc. Nếu như Quốc-Tung, Quốc-Tuấn, Quốc-Doãn tuân lời di chúc đó khởi binh làm loạn, thì cũng là lúc triều đình cớ nhổ cái gai Ngũ-yên đi. Vậy thần xin bệ hạ cho thần cùng Linh-từ Kiến-vũ theo các thân vương trong hoàng tộc, các quan, kéo nhau ra Đông-triều điếu tang. Nhân dịp này, thần quan sát tại chỗ, rồi liệu cách đối phó.
Nguyên-Phong hoàng đế cản:
– Quốc- phụ không nên dấn thân vào hang hổ. Lâu nay, Ngũ-yên như rồng nằm hổ phục, nhân tài trong nước tụ cả về đó. Bây giờ trong lúc Yên-sinh vương mới hoăng, con cháu, gia tướng, gia khách đều căm hận Quốc-phụ, mà Quốc-phụ tới điếu tang, thì e lành ít dữ nhiều…Trẫm nghĩ việc Ngũ-yên có hai cách giải quyết. Một là giải quyết bằng lý, bằng quốc pháp. Giải quyết bằng quốc pháp thì đề nghị của Quốc-phụ là đúng. Hai là giải quyết bằng tình. Giải quyết bằng tình, thì ta họp gia đình lại vẫn hơn. Tại sao ta không dùng tình, giải quyết ổn thỏa giữa người nhà với nhau?
– Tâu, Bệ-hạ định giải quyết bằng tình ra sao?
– Ta mời những vị đạo cao đức trọng trong nhà đứng ra dàn xếp. Trong nhà ta, bốn vị có thể nói mà Quốc-Tuấn, Quốc-Doãn không dám cãi. Tiếc rằng Thuận-từ hoàng thái hậu (Bà Trần Thừa) sớm băng hà. Trong nhà ta, vai vế cao nhất là Tuyên-minh thái hoàng thái hậu (Bà Trần Lý, nhũ danh TôPhương-Lan), vương phi Hưng-Nhân đại vương (Vợ Phùng Tá-Chu, nhũ danh Trần Kim-Ngân), vương phi Kinh-Quốc vương (Vợ Tô Trung-Từ nhũ danh Nhạc Bảo-Bảo), thứ đến vương phi Kiến-quốc đại vương (Bà Trần Tự-Khánh, nhũ danh Phan Mỹ-Vân), phải thỉnh bằng ấy vị cùng lên đường đi Ngũ-yên điếu tang, rồi hòa giải với Quốc-Tung, Quốc-Tuấn, Quốc-Doãn thì hơn.
Thủ-Độ trầm tư suy nghĩ, rồi nhăn mặt:
– Tâu, trong bốn vị mà Bệ-hạ đề nghị, thì cả bốn đều không ưa thần. Thần vô dụng trong việc này rồi.
– Quốc-phụ nhờ Quốc-mẫu thì khó mấy rồi cũng xong. Năm vị trưởng thượng của nhà ta có thể ví với năm con rồng trời Nam. Dù Quốc-phụ, dù trẫm cũng nên dựa vào để mưu hạnh phúc cho dân.
Ghi chú của thuật giả
Lời nói của vua Trần Thái-tông buột miệng, gọi năm phụ nữ là năm con rồng, sau lời này đồn ra ngoài, người đương thời kính trọng năm vị, họ gọi là Nam-thiên ngũ long. Khi Mông-cổ sang đánh Đại-Việt, chúng bị năm bà đánh cho những trận kinh thiên động địa, chúng gọi là Giao-chỉ ngũ độc xà (Năm con rắn độc của đất Giao-chỉ) hay Giao-chỉ ngũ hồ ly (Năm con hồ ly của Giao-chỉ) Trước, thời Lý cũng có năm công chúa nức danh trong việc trấn Bắc, bình Nam, đó là Bình-Dương, Bảo-Hòa, Kim-Thành, Trường-Ninh, Côi-sơn. (Xin đọc Nam-quốc sơn hà, của Yên-tử cư-sĩ, do Đại-Nam xuất bản).
Bốn ngày sau, con thuyền ngự Hoàng-long dương buồm rời bến Thăng-long hướng về phương Đông, ra biển, rồi đổi chiều lên hướng Bắc. Sau hai ngày lênh đênh, thuyền đi vào địa phận trấn Đông-triều. Thuyền chở theo Nam-thiên ngũ long: Tô Phương-Lan, Nhạc Bảo-Bảo, Trần Kim-Ngân, Phan Mỹ-Vân và Trần Kim-Dung. Khi những rặng núi vùng Đông-triều hiện ra xa xa ở chân trời, thì thuyền trưởng vào khoang rạp mình xuống báo:
– Tâu Thái-hoàng thái-hậu, thuyền đang tiến vào cửa biển Yên-bang.
Cả năm bà cùng lên trên sàn thuyền quan sát. Bà Phương-Lan từng ra chơi vùng này nhiều lần, bà chỉ ngọn núi này, bãi biển kia, giảng giải cho mọi người. Thình lình có ba tiếng pháo nổ, rồi năm chiến thuyền căng buồm rời bến, chạy ra khơi. Kim-Ngân là vương phi của Phùng Tá-Chu, Đại Đô-đốc Đại-Việt. Phi từng cùng chồng thao diễn, huấn luyện, chỉ huy Thủy-quân mấy chục năm. Bà giải thích:
– Thủy-quân của Ngũ-yên đấy. Đất nước đang thanh bình, mà chúng ta mới xuất hiện, Thủy-quân đã phản ứng nhanh như vậy, thì thực trước đây chưa từng có. Nếu như cuộc giảng hòa này không thành, mà Thủy-quân Ngũ-yên kéo về Thăng-long thì không lực lượng nào đương nổi.
Kim-Dung bênh vực Thủ-Độ:
– Cô mẫu minh kiến. Khi nhà ta tiếp thiên hạ từ họ Lý, Thủy-quân coi như chỉ có hạm đội Tiên-yên và hạm đội Âu-cơ. Chiến thuyền cũ kỹ, cái dùng được, cái không. Trong khi đó bản lĩnh binh sự của Thủ-Độ là bản lĩnh học từ Mông-cổ, chỉ biết xử dụng Kỵ-binh. Suốt hai năm đầu thời Kiến-trung (1225-1226), Hưng-nhân đại vương với cô mẫu bắt đầu tái lập xưởng đóng chiến thuyền. Song vừa trang bị được hạm đội Âu-Cơ thì xẩy ra vụ Kiến-bình vương, nên nay quanh Thăng-long không còn một lực lượng Thủy-quân nào.
Nghe nói đến Kiến-bình vương, trên mặt bà Phương-Lan thoáng hiện ra một nét buồn man mác. Bà hỏi Linh-Từ:
– Kim-Dung, cái vụ Kiến-Bình vương ra đi đến nay trải 25 năm rồi. Dù bên trong tiềm ẩn bí mật gì chăng nữa, thì việc đó đã trôi vào dĩ vãng. Vậy con có thể cho mẹ biết sự thực không? Có phải Thủ-Độ hại vương không ?
Biết mẹ mình là một người thông minh xuất chúng, kiến thức mênh mông, khó mà qua mặt được. Linh-từ lấm lét nhìn mẹ rồi thuật:
“…Kiến-Bình vương là con út của vua Lý Anh-tông, được chị là công chúa Đoan-Nghi dẫn về Thiên-trường trao cho ông bà Trần Tự-Hấp nuôi dạy. Bà yêu thương vương cực kỳ, nên dốc túi dạy cho vương một bản lĩnh vô địch thiên hạ. Rời Thiên-trường về triều, dù vương có tài, dù vương có đức, song bị Chiêu-thiên Chí-lý thái-hậu Đỗ Thụy-Châu với anh là Thái-sư Đỗ An-Di gạt ra ngoài, không trao cho chức vụ gì. Khi bọn Quách Bốc làm loạn, vương cùng gia thuộc trốn về Thiên-trường nương náu phái Đông-a. Nhờ Nguyên-tổ Trần Lý suất lĩnh hào kiệt, dẹp giặc, khôi phục ngôi vua. Hoàng-hậu của của Cao-tông là Đàm Ngọc-Anh muốn gỡ tội cho bác cùng họ Đàm theo Long-Thẩm, bà vu tất cả các thân vương, tôn thất còn kẹt lại Thăng-long cái tội theo giặc; sai Thị-vệ bắt giết cả nhà. Oan ức nhất là giòng dõi Kiến-Khang vương Lý Long-Ích. Tuy vương đã hoăng, 18 con của vương đều phong tước công, giữ những trọng trách khiêm tốn trong triều, đều bị giết cả nhà. Con số người chết trong vụ này đến hơn hai nghìn. Gia thuộc của Gia-chính hầu Long-Nguyên, Nam-chính hầu Long-Toàn, phò mã Lê Trọng-Anh …cũng bị tàn sát. Tổng cộng thảm trạng này lên đến hơn năm nghìn người trong tôn thất, làm cho họ Lý gần tuyệt tự. Bấy giờ Kiến-Bình vương Lý Long-Tường còn ở Thiên-trường nên thoát nạn.
Sau khi vua Lý Huệ-tông thoát khỏi sự kiềm chế của họ Đàm, trở về Thăng-long, Đại Đô-đốc Phùng Tá-Chu được phong Hiệp-tán Thái-bảo, lĩnh Thương-thư tả bộc xạ, tức Tể-tướng, thì Kiến-Bình vương được cử làm Đại Đô-đốc thay thế chức tước như sau : Thái-sư thượng trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ.
Bản doanh của Đại Đô-đốc Đại-Việt đóng tại Đồn-sơn. Đang từ một thân vương của triều Lý, bây giờ triều Lý không còn. Nhìn đi, nhìn lại các quan tại triều Trần, không quá trăm người họ Lý. Thêm vào đó, có những tin nói vào tai vương rằng Trần Thủ-Độ với lời thề Chân-giáo, Tây-hồ, Hy-cương, trước sau gì cũng giết tuyệt họ Lý. Vương nghĩ đến việc phải đem tông tộc trốn khỏi Đại-Việt như Kiến Hải vương thời vua Thần-tông, hiện con cháu đang sống ở Cao-ly; như Lạng-châu công Lý Long-Phi thời vua Anh-tông, hiện con cháu đang ở Mông-cổ. Hay gần đây như phò mã Trần Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi đã gặp may rồi vang danh vùng Thảo-nguyên?
Thế là, một mặt vương âm thầm suất lĩnh Thủy-quân đóng chiến thuyền, cáo rằng để thay thế chiến thuyền cũ. Một mặt vương ra lệnh cho tộc thuộc đem gia đình lên Đồn-sơn, dối rằng để dự giỗ tổ Thủy-quân là công chúa Gia-Hưng Trần Quốc, thời vua Trưng. Rồi một buổi sáng, vương họp gia thuộc, tông tộc lại, báo cho biết cuộc ra đi của mình. Ai muốn đi thì đi, ai không muốn đi thì ở lại. Tổng số người ra đi, già trẻ, lớn bé hơn sáu mươi ngàn. Sau khi vương ra đi, hai mươi ngày sau, tin mới về đến Thăng-long. Triều đình giữ thái độ im lặng. Nghĩa là không kết tội, cũng không sai đuổi theo.
(Xin xem phụ lục AHĐA quyển 3: Nguyên-tổ họ Lý ở Đại-hàn)
Vì vậy, cho đến nay Thủy-quân Đại-Việt chỉ còn lại những hải đội nhỏ, dùng để bắt trộm, bắt cướp. Ngược lại với triều đình. Từ khi lên vùng Ngũ-yên, thấy đất phong của mình nằm dọc theo bờ biển (Ngày nay từ Đồn-sơn tới Móng-cáy, bao gồm các cửa biển Hải-phòng, Hòn-gai, Quảng-yên, Cẩm-phả, Cửa Ông, Mông-dương, Tiên-yên, Ba Chẽ, Đầm-hà, Móng-cáy) lại sát với hải phận Tống. Vương nghĩ : Thủy-quân Đại-Việt gần như không còn, thì vương phải tổ chức riêng cho mình. Trong các con trai, vương thấy Quốc-Tuấn có tài dọc ngang trời đất, phong tư khác thường. Vương trao cho Quốc-Tuấn việc này. Lập tức Quốc-Tuấn, chiêu mộ hoàng-nam thuộc ngư dân dọc bờ biển, ngư dân sống trên thuyền trong vịnh Hạ-long, huấn luyện, tổ chức thành những hải đội dân sự. Những hải đội này, hàng ngày có thể tự vệ cho chính mình, cho ngư dân trong vùng. Khi có sự, sẽ dùng để giữ nước. Chỉ trong vòng hai năm, mà các hải đội dân sự trở thành hùng mạnh, thiện chiến. Tuy vậy Yên-sinh vương vẫn không dám cho con tổ chức thành hạm đội. Vì sợ bọn mặt dơi tai chuột trong triều nói ra nói vào. Tin này đưa về triều, khiến Thái-sư Trần Thủ-Độ lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Sau khi Quốc-Tuấn được nhà vua gả công chúa Thiên-Thành, được phong tước Hưng-Đạo vương, được cử trấn nhậm vùng Bắc-biên, thì vương không còn úy kỵ kẻ nói ra, người nói vào nữa. Vương cho đóng chiến thuyền, tổ chức thành hạm đội. Hiện dưới quyền vương có hai hạm đội là Âu-Cơ và Động-đình”.
Nghe Kim-Dung thuật, bà Phương-Lan như trút được một gánh nặng, nhưng bà vẫn bùi ngùi nhớ đến người tiểu sư đệ Lý Long-Tường, mà bà coi như con. Thấy chị dâu chưa hết buồn, Kim-Ngân chỉ 5 chiến thuyền giảng:
– Trong 5 chiến thuyền kia, thì cái lớn nhất gọi là Đại-chu, để chở quân. Hai cái bậc trung gọi là Trung-chu để tuần thám, tác chiến. Cái nhỏ nhất tên Khoái-chu, để chỉ huy, để đuổi theo giặc, trộm, cướp.
Năm chiến thuyền đã tới gần. Một viên chỉ huy đứng trên mũi chiếc Khoái-chu phất cờ đỏ, bắt con thuyền Hoàng-long phải ngừng lại. Kim-Ngân ra lệnh cho thuyền trưởng kéo cờ lên. Thủy thủ trên thuyền Hoàng-long dàn trên mặt sàn, gươm dáo sáng ngời, nhưng trông vẫn kém uy nghi của thủy thủ trên năm chiến thuyền.
Viên sĩ quan chỉ huy Thủy-đội đứng trên mũi chiếc Khoái-chu cầm loa hỏi:
– Thuyền chở ai?
Viên thuyền trưởng Hoàng-long đáp:
– Là thuyền Hoàng-long của Hoàng-thượng.
– Dĩ nhiên trông xa xa chúng tôi cũng nhận ra thuyền Hoàng-long. Nhưng thuyền chở ai?
– Tuyên-minh thái hoàng thái hậu, Linh-từ Kiến-vũ quốc mẫu.
Thủy-đội Ngũ-yên bao vây lấy chiếc Hoàng-long: Hai chiếc Trung-chu áp vào mạn. Chiếc Đại-chu ngăn trước khoảng ba dặm. Chiếc Khoái-chu áp vào mũi, rồi viên sĩ quan, cùng mười thùy thủ tung mình lên. Thấy Nam-thiên ngũ long, viên sĩ quan hô lớn:
– Bọn thần giáp trụ trên người, không hành đại lễ được. Mong bệ-hạ khoan thứ.
Bà Phương-Lan cực kỳ cao hứng:
– Các vị không nên đa lễ.
Rồi bà chỉ từng người trong đoàn điếu tang thông báo danh tính. Viên sĩ quan viết mấy chữ lên một thẻ tre, rồi buộc vào chân con chim ưng. Con chim ưng bay bổng lên trời, hướng vào bờ biển. Khoảng một khắc sau, trên bờ có ba tiếng pháo nổ. Viên sĩ quan hướng bà Phương-Lan:
– Hưng-Đạo vương ban chỉ kính thỉnh Bệ-hạ.
Nói rồi y cầm cờ phất. Chiếc Khoái-chu dẫn đường. Hai chiếc Trung-chu kèm hai bên. Chiếc Đại-chu đi sau cùng. Thuyền cập bến. Trên bờ, cờ xí uy nghi. Một đội giáp sĩ dàn ra, gươm dáo sáng choang. Yên-sinh vương phi; Hưng-Ninh vương, Hưng-Đạo vương, Vũ-Thành vương, cùng các vương phi trong tang phục ra đón.
Lễ nghi tất.
Bà Trần Lý lên tiếng trước:
– Quốc-Tung, Quốc-Tuấn, Quốc-Doãn, chúng ta ra đây để chịu tang. Cháu chỉ nên dùng gia lễ, chứ không nên dùng quốc lễ.
– Vâng! Cháu xin kính mời các bà, các cô!
Chiều hôm đó, trong đại sảnh đường, bà Phương-Lan ngồi chủ vị, kế đó là bà Kim-Ngân, Bảo-Bảo, Mỹ-Vân, Kim-Dung. Cuối bàn là bà Trần Liễu rồi tới Quốc-Tung, Quốc-Tuấn, Quốc-Doãn, các vương phi, thế tử, quận chúa. Tân khách, lý dịch đứng đầy sảnh đường. Bà Phương-Lan lên tiếng trước:
– Các con, các cháu. Liễu sớm mất, ta là mẹ, lòng đau như dao cắt. Giòng họ nhà ta vốn thọ, thế mà chỉ vì quốc sự, bố tuẫn quốc. Tiếp theo chú Tự-Khánh sớm lìa đời. Bây giờ tới Liễu. Hôm nay chúng ta tơí đây để chịu tang. Theo tang chế bản triều, khi con trưởng, hay con dâu trưởng qua đời, thì bố mẹ phải để tang ba năm. Năm Kiến-trung thứ 5, Thuận-từ băng (vợ Trần Thừa), năm Thiên-ứng chính bình thứ 17 đến lượt Hiển-từ Thuận-thiên băng (vợ Trần Liễu, bắt làm vợ Trần Cảnh), vừa hết tang, thì đến lượt Liễu. Hà! Tang tóc liên miên.
Vũ-Thành vương cười nhạt:
– Thưa bà, bố cháu là người hiền hậu, trầm tĩnh, ăn uống kiệm ước, nói năng khiêm cung. Thầy thuốc nào cũng bảo sẽ thọ ít nhất trăm năm. Thế nhưng từ khi mẹ cháu bị bắt vào cung, bố cháu đau đớn, uất ức quá mà chết non. Đó là lẽ thường.
Kim-Ngân hỏi:
– Có lý nào đau đớn, uất ức mà chết non được?
Một thiếu niên dáng người hùng vĩ, mặt đẹp như ngọc, ngồi trong đám tân khách, đó là Phú-lương hầu Trần Tử-Đức lĩnh ấn Trung-vũ thượng-tướng quân, thống lĩnh bộ binh Ngũ-yên. Hầu lên tiếng:
– Thưa Hưng-Nhân vương phi! Điều mà Vũ-Thành vương nói là căn cứ vào y kinh. Y kinh nói: Tâm tàng thần, nghĩa là tâm chủ thần chí. Khi gặp chuyện bất như ý, bị thì thần minh bị tổn thương. Can tàng hồn, can chứa hồn. Khi giận thì can bị tổn thương. Vương gia của chúng tôi với công chúa Thuận-Thiên đang sống hạnh phúc bên nhau, thì công chúa bị bắt vào cung. Buồn vì xa vợ, uất ức vì bị cướp vợ, lại phải nuôi con thơ. Hỏi sao tâm không bị thương? Can không bị hại? Vì vậy vương gia sớm lìa trần là lẽ thường.
– Thôi, chuyện cũ qua rồi, chú Cảnh đã sám hối, nhờ bà ra giảng hòa với các cháu. Chỉ cần mỗi tháng hai lần, các cháu về Thăng-long chầu mà thôi. Còn như các cháu nhất định biên thùy một cõi, e ông Thủ-Độ đem quân ra tiễu trừ thì nát hết.
– Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Phạm Cụ-Chích gay gắt: Nếu Thái-sư Thủ-Độ mang quân ra đây, dù tráng sĩ Ngũ-yên không nhiều, thì Ngưu-binh Ngũ-yên cũng xin thay thế nghênh chiến.
Liếc nhìn thấy trong phòng, có hơn năm trăm tân khách, mặt người nào cũng lạnh lùng, tỏ ra lãnh đạm với Nam-thiên ngũ long, bà Phương-Lan biết khó mà thuyết phục được họ. Bà xoay ra đánh bằng tình cảm:
– Nhờ ân đức của tổ tiên, nhờ công lao của ông, của bố, của chú Khánh, mà nhà ta có ngày nay. Bây giờ các cháu nhất định phá hủy sao?
– Tâu bệ hạ! Chính Thái-sư Thủ-Độ phá chứ không phải bọn hèn hạ chúng thần phá.
Sứ đoàn nhìn người vừa lên tiếng, thấy dáng dấp hùng vĩ, vẻ mặt cương quyết, nhưng không biết tên, cũng như chức vụ. Hưng-Đạo vương giới thiệu:
– Vị sư thúc này là Lê Tần, hiện lĩnh ấn Vũ-kỵ thượng tướng quân, chỉ huy hiệu Kỵ-binh Ngũ-yên.
Hưng-Đạo vương vừa dứt lời thì cả cử tọa cùng bật lên tiếng suýt xoa. Vì từ lâu, ai cũng nghe tiếng Lê Tần. Ông là sư đệ của chưởng môn Lê Nguyên-Sơn, nổi tiếng Nam-thiên tam tuyệt. Một khinh công, hai là mưu trí, ba là thuật kỵ mã.
Vũ-Thành vương chắp tay:
– Thưa bà! Con nào cũng là con. Cháu nào cũng là cháu. Bà thử lấy công bằng mà xét xem, đầu mối cái vụ này đâu có phải do bố cháu? Đâu có phải do chúng cháu? Bố cháu là nạn nhân mà? Bọn chúng cháu cũng là nạn nhân mà? Lỗi ở đâu? Do đâu? Hoàn toàn do chú Cảnh mà ra. Bây giờ nhân nghe lời di chúc của bố cháu , chú nhờ bà ra khuyên bọn cháu đầu hàng, rồi đem đầu về cho chú chặt để được tiếng là trung, là hiếu? Trung như thế là ngu trung. Hiếu như vậy là ngu hiếu. Chúng cháu quyết không về Thăng-long chầu đâu. Nếu ông Thủ-Độ với chú Cảnh lợi dụng trong nhà cháu có tang mà mang quân ra đánh, thì cháu e không quân nào, không tướng chịu chết cho chú ấy đâu. Ngược lại, chúng cháu mà phất cờ thì anh hùng thiên hạ sẽ nổi lên như ong ngay. Sự nghiệp của tổ tiên có tan nát là do chú ấy.
Cuộc dàn hòa giữa triều đình với Ngũ-yên không thành công. Thái-sư Thủ-Độ nhất định mang quân ra đánh. Nhưng trẩy quân bằng đường bộ thì gồ ghề khó đi. Chỉ cần vài trăm quân Ngũ-yên phục kích trên các đèo, e phải đánh mấy tháng mới mở được đường. Còn như trẩy bằng đường thủy thì Thủy-quân triều đình so với Thủy-quân Ngũ-yên không khác gì con tép so với con cá kình. Một yếu tố nữa là thuật dùng binh, mà cả triều đình, dù văn quan, dù võ tướng, không ai địch nổi Hưng-Đạo vương. Vì vậy triều đình nuốt giận làm ngơ. Tin này đồn ra ngoài, võ lâm, nhân sĩ đều khoan khoái trong lòng. Họ hướng về Ngũ-yên. Bao nhiêu anh tài của đất nước đều tụ về đây.
Niên hiệu Nguyên-phong thứ 5 (DL.1255, Ất Mão) triều đình tổ chức đại hội võ lâm tại Cổ-loa, nhân giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ và vương phi Nguyễn Phương-Dung vào ngày 15 tháng 8.
Ghi chú của thuật giả.
Bắc-bình vương Đào Kỳ là Đại-tư-mã (Tư lệnh quân đội), vương phi Nguyễn Phương-Dung là Tể-tướng thời vua Trưng. Xin đọc: Anh-hùng Lĩnh-Nam 4 quyển. Động-đình hồ ngoại sử 3 quyển. Cẩm-khê di hận 4 quyển, của Yên-tử cư-sĩ do Nam-Á Paris xuất bản.
Người được trao phó đứng ra tổ chức là Quốc Thượng-phụ tức Thái-sư Trần Thủ-Độ. Trong chương trình mời, sáu đại môn phái quốc nội Đại-Việt là Đông-a, Tiêu-sơn, Mê-linh, Sài-sơn, Tản-viên, Yên-tử. Bẩy môn phái Đại-Việt ở quốc ngoại là Pha-nôm, Cửu-long, Thát-luông, Phật-thệ, Động-đình, Khúc-giang, Thiên-sơn. Lại cũng mời những bang lớn như Lĩnh-Nam, Hồng-hà, Nam-hải, Tây-vu về dự. Thư gửi đi vào tháng ba, thì sang tháng tư, đại-sư Y-sơn chưởng môn phái Tiêu-sơn phúc đáp rằng môn phái không dự, vì cảm thấy võ đạo của người tổ chức không phải võ đạo Đại-Việt. Phái Sài-sơn thì tân chưởng môn Lê Nguyên-Sơn cáo lỗi vì mới lĩnh chức, chưa kịp chỉnh đốn nội bộ. Phái Yên-tử, Mê-linh gửi thư kết tội Thái-sư Trần Thủ-Độ gay gắt, rồi tuyên bố không dự. Phái Tản-viên thì chưởng môn Đặng Kiếm-Anh gửi thư nói rõ: Vào thời gian đại hội, môn phái có chương trình dẫn đệ tử lên đường đi thăm hồ Động-đình, thành ra không về dự được. Đấy là bốn đại môn phái quốc nội. Còn bẩy môn phái quốc ngoại, gửi thư nói rõ rằng họ không về dự vì lý do người tổ chức muốn đem chủ đạo của bọn Hung-nô vào thay thế chủ đạo tộc Việt. Thế là đại hội không thành. Nguyên-Phong hoàng đế với Thái-sư Trần Thủ-Độ kinh hoảng, bàn luận tìm phương cách nối lại giao hảo giữa võ lâm với triều đình. Nếu cứ tình trạng này, mà xẩy ra chiến tranh với ngoại quốc, e triều đình không thể giữ nổi nước.
Đùng một cái, có tin Ngũ-yên cũng tổ chức giỗ Bắc-bình vương với vương phi vào cùng ngày tại trấn Đồn-sơn. Tất cả các đại môn phái quốc nội, trừ Đông-a; bẩy môn phái quốc ngoại, ba đại bang đều kéo về tham dự. Tin này đưa về Thăng-long, Thái-sư Thủ-Độ uất khí lên cổ. Riêng nhà vua, thì ngài lại vui mừng, mà tâu với Tuyên-minh thái hoàng thái hậu rằng:
– Thần nhi sợ, là sợ các môn phái chia rẽ, chém giết nhau mà thôi. Chứ thần nhi không sợ họ chống triều đình. Họ chia rẽ, tàn hại nhau thì nước sẽ mất. Còn họ chống triều đình, mà theo Ngũ-yên thì khi có ngoại xâm, họ sẽ cùng Ngũ-yên chống giặc.
Từ đấy, thế lực của Ngũ-yên càng thêm mạnh, nhân tâm đều hướng về. Về cai trị, học phong, Hưng-Ninh vương làm cho dân chúng ấm no, đất hoang được khai phá thành vườn thành ruộng, thuế nhẹ. Mỗi làng, mỗi xã đều có trường học. Nhà nhà nghe tiếng trẻ đọc sách. Về Thủy-quân Hưng-Đạo vương đã có trong tay bốn hạm đội mang tên Âu-Cơ, Bạch-đằng, Động-đình, Thần-phù tổ chức theo lối dân binh, thành ra ngân quỹ Ngũ-yên không phải tốn tiền nuôi quân. Ngưu-binh, có một hiệu do Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Phạm Cụ-Chích chỉ huy. Kỵ-binh một hiệu do Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần chỉ huy. Bộ binh chỉ có ba hiệu, do Phú-lương hầu Trần Tử-Đức lĩnh ấn Trung-vũ thượng tướng quân thống lĩnh.
Giữa lúc đó, Khu-mật viện nhận được tin dữ: Quân Mông-cổ đã chiếm được vùng Tứ-xuyên, rồi vượt Độ-khẩu xuống, đánh nước Đại-lý (Vân-Nam ngày nay). Sau khi chiếm Vân-Nam, quân Mông-cổ sẽ đánh Đại-Việt, rồi dùng tù hàng binh, lương thực Đại-Việt đánh vào phía sau Tống.
Mông-cổ tuy xa Đại-Việt, nhưng từ mấy chục năm trước, phò mã Trần Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi từng dẫn sứ đoàn sang Kim, rồi do Kim yêu cầu, mà lưu lạc tới Mông-cổ. Phò mã kết thân với Mông-cổ, sứ đoàn Mông-cổ tới Đại-Việt. Sau Thủ-Huy, Đoan-Nghi, đội võ sĩ Long-biên bị vua Cao-tông cống cho Tống, tất cả đã bỏ Tống sang Mông-cổ. Rồi chính Thủ-Huy, Đoan-Nghi giúp Mông-cổ lập quốc. Quốc thượng phụ Trần Thủ-Độ sinh tại Mông-cổ, từng làm đại tướng thống lĩnh binh đoàn Phương-Đông của Mông-cổ đánh Kim lập đại công. Vì vậy trong triều, ngoài dân chúng đều nghe biết về sự hùng mạnh vô địch của các đội Lôi-kỵ của họ. Chỉ cần vài vạn người, mà họ khống chế cả Hoa-Bắc. Nay họ đem quân đánh Đại-Việt, thì họa này thực không nhỏ. Nước mất một sớm, một tối không biết lúc nào.
Lập tức Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ thiết đại triều. Buổi thiết đại triều bao gồm thoàng thân, quốc thích, tất cả các đại thần, các An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ, các tướng chỉ huy hiệu binh, các Đô-đốc thủy quân…để nghị sự về việc này. Sợ rằng Ngũ-yên không gửi người về họp, triều đình nhờ Tuyên-minh thái hoàng thái hậu viết thư triệu Hưng-Ninh vương, Vũ-Thành vương, Hưng-Đạo vương về. Thái-sư Thủ-Độ cản trở: Nhất định Ngũ-yên không gửi bất cứ người nào về, gọi vô ích. Thế nhưng, trái với ước tính của Thái-sư, phái đoàn Ngũ-yên kéo một lực lượng nhân sự đông đảo về họp: Ba vương, năm An-phủ sứ năm vùng Yên-phụ, Yên-dưỡng, Yên-sinh, Yên-hưng, Yên-bang; bốn Đô-đốc chỉ huy bốn hạm đội Âu-Cơ, Động-đình, Bạch-đằng, Thần-phù; các tướng chỉ huy hiệu Bộ-binh, Ngưu-binh, Kỵ-binh, và 18 tân khách. Buổi họp diễn ra ở điện Uy-viễn là nơi Khu-mật viện đặt trụ sở.
Sau khi Nguyên-Phong hoàng đế giá lâm. Ngài ban chỉ:
– Khu-mật viện nhận được tin dữ: Quân Mông-cổ đã chiếm Tứ-xuyên rồi đánh Đại-lý. Đại-lý đầu hàng. Không biết lúc nào, chúng sẽ đánh ta. Chúng đánh ta không phải với mục đích chiếm nước không thôi, mà còn muốn dùng tù hàng binh làm lao binh, bắt chúng ta cung ứng lương thảo, rồi đánh vào mặt sau của Tống.
Quốc thượng phụ Trần Thủ-Độ hỏi quản Khu-mật viện là Trấn-viễn thượng tướng quân, Khai-sơn hầu Chu Mạnh-Nhu:
– Tin này từ đâu tới?
– Quân Mông-cổ chuẩn bị đánh ta, nên họ dùng con trai của một đại tướng Mông-cổ Trần Tử-Kim với quận chúa Lý Đoan-Thanh tên Trần Tử-An làm phó tướng. Vì ông biết tiếng Việt. Nhưng sau khi chiếm Đại-lý, Trần Tử-An cùng 100 thuộc hạ bỏ trốn về đây báo hung tin cho ta.
Tử-An từng là bạn thời thơ ấu của Thái-sư Thủ-Độ, nhỏ hơn ông bẩy tuổi. Nghe tin Tử-An về, Thủ-Độ không dấu được cảm động:
– Ta muốn gặp Trần Tử-An.
Một trung niên nam tử nước da sạm đen, trong y phục Vạn-phu trưởng từ sau màn xuất hiện. Trông thấy Thủ-Độ, ông chào bằng tiếng Mông-cổ:
– Thế nào? Anh Thủ-Độ. Anh còn sống ư?
– Tại sao em lại hỏi thế?
– Vì người Mông-cổ nói rằng khi anh về tới Đại-Việt thì bị giết rồi.
– Ừ ! Bọn Mông-cổ vốn gờm ta. Ta ẩn thân, rồi phao như vậy, để đánh lừa chúng.
Để triều đình hiểu rõ Mông-cổ hơn. Thái-sư Thủ-Độ giảng chi tiết về vùng Thảo-nguyên, gồm phong tục, tôn giáo, đời sống của dân chúng. Nguồn gốc Thành-cát Tư-hãn từ đâu? Mông-cổ lập quốc thế nào? Trần Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi, Lý Long-Tùng, Lý Đoan-Thanh, Trần Tử-Kim, đội võ sĩ Long-biên đã giúp Mông-cổ ra sao. Tiếp theo, Mông-cổ liên kết với Tống đánh Kim. Cuối cùng ông hỏi Tử-An:
– Hồi 40 năm trước, bố mẹ anh rời Mông-cổ về, thuật cho anh nghe chi tiết việc Mông-cổ đánh Kim. Từ hồi đó đến giờ, Mông-cổ thịnh suy ra sao, anh không rõ. Vậy em hãy thuật chi tiết cho triều đình nghe
Tử-An đem một trục lụa trên vẽ bản đồ vùng Thảo-nguyên, Trung-quốc, Tây-hạ (Si-Hia)ï, Tây-liêu (Qara Hitai), Tây-vực (Kwharesm, Hoa Thích Tử Mô) , A-phú-hãn (Afganistan), Ấn-độ treo lên, rồi giảng:
– Năm thứ 11 đời vua Thái-tổ Mông-cổ (DL.1216, Bính Tý) bên Đại-Việt là niên hiệu Kiến-gia tứ 6 đời vua Huệ-tông triều Lý. Sau khi trao Hoa Bắc, Cao-ly, Liêu-Đông cho Mộc Hoa Lê, Thành-cát Tư-hãn rút quân về vùng Thảo-nguyên nghỉ ngơi. Sang năm sau, Khu-mật viện Mông-cổ được tin nước Tây-Liêu rối loạn, tâu lên. Thành-cát Tư-hãn sai Triết Biệt mang quân sang chinh phục.
Hoàng tử thứ nhì của nhà vua là Trần Quang-Khải, tước phong Chiêu-Minh vương hỏi:
– Thưa tướng quân, nước Tây-Liêu lập quốc từ bao giờ?
Tử-An ngơ ngác không trả lời được. Triều thần đưa mắt nhìn Hưng-Đạo vương, vì từ lâu vương nổi tiếng bác học đa năng. Vương trả lời:
– Tây-Liêu với Đông-Liêu có cùng nguồn gốc. Tộc Liêu vốn thuộc giống Khiết-đan, phát xuất từ phía Tây Mãn-châu và phía Đông Nhiệt-hà. Về thời Ngũ-đại, tộc trưởng là Gia-luật Hồng-Minh suất lĩnh tộc Khiết-đơn giúp Thạch Kính-Đường lên làm vua, lập ra triều Hậu-Tấn. Thạch nhường vùng đất Sơn-Tây, Bắc Hà-Bắc cho Hồng-Anh. Hồng-Anh lập ra nước Liêu. Đầu đời Tống, Liêu trở thành mạnh, chiếm Hoa Bắc, bắt Tống thần phục, hằng năm phải cống một số vàng, lụa, rất lớn. Niên hiệu Thiên-phù duệ vũ thứ 6 (DL.1125, Ất Tỵ) đời vua Lý Nhân-tông, tộc Nữ-chân hùng mạnh, đánh chiếm Liêu, chiếm luôn lãnh thổ Tống bị Liêu đô hộ. Hoàng thân Liêu là Gia-luật Đại-thạch dẫn một số dân Khiết-đan chạy lên vùng Tây-Bắc, chinh phục 18 bộ tộc lẻ tẻ, dựng thành Ý-minh (Imil) làm thủ đô. Ít lâu sau, nước Khả-nã-mĩ (Karakhamide) ở Tây Nam bị dân Thổ uy hiếp. Họ cầu cứu với Đại-Thạch. Đại-Thạch đem binh đến giúp, rồi chiếm luôn xứ này, lập ra một nước lớn, gọi là Tây-Liêu. Đại-Thạch lên ngôi vua, xưng là hoàng-đế. Truyền đến đời thứ ba, thì hoàng đế Tây-Liêu quá nhu nhược, các chư hầu bỏ, thần phục nước khác. Trong đó có Thổ-phồn, thần phục Mông-cổ… Sách vở chỉ chép đến đây thôi. Còn những gì mới xẩy ra thì tôi không biết.
Tử-An kính cẩn vái Hưng-Đạo vương:
– Đa tạ vương gia. Thế này: Vương-tử xứ Nãi-man (Naiman) là Gút Sơ Lúc (Guclug), sau khi Nãi-man bị Mông-cổ diệt, ông ta trốn sang nương nhờ Tây-Liêu, được làm phò mã. Nhà vua giúp phò mã, quy tụ tàn quân Nãi-man, Miệt-nhi thành mấy binh đoàn riêng. Khi nhà vua băng hà, Gút Sơ Lúc chiếm đoạt ngôi vua. Ông ta là một bạo chúa. Nhân vợ ông theo Cảnh-giáo, ông cũng theo Cảnh-giáo, rồi bắt cả nước theo Cảnh-giáo. Trong khi hầu hết dân chúng theo Hồi-giáo. Ông ra lệnh đóng cửa tất cả các đền thờ Hồi-giáo. Tin này đưa về Hoa-lâm năm thứ 12 đời vua Thái-tổ Mông-cổ (DL.1217, Đinh Sửu, bên Đại-Việt là niên hiệu Kiến-gia thứ 7 đời vua Huệ-tông triều Lý); Thành-cát Tư-hãn sai Triết Biệt mang hai vạn Lôi-kỵ qua đánh bạo chúa. Trước khi tiến quân vào Tây-Liêu, Triết Biệt sai người cáo với dân chúng rằng: Quân Mông-cổ tới đây để bảo vệ tôn giáo. Vì vậy, khi quân Mông-cổ tới đâu, dân chúng, binh lính theo Hồi-giáo mở cửa thành ra đón rước. Giữ đúng lời hứa, Triết Biệt cho mở cửa lại các đền thờ Hồi-giáo, thả các tu sĩ Hồi-giáo bị giam trong tù . Dân chúng đón rước quân Mông-cổ như đón sứ giả nhà trời.
Tĩnh-Quốc đại Trần Quốc-Khang phát biểu:
– Như vậy thì Thành-cát Tư-hãn trở thành ân nhân của dân chúng Tây-liêu rồi. Không biết sau đó, quân Mông-cổ có rút khỏi Tây-Liêu không?
Ghi chú của thuât giả
Sử ghi Tĩnh-Quốc đại vương là con đầu lòng của Thái-tông, lại cũng chép Thánh-tông là con trưởng giòng đích. Thế nghĩa là gì? Thưa: Khi Thuận-Thiên có mang vương ba tháng, thì bị Thủ-Độ đem vào cung. Trên danh thì vương là con trưởng của Thái-tông, nhưng thực ra là con của Yên-sinh vương Liễu. Vì vậy vương không được lập làm thái tử, mà lập em vương là thái-tử Hoảng, sau là vua Thánh-tông.
Vương là con của Yên-sinh vương Liễu. Sau này con của vương là Chương-tín hầu Trần Kiện hàng Mông-cổ, bắt nguồn từ việc vương không được truyền ngôi vua.
– Không. Thành-cát Tư-hãn chia thành quận huyện, tổ chức cai trị.
Hưng-Ninh vương tỏ ra không đồng ý:
– Xét ra đối với dân Mông-cổ, Thành-cát Tư-hãn là đại hanh hùng, đại minh quân. Còn đối với Tây-Liêu thì cả Gút Sơ Lúc lẫn Thành-cát Tư-hãn đều là bạo chúa. Gút Sơ Lúc vừa là ngu chúa, vừa là bạo chúa. Ông ta chết đi cũng không hết tội. Còn Thành-cát Tư-hãn, ông ta lợi dụng cái cuồng tín của ngu dân, mà chiếm nước người, rồi đặt lên đầu họ cái ách thống trị.
Nhà vua nhìn Hưng-Đạo vương, như muốn hỏi ý kiến. Vương biết ý nhà vua, lý luận:
– Tây-Liêu mất nước không do quân đội của Thành-cát Tư-hãn hùng mạnh, mà do Gút Sơ Lúc không nắm được lòng dân. Nếu như Gút Sơ Lúc là minh quân, làm chủ được cái đạo vua với tôi như cha với con, thì liệu Thành-cát Tư-hãn có dám nghĩ đến đem quân xâm chiếm không? Ví dù ông ta cố tình xâm chiếm, thì liệu có chiếm được không?
Cử tọa vỗ tay hoan hô.
Nhân-Huệ vương Trần Khánh-Giư hỏi:
– Hiện nay Mông-cổ có còn sống theo chế độ liều trại nữa không?
– Không! Từ sau khi đánh Tây-vực (Kwharesm, người Trung-hoa phiên âm là Hoa Thích Tử Mô) Mông-cổ bắt về hơn hai mươi vạn tù binh mà đa số là thợ giỏi. Họ lại bắt thêm mười vạn thợ Trung-quốc, Tây-hạ nữa, rồi kiến thiết thủ đô Hoa-lâm với ba chục thành phố lớn giống như Yên-kinh, Ninh-hạ.
Thái-sư Thủ-Độ dục Tử-An :
– Em thuật tiếp đi.
– Năm thứ 13 đời vua Thái-tổ Mông-cổ (DL.1218, Mậu Dần, bên Đại-Việt là niên hiệu Kiến-gia thứ 8 đời vua Huệ-tông triều Lý. Một biến cố kinh khủng xẩy ra, khiến các nước Tây-vực thây phơi hàng vạn vạn người, máu chảy cuồn cuộn như thác đổ, nhà nhà bị hủy hàng triệu triệu nóc, không biết bao nhiêu thành trì bị san bằng.
Cử tọa thấy Tử-An thuật chuyện cũ, mà dường như trên mặt còn hiện ra vẻ khủng khiếp. Thái-sư Thủ-Độ hỏi:
– Hồi anh còn ở Mông-cổ thường thấy thương nhân các nước Tây-vực, họ theo Cảnh-giáo, Hồi-giáo, Da-tô giáo. Mũi họ cao, mắt họ to và sâu, lông tóc hung hung, da trắng . Họ nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Như em kể, không biết giữa vua của họ với Thành-cát Tư-hãn có gì xích mích xẩy ra không, mà lại có cảnh chém giết khủng khiếp như vậy?
– Lỗi tại vua của họ giết sứ giả của Mông-cổ!
– Ái chà!
Thủ-Độ than:
– Xưa nay Thành-cát Tư-hãn coi trọng sứ giả vô cùng. Sứ giả của bất cứ bộ tộc, hoặc nước nào sai đến Mông-cổ, ông cũng tiếp đãi như vua nước đó. Còn sứ giả của ông sai đi, ông cũng coi như họ là bản thân ông. Không biết nguyên do nào Tây-vực lại giết sứ giả Mông-cổ? Giết sứ giả của Thành-cát Tư-hãn thì coi như tuyên chiến với ông rồi.
Tử-An thuật.
Ghi chú của thuật giả
Tống-sử thuật lại chiến dịch Kwharesm vắn tắt khoảng 2 trang, cũng không nói đến tên của vua nước này. Đế quốc Kwharesm, người Trung-quốc phiên âm thành Hoa Thích Tử Mô. Tôi không dùng tên này, mà dùng tên Tây-vực để chỉ các nước Trung-Á, Trung-Đông, Bắc Aâu là vùng bị Mông-cổ chinh phục.
Trên thực tế, Mông-cổ tàn phá các nước Trung-Đông, châu Âu như Afganistan, Iran, Irac, Syrie, Hung-gia-lợi, Ba-lan, Tiệp-khắc, Đức, Liên-sô v.v. rồi cai trị mấy trăm năm. Sử sách của các dân tộc trên ghi chép rất đầy đủ. Độc giả có thể tìm đọc những sách này bằng tiếng Anh, Pháp, mà thuật giả ghi ở phần thư mục AHĐA quyển 1.
Từ khi Trần Thủ-Huy, Vương Thúy-Thúy rời Mông-cổ vào năm 1216 (Bính Tý) , nhằm niên hiệu Kiến-gia thứ 6 đời vua Huệ-tông nhà Lý, đến nay là năm 1256 (Bính Thìn) nhằm niên hiệu Nguyên-phong thứ 6 đời vua Thái-tông nhà Trần. Khoảng cách 40 năm ấy, những gì đã xẩy ra tại đế quốc Mông-cổ?
Để thay cho lời tường tình của Trần Tử-An, thuật giả xin tóm lược bằng bài phụ lục trang sau. Độc giả hãy đọc kỹ, để thấy đế quốc Mông-cổ hùng mạnh biết là dường nào? Họ chiến thắng khắp Á-châu, chiến thắng khắp Trung-Đông, chiến thắng khắp Âu-châu… Rồi đặt nền cai trị. Thế mà, khi đánh Đại-Việt, họ bị bại đến ba phen. Như vậy mới biết tổ tiên ta anh hùng biết bao?
Trước kia, triều đình Đại-Việt từng nghe Thủ-Độ nói nhiều về Mông-cổ, nhưng Mông-cổ ở quá xa, họ không mấy chú ý. Bây giờ được tin Mông-cổ sắp vào nước mình, bất giác người người nhìn nhau kinh hãi.
Thủ-Độ nhắc Tử-An :
– Em hãy thuật tiếp tình hình Mông-cổ từ ngày Thành-cát Tư-hãn băng hà đến giờ. Ông ấy băng bao giờ ? Băng vì lý do gì ?
– Năm thứ 20 đời vua Thái-tổ Mông-cổ (DL.1225, Ất Dậu, bên Đại-Việt là niên hiệu Kiến-trung nguyên đời vua Trần Thái-tông). Sau khi đặt nền móng cai trị trên những nước đã chinh phục, Thành-cát Tư-hãn kéo quân từ phương Tây hồi loan. Trên đường về, ông đem đại binh đánh Tây-hạ. Nguyên do, khi xuất quân, ông gửi mã khoái Phi-tiễn ban chỉ cho vua nước này phải đem mấy đạo binh chinh Tây. Chúa Tây-hạ trả lời : Nếu Thành-cát Tư-hãn đủ sức mạnh thì cứ một mình đem quân chinh tiễu. Còn như không đủ sức mạnh thì đừng làm hoàng đế nữa. Thành-cát Tư-hãn giận cành hông. Ông đành nuốt giận, bây giờ là lúc ông trừng phạt. Nhưng bấy giờ chúa nước Tây-hạ đã băng rồi. Thái-tử lên kế vị. Tân quân là một thiếu niên anh hùng. Biết rằng trước sau gì Mông-cổ cũng đem quân đánh mình. Ông ra sức chiêu mộ tàn quân của Nãi-man, Tây-Liêu, Khắc-liệt, Kim, Tống… thành lập đạo quân 50 vạn người. Nhưng quân ô hợp của ông làm sao địch lại đạo quân thiện chiến, trên đường khải hoàn? Quân Mông-cổ thắng Tây-hạ dễ dàng. Thế nhưng kinh-đô Ninh-hạ quá kiên cố. Bao nhiêu vũ khí phá thành đều vô hiệu. Ông áp dụng phương cách đánh Yên-kinh trước đây: Tiếp tục bao vây, chiếm hết các vùng lân cận để tuyệt đường tiếp tế; chặn đánh viện binh. Ông chia quân làm ba đạo. Đạo thứ nhất tiếp tục vây Ninh-hạ. Đạo thứ nhì trao cho Oa Khoát Đài tiến đánh miền Tây nước Kim, để chặn viện binh. Đạo thứ ba, tiến đánh các nước nhỏ, phiên thuộc Tây-hạ. Cò