Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông

Chương 26: Khi Vui Muốn Khóc, -buồn Tênh Lại Cười.


Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 26: Khi Vui Muốn Khóc, -buồn Tênh Lại Cười.

Anh-Hào hỏi Thái-hậu :
– Có giết chúng không ?
Thái-hậu đang để hết tinh thần nhìn cuộc đấu giữa Tá-Chu với Vương Nhất. Bà đâu có nghe thấy Anh-Hào nói gì ? Giữa lúc Anh-Hào thỉnh mệnh bà thì Tá-Chu đang đánh một chiêu xuống đỉnh đầu Vương Nhất, bà mong cho chưởng đó Tá-Chu giết chết đối thủ. Bị kích động bà hô :
– Giết !
Anh-Hào, cùng Cảm-Linh, Cảm-Chi tưởng Thái-hậu ban chỉ xử tử ba vương. Cả ba người đồng xuống tay. Ba vương Kiến-Ninh, Kiến-An Kiến-Tĩnh bị chặt làm hai khúc.
Bọn võ sĩ Long-biên trước đây từng là thủ hạ của Kiến-An vương. Vương đối xử với họ bằng tất cả tình anh em ruột thịt. Bây giờ thấy vương chết thảm, họ cùng thét lên rồi buông tên : Anh-Hào, Tô-lịch nhị tiên bị tên ghim vào người như con nhím. Cả ba cùng ngã vật xuống. Đám võ sĩ như người hóa khùng, họ băm ba người ra như băm chả.
Long-Xưởng vừa mừng, vừa sợ, vương quát lên :
– Ngừng tay !
Thủ-Huy, Đoan-Nghi, Tá-Chu cùng nhảy lùi lại.
Trong điện Càn-nguyên, xác chết, máu óc bầy nhầy khắp nơi.
Người bịt mặt chỉ vào mặt Cảm-Thánh thái hậu, với bọn Mao Khiêm cất tiếng nói :
– Chúng ta là võ lâm dân dã Đại-Việt. Chúng ta không can thiệp vào việc triều đình. Than ôi ! Từ khi vua Thái-tổ lập nền chính thống đến giờ, triều đại Tiêu-sơn được sĩ dân tuân phục, vì đem đức từ bi, hỷ xả của đức Thế-tôn cai trị thiên ha, triều đình luôn làm gương về đạo đức cho trăm họ quy phục. Nhưng nay thì không thế nữa, trăm họ đều chán nản. Chúng nhân than : Họ Lý làm vua, hay họ khác làm vua cũng thế thôi. Này nhé, trên cao nhất thì Thái-hậu chửa hoang, Hoàng-đế có em cùng mẹ khác cha. Ôi còn gì dơ bẩn hơn nữa không ? Bây giờ, bà ra lệnh cho chú giết cháu, cốt nhục tương tàn. Đạo lý tộc Việt suy đồi ! Chúng ta không cần biết tới triều đình ! Chúng ta phải thế thiên hành đạo.
Ông chỉ vào Vương Nhất, Cao Nhị :
– Hai tên hại nước kia. Đối với bọn mi, ta chỉ đánh ba chiêu. Nếu sau ba chiêu mà bọn mi còn sống thì ta sẽ đưa bọn mi rời khỏi đây.
Nói dứt, ông phát chiêu tấn công Vương Nhất, Cao Nhị. Chưởng phong cực kỳ hùng hậu mà trọn đời Long-Xưởng chưa từng thấy. Trong chưởng cương, nhu hòa hợp, sát thủ cực kỳ ác liệt. Chưởng này mạnh hơn chưởng của Vương Cương-Trung, Minh-Đạo đại vương nhiều. Vương, Cao kinh hãi, cùng xuất chiêu đỡ. Bùng, bùng ! Cả hai bật tung vào cột đá trong điện, người vỡ làm năm sáu mảnh, ruột gan văng khắp điện.
Người bịt mặt chỉ tay vào mặt Cảm-Thánh thái hậu :
– Con mụ dâm đãng cùng cực kia ! Mi thực là một đứa ác đầy trời đất. Mi tư thông với ác nhân Đỗ Anh-Vũ, giết hại không biết bao nhiêu người trong tông tộc họ Lý ! Mi hãm hại không biết bao nhiêu trung thần, chẳng qua chỉ để làm vui lòng y. Y chết, mi lại gian dâm với tên Lưu Kỳ, rồi định đem sự nghiệp của chồng, đất nước của liệt tổ Đại-Việt dâng cho Tống. Bây giờ mi già rồi, mà còn dâm đãng, mi muốn ngôi vua Đại-Việt sẽ truyền sang họ Triệu, để hy vọng tên Lưu Kỳ sẽ được Tống triều phong vương. Y sẽ trở lại với mi. Hôm nay ta phải giết mi.
Mao Khiêm kinh hãi. Y hú lên một tiếng dài rồi đánh liền ra hai chưởng vào bàn thờ, phẩm vật bay tứ tung khắp điện. Trong khi người người mải tránh né, thì y ôm lấy Cảm-Thánh thái hậu, tung mình chạy ra phía sau điện.
Tăng Khoa đã sai quân trói bọn văn quan phản nghịch, lùa ra trước điện, rồi dọn dẹp các xác chết, lau chùi sạch điện Càn-nguyên.
Long-Xưởng đứng chết lặng nhìn xác ba người em, trong lòng đầy hối hận :
“Tuy là anh em cùng cha, khác mẹ, nhưng trời sinh ra tính tình ta hợp với ba em. Hơn mười năm qua, ta cùng các em ngày đêm bên nhau, mưu cầu kiến tạo Đại-Việt thành một nước nước hùng mạnh. Nay đã đạt được chín phần mười, thì vì bảo vệ ngôi vua, bảo vệ tính mệnh, mà ta đẩy ba người em vào chỗ chết. Mà lại bị chính bà nội mình giết chết… Bà giết cháu chỉ vì muốn làm vừa lòng người tình nhân già Lưu Kỳ. Nhưng thực đúng ý ta”.
Thủ-Huy gọi Trần Tử-Kim, trưởng đoàn võ sĩ Long-biên, chỉ bọn văn quan phản loạn :
– Đô thống đem bọn này ra chợ Tây-nhai chặt đầu, rồi bêu khắp nơi cho dân chúng xem.
Công gọi Tăng Quốc :
– Tướng quân điều động thị vệ bao vây phủ đệ tất cả bọn quan lại phản loạn, niêm phong tài sản. Bất kể già, trẻ, lớn bé, đều giam vào ngục, chờ xét xử.
Tăng Khoa gọi Như-Như, rồi chỉ vào Thục-phi Đỗ Thụy-Châu :
– Người này can tội khi quân. Y thị không có thai, mà nói rằng có thai. Lại lấy con của Vương Thụy-Hương dối rằng con mình. Chính việc đó gây ra cuộc thảm thiết này. Giam y thị với Long-Trát lại. Chờ anh cả lên ngôi, rồi sẽ xử sau.
Chư quan các trấn, cùng bách quan quỳ gối hướng Long-Xưởng :
– Bọn thần xin kính thỉnh Thái-tử lên ngai vàng, nối ngôi Anh-tông hoàng đế.
Tiếng các quan hô làm Long-Xưởng giật mình trở về với thực tại. Vương vẫy tay :
– Xin mời các vị đứng dậy.
Hoàng-hậu tuyên chỉ :
– Hôm nay là ngày xấu. Hãy chờ ngày mai, hoàng nhi lên ngôi cũng chưa muộn.
Tham-tri chính sự Vũ Tán-Đường chỉ theo hướng bọn Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di đang bị điệu ra pháp trường :
– Khải Thái-tử, nội ngày mai Thái-tử sẽ lên ngôi cửu ngũ. Cổ, kim, dù Hoa, dù Việt, khi tân quân lên ngôi đều có lệ ân xá cho các tội phạm. Thần xin Thái-tử khoan cho chính pháp các đại thần phạm tội. Rồi sau đó, sẽ xét trường hợp từng người một.
Long-Xưởng thất kinh hồn vía hỏi :
– Ta có sai xử tử ai đâu ?
Mọi người đưa mắt nhìn Thủ-Huy. Long-Xưởng hốt hoảng hỏi :
– Nhị đệ ! Nhị đệ đã giết hết bọn Tô Hiến-Thành rồi à ? Sao nhị đệ không thỉnh mệnh ta ?
Thủ-Huy lạnh lùng :
– Chính vì điện hạ khoan dung cho chúng hai lần, mà ba vương bị chết. Bây giờ không còn gì để có thể khoan dung cho chúng. Thần là tướng cầm quân dẹp loạn, thần phải tru diệt chúng.
– Không ! Ta không muốn giết chúng. Tại sao nhị đệ lại hành động vô pháp vô thiên như vậy ?
Vũ Tán-Đường tâu :
– Tâu điện hạ ! Thái-úy đã thi hành đúng luật. Kể từ khi Thái-sư Tô Hiến-Thành đem thị vệ, ngự lâm quân đóng cửa thành Thăng-long, thì coi như lúc đó trong nước có loạn. Phò-mã là Thái-úy, cầm trọn binh quyền trong tay, thì Thái-úy không cần thỉnh mệnh, mà người phải dẹp loạn. Từ khi Thái-úy đem quân về Thăng-long, cho đến lúc này, thanh bình vẫn chưa trở lại. Luật bản triều định rằng trong lúc dẹp loạn, tướng cầm quân đươc toàn quyền giết phản loạn, không phải thỉnh Thiên-tử.
Long-Xưởng gọi Long-nhương thượng tướng quân Lưu Khánh-Bình, hiện là Tổng-trấn Thanh-Nghệ, trao thanh kiếm lệnh cho ông :
– Lưu huynh mau lấy ngựa đuổi đuổi theo, nói với viên đô thống giám trảm rằng đây là chỉ dụ của ta : Ngưng cuộc hành hình ngay.
Lưu Khanh-Bình lĩnh gươm rời điện.
– Đại ca !
Tăng Khoa nắm lấy tay Long-Xưởng, hầu nói bằng giọng thiết tha : Đại ca nên nghĩ lại ! Phàm muốn thành đại sự, thì phải bỏ tiểu tiết. Cái bọn phản thần ăn hại này không thể và không nên tha thứ ! Tội chúng cao như núi, nếu tha cho chúng thì sau này sẽ nảy sinh ra nhiều bọn gian thần, tặc tử nữa. Mặt khác, bọn đệ cùng các vị trung thần là những người khuông phò đại ca bấy lâu, mà nay đại ca cũng coi như bọn phản thần, thì tất cả…tất cả sẽ cảm thấy hối tiếc…
– Ta có chủ trương của ta. Mai này ta sẽ lên ngôi Thiên-tử, không ai có quyền ép ta phải thế này, thế nọ. Đệ không thể, không nên nói nhiều.
Tăng Khoa nhìn Trang-Hòa, Đoan-Nghi, Thủ-Huy lắc đầu, rùng mình, thở dài.
Hoàng-hậu nói sẽ vào tai Long-Xưởng :
– Lưu tướng quân hay Thủ-Huy, hay Tăng Khoa thì cũng giống nhau. Họ ghét bọn Tô, Đỗ. Mẹ sợ Lưu tướng quân sẽ tìm cách đi chậm chậm, đợi khi đám văn quan bị giết xong rồi mới tới ban lệnh.
Long-Xưởng tỉnh ngộ, vương truyền chỉ cho Bùi Kinh-An (bố vợ của Long-Xưởng):
– Xin quốc trượng khẩn ra chợ Tây-nhai cứu bọn Tô, Đỗ một phen.
Các quan đã làm xong tờ biểu tôn Long-Xưởng lên làm vua, rồi cùng nhau ký vào. Đoan-Nghi chuyển cho các bà phi ký, cuối cùng thỉnh Hoàng-hậu thự danh.
Long-Xưởng tâu với Hoàng-hậu :
– Tâu mẫu hậu, thần nhi đợi các đại thần phạm tội trở về, để họ ký vào tờ biểu tôn thần nhi lên ngôi. Ngày mai thần nhi sẽ cho họ chứng kiến việc thần nhi kế tiếp ngôi trời là chính thống. Đạo lý có, chính thống có hỏi ai còn dám nảy lòng hươu dạ vượn nữa ? Vì vậy thần nhi ân xá cho họï, để họ thấy cái đức của thần nhi rộng như biển, cao như trời.
Long-Xưởng quay lại, nhìn trước, nhìn sau, xem hai người bịt mặt đã giải cứu mình là ai, thì không thấy đâu nữa. Vương hỏi Đoan-Nghi :
– Nghi muội có thấy cứu tinh bịt mặt đâu không ?
– Muội cũng đang định hỏi anh câu đó ?
Công chúa nói một mình :
– Coi lưng, ngực người này thì không phải là Côi-sơn song ưng rồi ! Không biết ông ta là ai, mà công lực lại thâm hậu đến như vậy ?
Công-chúa hỏi Kim-Ngân :

– Em có biết ông là ai không ? Võ công ông dùng là võ công môn phái nào ?
– Khó quá !
Kim-Ngân trả lời : Ông ta dùng võ công Tẩn-viên. Ông ta đánh những chiêu rất tầm thường, giống như người mới tập võ, đánh bừa. Nhưng nội công thì thâm hậu không biết đâu mà lường. Tiếc thay, người như thế mà ta không được làm quen.
Bùi Kinh-An đã dẫn các quan phạm tội trở về phục chỉ. Tăng Khoa lệnh cho họ cùng quỳ trước tử cung vua Anh-tông. Kinh-An tâu :
– Khải Thái-tử, thần ra tới pháp trường, thì đao thủ đã hành hình mất 18 người, gồm năm Tuyên-vũ sứ, sáu thị lang, bẩy tổng thái giám. Thần tuyên chỉ của Thái-tử, rồi giải giao họ về đây.
Long-Xưởng đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Thủ-Huy, trong lòng nghĩ thầm :
– Thế này là ta có cớ giết tên Thủ-Huy, để tránh miệng thế ngoa truyền rằng ta chưa lên ngôi vua đã giết các di thần của tiên đế. Giữa tình huynh đệ với ngai vàng, ta phải chọn một. Đợi lên ngôi rồi, ta mượn cái đầu y để rửa tiếng với sĩ dân trong nước.
Đám phản quan đã bước một chân vào Quỷ-môn quan, bây giờ được thoát chết, chúng mới biết sợ. Tất cả cùng quỳ gối trước tử cung Anh-tông hoàng đế, đầu cúi gầm xuống. Duy Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, vẫn quật cường, cười nhạt nhìn Long-Xưởng.
Biết Lý Kính-Tu là nho sĩ có khí phách, Long-Xưởng hỏi :
– Thái-phó cho biết tôn ý.
Kính-Tu nói với Long-Xưởng :
– Bảo-Quốc đại vương ! Bọn thần tuy trói gà không chặt, bị dọa giết, bị làm nhục, nhưng sĩ khí không mất. Bọn thần còn sống ngày nào thì nhất định thi hành di chiếu của tiên đế phò tá ấu quân ngày ấy. Ví dù vương gia giết bọn thần, thì bọn thần tự hào chết vì trung với tiên đế, chỉ tiếc cho vương gia, nghìn vạn năm sau sử xanh còn ghi là đứa gian thần tặc tử, là kẻ tham dâm, là tôi bất trung mà thôi.
Thần-phi Bùi Chiêu-Dương chỉ vào thi hài ba vương Kiến-Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh nói với các phản thần :
– Từ việc tam vương hoăng cho đến những biến động từ khi Hoàng-thượng băng hà, đều do các người mà ra. Các người có điều gì cần biện minh cho hành động của mình không ? Nếu không, thì đừng mở miệng ra bàn việc quốc gia đại sự.
Kính-Tu vẫn khẳng khái chỉ vào xác lễ quan, vào xác ba đại thần bị Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên giết:
– Mấy vị này chết vì bọn phản loạn triều đình gà mái gáy ! Ba vương hoăng do Thái-hậu ban chỉ xử tử. Tất cả không liên quan gì tới việc bọn thần phò tá ấu quân cả.
Kính-Tu nói mặc Kính-Tu nói. Bọn phản quan bị chết hụt cùng nhau rạp người trước Long-Xưởng :
– Chúng thần xin kính cẩn thỉnh Thái-tử lên ngôi Cửu-ngũ, kế tiếp sự nghiệp của tiên-đế.
Ngự-sử đại phu Trần Trung-Tá vốn thông minh. Ông biết rằng muôn ngàn lần không thể giữ ngôi vua cho Long-Trát được nữa. Ông bò như chó bò đến trước Long-Xưởng quỳ gối, rập đầu binh binh rồi chỉ tay vào mặt Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Lý Kính-Tu:
– Muôn tâu thánh hoàng. Trăm điều đều do ba lão già này mà ra. Từ hơn chục năm nay, ba lão kết đảng để chống lại thánh hoàng. Mục đích của chúng là muốn có một ấu quân, để chúng có thể chuyên quyền. Thần cả gan xin thánh hoàng tru di tam tộc nhà chúng.
Quan phòng thủ Hoàng-thành Đàm Dĩ-Mông nói với Trung-Tá :
– Ngự-sử đạị phu nói sai rồi. Kể từ khi vua Hùng lập quốc, chưa bao giờ chúng ta lại có một minh quân, văn võ toàn tài, nhân từ, ái chúng thế này. Ta không thể tôn người là thánh-hoàng được. Ta phải dâng hiệu cho người là Chí-tôn, vô-thượng đại thánh hoàng đế mới xứng.
Nói rồi y rập đầu bồm bộp trước Long-Xưởng :
– Tâu Chí-tôn vô-thượng đại thánh hoàng đế, thần xin Đại-thánh hoàng đế cho thần được xẻo từng miếng thịt ba tên đầu xỏ Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Lý Kính-Tu rồi đem ra đồng cho quạ ăn thịt.
Thế rồi bọn Ngô Lý-Tín, Phí Công-Tín, Ngô Nghĩa-Hòa thay nhau nói những lời tâng bốc Long-Xưởng, mạ lỵ Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Lý Kính-Tu. Mỗi người thêm một mỹ tự vào tôn hiệu của Long-Xưởng. Cuối cùng thành : Ứng-càn, Ngự-cực, Tề-thiên, Vô-thượng, Chí-tôn, Thần-văn, Thánh-võ, Đại-hiếu, Aùi-dân, Minh-đức, Quảng-từ, Đại-thánh hoàng đế.
Từ hơn mười năm nay, Long-Xưởng chỉ có những cận thần thân tín như Lưu Khánh-Bình, Bùi Kinh-An, Trần Thủ-Huy, Tăng Khoa. Họ chưa từng đưa ra một lời tâng bốc, nịnh hót. Hơn thế nữa, họ còn phiền trách vương khi vương làm những điều xa chính đạo. Bây giờ được đám phản thần tâng bốc, vương cười tít mắt lại, cực kỳ cao hứng.
Đám phản thần thấy tôn hiệu của Long-Xưởng vẫn chưa dài bằng của Long-Trát, chúng định tìm những mỹ tự nữa…thì Tăng Khoa buồn nôn, hầu nạt :
– Các người là phản thần, lát nữa đây sẽ bị đem ra xẻo thịt, thế mà các người còn dẻo mồm nịnh hót ư ? Có câm miệng đi không ?
Các nịnh quan vội im bặt, ngơ ngác nhìn nhau. Long-Xưởng đang cao hứng, thì bị Tăng Khoa làm mất, vương cau mặt mắng :
– Tất cả chư đại thần đây đều là quan cao cực phẩm, so với chức Vũ-kị thượng tướng quân của người, thì không khác gì trái núi với hạt vừng hạt đậu. Tội trạng của họ lại chưa rõ. Người không được vô phép.
Thấy Long-Xưởng mắng Tăng Khoa, một nghĩa đệ, hơn nữa tướng đang cầm quân bảo vệ ngôi vua cho mình, thì đám nịnh thần nắm ngay được yếu điểm : Người này thích được nịnh. Chúng lại xúm vào ca tụng Long-Xưởng bằng những lời lẽ cực kỳ đẹp đẽ, và mắng Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Lý Kính-Tu bằng những lời đê tiện nhất.
Tăng Khoa lắc đầu nói với Long-Xưởng:
– Đại ca ơi ! Đại ca hãy nghĩ đến sự nghiệp của năm vị tiên đế, mà chém bọn này ngay.
Long-Xưởng nghĩ thầm :
– Chống đối ta từ trước đến giờ là bọn quan văn này đây. Tuy chúng là những người chân yếu tay mềm, thích nịnh bợ, nhưng chúng là những người có tài cai trị. Bây giờ đã dẹp loạn đã xong, quốc kế đòi đất tổ không hy vọng gì thi hành. Ta…Ta đâu cần bọn Thủ-Huy, Tăng Khoa ? Chỉ với mấy hiệu binh địa phương, ít tên thị vệ, cấm quân ta cũng thừa sức cai trị dân. Ta phải loại dần bọn này ra. Bây giờ ta cần bọn văn quan ký vào biểu tôn ta lên ngôi, ta phải lấy lòng chúng. Hơn nữa, ta là đấng chí tôn trời Nam, thì phải trên ra trên, dưới ra dưới, chứ có đâu ca ca, đệ đệ với bọn Thủ-Huy, Tăng Khoa mãi.
Vương nhăn mặt nạt lớn :
– Im cái mồm. Đây là điện Càn-nguyên, trẫm là một Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế. Người không được ca ca, đệ đệ với trẫm. Hiện nay Thăng-long vô sự, không còn phản tặc ! Người hãy đem quân rời khỏi đây ngay, khi nào có chỉ mới được về. Việc canh phòng Hoàng-thành sẽ do quan phòng thủ Đàm Dĩ-Mông với thị vệ, cấm quân. Người với toàn thể kị binh rút khỏi Thăng-long tức khắc. Lui!
Tăng Khoa kinh ngạc sự thay đổi mau chóng trong người anh kết nghĩa, mà hầu theo phò bấy lâu nay. Hầu cúi đầu, bái lậy, rồi trao quyền chỉ huy thị vệ, cấm quân cho Đàm Dĩ-Mông, lẳng lặng cùng Như-Như rời khỏi Hoàng-thành.
Thấy vợ Đào Duy là Như-Yên mở to mắt nhìn mình, dường như muốn khiếu nại điều gì, Long-Xưởng quát :
– Người chỉ là một mụ trông coi việc làm vườn, nấu bếp ở Đông-cung, tại sao người lại đem đội thị-vệ Đông-cung vào đây làm gì ? Có rời khỏi Hoàng-thành ngay không ?
Từ lâu rồi, Đào Duy vẫn cai quản đội nhạc của triều đình, vì vậy ông luôn luôn có mặt trong tất cả các buổi thiết triều. Còn vợ là Như-Yên thì giữ chức tổng-quản Đông-cung, đúng ra bà không có mặt tại điện Càn-nguyên. Nhưng lúc Long-Xưởng về Thăng-Long, thì cổng thành bị Mạc Hiển-Tích sai thị vệ, cấm quân phong tỏa, mà quân của Thủ-Huy, Tăng Khoa chưa kịp về. Vì vậy bà phải đem đội thị vệ Đông-cung, hơn trăm người do chính ông bà huấn luyện, làm lực lượng hộ vệ Long-Xưởng. Ban nãy, đội nghi trượng ủng Long-Xưởng vào thành, do chính bà điều động. Bây giờ Long-Xưởng trở mặt xua đuổi bà. Bà cười nhạt, dẫn đội võ sĩ Đông-cung rời điện Càn-nguyên.
Các phản thần lại xúm nhau tâng bốc Long-Xưởng, trong khi Bùi Kinh-An cầm tờ biểu tôn Long-Xưởng lên làm vua đến trước mặt các quan để họ ký vào.
Hoàng-hậu nói nhỏ vào tai Long-Xưởng :
– Bây giờ con là Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế! Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Lý Kính-Tu tuy có chống con, nhưng họ chỉ là con chó của tiên đế. Tiên đế truyền sao, họ làm vậy. Con hãy tha cho họ, họ sẽ biến thành con chó trung thành của con. Cái họa của họ với xã tắc chỉ như bệnh ngoài da. Còn cái họa trong tâm, trong can chính là bọn võ lâm. Mẹ thấy bọn võ lâm, bọn võ quan cầm quân mới đáng sợ. Như con thấy: Đám Đông-a là đầu sỏ võ lâm, người nắm trọng binh trong tay là Trần Thủ-Huy. Từ trước đến giờ, chúng vô lễ, dồn ép con đã nhiều. Chính miệng Thủ-Huy nói : Vua Thuấn nhờ làm phò mã của vua Nghiêu mà được truyền ngôi. Đức Thái-tổ nhà ta nhờ làm phò mã của vua Lê Đại-Hành rồi cầm quân mà lấy được ngôi vua. Ngụ ý của y muốn nói : Nay y cũng là phò mã, cũng nắm binh quyền trong tay, thế còn mạnh hơn đức Thái-tổ. Y cũng có ý nhòm ngó ngôi bảo tộ.
Long-Xưởng nghĩ thầm : Hà, thì ra mẫu hậu cũng nghĩ như ta vậy. Tuy thế vương giả bộ lắc đầu :
– Mẫu hậu hơi quá lời ! Làm gì có chuyện đó ! Thủ-Huy trứơc sau vẫn trung thành với con.
– Con có nhớ lời Tuyên-phi Thụy-Hương nói lúc sắp băng không ? Phi nhắc lại lời Thủ-Huy đã bàn với phi rằng : Khi binh quyền vào tay, y sẽ lên ngôi vua, phong cho phi làm hoàng hậu đó sao ? Con có nhớ lời anh của Thủ-Huy là Trần Lý trên hồ Tây không ? Trần Lý đã nói rằng sẽ phế bỏ bản triều, rồi giòng họ nhà y lên ngôi vua. Không phải vô tình mà anh em Huy cùng nói giống nhau.
Hôm ấy, ở trên con thuyền, Long-Xưởng nghe Trần Lý nói lời gay gắt, thì trong lòng đã nghi Thủ-Huy. Rồi khi nghe Thụy-Hương nói Thủ-Huy mưu cướp ngôi phong cho nàng làm Hoàng hậu, Long-Xưởng tuy không tin, nhưng bắt đầu dè dặt, nghĩ rằng Thủ-Huy có thể cướp ngôi vua. Bây giờ nghe mẹ nói, vương mới giật mình :
– Ừ nhỉ. Bây giờ con phải làm gì ?
– Nhân việc y lạm quyền giết đại thần. Con là Vô-thượng, Chí-tôn, Đại thánh, con truyền cách chức y, rồi đuổi về dân dã thì không ai nói gì được nữa. Đợi mọi việc xong xuôi, đem tội trạng của y ra đình nghị, nhân đó giết cả nhà y cho tuyệt hậu hoạn.
Long-Xưởng nhìn ra góc điện, thấy Phùng Tá-Chu, Kim-Ngân, đang đứng cạnh Thủ-Huy, Đoan-Nghi. Tất cả cùng nhăn mặt, lắc đầu tỏ vẻ khinh rẻ bọn nịnh quan. Vương chợt nhớ lại hôm họp ở dưới con thuyền, Kim-Ngân cùng Trần Lý ép mình phải giết bọn gian tế Tống, thái độ cực kỳ vô lễ. Rồi từ sau vụ ấy, mối giao hảo của phái Đông-a với Đông-cung gián đoạn. Bây giờ Long-Xưởng là Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế, uy quyền bao trùm trời Nam, trong khoảnh khắc Long-Xưởng quên mất tất cả những gì phái Đông-a, Thủ-Huy phò tá mình.
Hoàng-hậu biết lời nói của mình đã có kết quả, bà tiếp :
– Con lo nghĩ về thế lực phái Đông-a ư ? Mai con lên ngôi vua rồi, chỉ cần ban tờ chỉ cho một viên đô thống đem quân về làm cỏ trang Thiên-trường, bắt hết mấy tên võ phu vai u thịt bắp phái Đông-a giết sạch là xong.
Nghe lời tâu lọt tai, Long-Xưởng hướng về phía Tá-Chu, Kim-Ngân, rồi cau mặt hỏi lớn :
– Cặp trai gái quê kia là ai ? Đây là điện Càn-nguyên, chốn cực kỳ uy nghiêm, các người đột nhập vào đây định làm gì ? Thị vệ đâu, hãy bắt chúng đem giam vào ngục ngay !
Kim-Ngân cười nhạt nói với Thủ-Huy, Đoan-Nghi :
– Anh chị đã sáng mắt ra chưa ? Ngay cái hôm ở trên thuyền, anh Lý đã nhìn rõ cái mặt thực của Long-Xưởng rồi. Hôm nay anh chị mới thấy !
Kim-Ngân hừ một tiếng, rồi vận nội lực nói lớn :
– Ăn cháo đá bát ! Gã Long-Xưởng kia ! Suốt mười mấy năm nay, không có nhà ta, thì liệu người có còn sống đến ngày nay không ? Ngôi vua có còn của họ Lý không ? Hỡi ơi ! Nhà dột từ nóc dột xuống ! Bà thì mê tên Đỗ Anh-Vũ giết tôn thất. Anh-Vũ chết, thị lại mê tên chệt Lưu Kỳ, muốn bưng ngai vàng dâng cho y ! Bà nội như thế, tất có ông bố cướp gái của con, rồi ông bố mê gái đẹp, muốn giết các con để cho thị vui lòng, mà… hỡi ơi, thị có tốt gì cho cam ! Thị là con đàn bà lang chạ, mang con hoang vào Hoàng-thành. Bà như thế, bố như thế, thì dĩ nhiên nảy ra đứa con tham dâm, cưỡng dâm sủng phi của cha cũng là sự thường thôi ! Chúng ta vừa ra tay cứu người, mà người lại trở mặt ư ?
Kim-Ngân, Tá-Chu cùng hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt, khiến mọi ngưới ù tai, chóng mặt. Rồi binh binh, hai người phóng chưởng đánh vỡ hai cánh cửa. Thấp thoáng một cái, hai người đã rời khỏi điện.
Trần Trung-Tá là Ngự-sử đại phu, từ nãy đến giờ y đứng quan sát hành động của Long-Xưởng, y bắt ngay lấy thời cơ. Y tâu :
– Tâu Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế ! Người con gái tên là Trần Kim-Ngân, em ruột của phò-mã Thái-úy Trần Thủ-Huy ! Còn tên thôn phu thì là chồng thị tên Phùng Tá-Chu. Cả hai người ỷ thế anh, nên ra vào Hoàng-thành không còn coi phép nước ra gì. Những lời đại bất kính của y thị hoàn toàn lỗi ở Trần phò mã. Thần xin Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế bệ hạ trước hãy cách chức Thái-úy của Trần Thủ-Huy, rồi trao cho đình thần nghị tội, xét xử chính pháp.
Bọn Phí Công-Tín, Ngô Nghĩa-Hòa, Ngô Lý-Tín, Đàm Dĩ-Mông, mỗi người thêm một câu. Kẻ thì đòi xử lăng trì, người thì đòi tru di tam tộc Thủ-Huy. Chúng tìm ra Thủ-Huy phạm đến 180 khoản trong bộ Hình-thư.

Đoan-Nghi, Thủ-Huy đứng ở cửa điện. Hai người tự tin vào thâm tình ruột thịt, tự tin vào lòng dạ trong sáng, hết tâm hết trí phò tá anh mình, tự tin vào binh quyền trong tay ; nên mỉm cười nghĩ thầm : Sau khi đại ca lên ngôi vua, thì với tội trạng trong quá khứ, mình muốn vo tròn, bóp méo bọn chúng thế nào mà chẳng được ? Mình cứ để cho chúng nịnh, để Long-Xưởng thấy rõ bản mặt chúng.
Tuy nghe bọn văn quan nịnh, Long-Xưởng cũng nhận thấy mình còn sống tới nay, ngôi vua sở dĩ có do một tay Thủ-Huy phò tá. Nhưng nay mình đã thành Vô-thượng, Chí-tôn, Đại-thánh hoàng đế rồi, thì cũng nên tước bớt uy quyền Thủ-Huy đi, để phòng hậu hoạn. Hơn nữa, hiện tước của Thủ-Huy tới quốc-công, sau vụ dẹp loạn này, thì công của y quá lớn, ắt phải phong vương, mà trong khi tuổi y còn quá trẻ, tương lai khó tránh được cái vạ cướp ngôi. Nghĩ vậy Long-Xưởng làm như người nhân nghĩa, lên tiếng :
– Tuy Trần phò mã phạm nhiều tội, nhưng trước đây đã lập biết bao công lao. Vậy trước hãy thu binh quyền, cách chức Thái-úy, cách chức Càn-nguyên điện đại học sĩ, thu ấn Trung-nghĩa thượng-tướng quân. Tước Côi-sơn quốc công vẫn giữ nguyên.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi nghe Long-Xưởng tuyên chỉ, mà tưởng rằng tai mình ù ! Sự kiện đang diễn ra trong giấc mơ.
Đoan-Nghi thấy anh trở mặt mau quá thì kinh hãi nói :
– Anh ! Anh nghe lời cái bọn từng chống đối anh, mà chặt chân tay mình ư ? Được, để em nói chuyện với bọn ăn hại này.
– Hoàng muội không nên nhiều lời ở đây. Nếu hoàng muội nghiêng theo gia đình nhà chồng thì trẫm sẽ xóa tên hoàng muội trong sổ Ngọc-diệp, rồi đuổi về dân dã. Hoàng muội có nghe con nhà quê Kim-Ngân nhục mạ Thái-hậu, nhục mạ Phụ-Hoàng với nhục mạ trẫm không ? Kể từ lúc này Thủ-Huy không còn là Thái-úy nữa. Thái-sư Tô Hiến-Thành hãy chiếu di chỉ của phụ hoàng, lập tức lĩnh chức Thái-úy thay Thủ-Huy.
Thủ-Huy cười nhạt, hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt. Tất cả mọi người đều bịt tai ôm đầu, choáng váng. Công chỉ tay vào mặt Long-Xưởng than :
– Trời xanh thấu cho, tôi là Trần Thủ-Huy, từ thủa niên thiếu, gặp người này. Người này bị Cảm-Thành thái hậu sai Nghi-tàm song ma, đô đốc Lý Thần đuổi bắt, toan sát hại. Không quản nguy hiểm, tôi ra tay cứu người, rồi kết huynh đệ. Tôi nào biết người là Thái-tử ? Tiếp đến người bị bọn mật sứ Lưu Kỳ, Ngô Giới bắt giam trên thuyền. Một lần nữa, tôi nhờ ông nội, bố mẹ, cùng các vị sư thúc, sư tỷ trong môn phái bắt bọn Tống cứu người.
Long-Xưởng cũng như các quan, vốn tỵ hiềm võ công Thủ-Huy. Không ai dám lên tiếng ngắt lời công. Họ biết rằng công đang uất ức cùng tột, vì giữa lúc công dùng hết tâm trí đem ngôi vua về cho Long-Xưởng, mà Long-Xưởng sớm trở mặt, các quan trung thành với Long-Xưởng bao năm qua đều chán ngán. Họ im lặng nghe Thủ-Huy nói ra những uất ức.
– Bấy giờ Cảm-Thánh hoàng thái hậu mưu dâng ngôi vua cho tình nhân là Lưu Kỳ. Ông nội tôi thấy xã tắc nguy như trứng chồng, người đứng ra triệu tập các đại môn phái, giải tán triều đình gà mái gáy, dẹp gian đảng, thu quyền về cho vương triều. Cũng từ đấy tôi cùng Thái-tử tái lập Thiên-tử binh, Kỵ-binh, Ngưu-binh, cải cách cai trị ; trong làm cho nước mạnh, dân giầu ; ngoài khiến Tống nể sợ, phải công nhận quốc danh, niên hiệu. Cũng gia đình tôi, giúp Thái-tử dẹp được âm mưu chiếm nước của tế tác Tống trong hậu cung. Vừa mới hai hôm nay, bọn nịnh thần phò một đứa trẻ lên ngôi. Tôi nắm binh quyền trong tay, nên phải cùng chư vương, công chúa đem quân về dẹp loạn, đoạt lại ngôi vua cho người. Bây giờ, việc vừa xong, người kiếm cớ xua đuổi tôi. Xin trời xanh xét xử cho.
Nói rồi công cầm thanh kiếm lệnh cắm giữa điện Càn-nguyên, tay dắt Đoan-Nghi thủng thỉnh tới trước tử quan vua Anh-tông lạy đủ tám lạy, rồi rời khỏi điện Càn-nguyên, không nhìn bất cứ một ai.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi lên ngựa rời Hoàng-thành. Đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn cũng đi theo hộ tống. Hai người vừa ra khỏi cổng thành thì đoàn võ sĩ ùn lại, rồi có tiếng cãi nhau léo nhéo. Đoan-Nghi bảo Vương Thú-Thúy :
– Tỷ tỷ lên xem có gì lạ không ?
Thúy-Thúy vọt ngựa lên, lát sau, nàng trở lại :
– Khải điện hạ, có người ăn mày ngồi giữa đường. Đội võ sĩ Long-biên đuổi y đi ; y không đi, còn cãi lý.
Biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, Thủ-Huy ra lệnh :
– Không được đụng đến người ta.
Rồi công với Đoan-Nghi vọt ngựa lên. Người ăn mày đang phân vua :
– Mạnh-tử nói : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là : Dân quý nhất, thứ đến xã tắc, vua đếch có giá gì. Ta là dân, tức là thành phần quý nhất, phải được ưu tiên đi giữa đường. Các chú là quân lính của nhà vua, thấp hơn cái ông vua , tức người không có thớ gì, mà các chú bắt tôi tránh đường cho các chú đi, thì đạo lý ở chỗ nào ?
Hai võ sĩ xúm vào ôm người ăn mày, định bế bổng lên. Nhưng y nặng quá. Hai người hò lên một tiếng, đẩy y đi, nhưng y vẫn ngồi như tảng đá.
Đoan-Nghi cất tiếng :
– Lui lại !
Hai võ sĩ đứng tránh ra hai bên đường. Đoan-Nghi chắp tay hướng người ăn mày :
– Chúng tôi có việc khẩn. Xin người tránh ra cho chúng tôi đi.
Người ăn mày dường như điếc, ông ta vẫn ngồi bất động miệng hát :
Thương- lang chi thủy thanh hề,
Khả dĩ trạc ngã anh.
Thương-lang chi thủy trọc hề,
Khả dĩ trạc ngã túc.
Rồi ông ta lại tự dịch nghĩa, hát bằng tiếng Việt :
Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước chả phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Ông ta nắm lấy cương ngựa Thủ-Huy :
– Thái-úy có biết rằng mình sắp bị cái họa sát thân không ?
– ? ? ?
– Từ hơn mười năm nay, Thái-tử vơí Thái-úy như tay phải vơí tay trái, ăn cùng mâm, ngủ cùng dường. Lại cũng có phen cùng hưởng cái đó của người đẹp Thụy-Hương. Biết bao phen Thái-tử tưởng như mất ngôi, mất mạng; đều do Thái-úy cứu. Có thể nói, Thái-úy là ngôi sao thủ mệnh của Thái-tử. Thế mà nay Thái-tử phải vội vã cách chức Thái-úy là tại sao, Thái-úy có biết không ?
– Người muốn lấy lòng bọn cố mệnh đại thần, để được lên ngôi vua.
– Không phải đâu ! Ngôi vua sở dĩ có là do Thái-úy đem quân về !
– Thế thì ?
– Vì Thái-tử nghi ngờ Thái-úy.
– Tôi một lòng phò tá người, lại là em rể người, không lẽ người không hiểu lòng dạ tôi ?
– Trời ơi ! Thái-úy quên mất chuyện xưa rồi ư ? Kìa Phạm Lãi, Văn Chủng với Việt-vương Câu-Tiễn bao năm cùng nhau nằm gai nếm mật. Thế mà khi phục được quốc, trả được thù nhà, thì Văn Chủng bị giết, Phạm Lãi phải ẩn thân, cùng Tây-Thi tiêu dao ngũ hồ. Vì sao ? Vì công lao họ quá lớn, dân chúng chỉ biết đến họ, nhắc đến họ, mà không biết đến Câu-Tiễn, nhắc đến Câu-Tiễn !
– ! ! !
– Cao-tổ nhà Hán chỉ là một gã đình trưởng. So tài, so đức đều thua Hạng-vương xa. Nhờ Tam-kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà, mà Cao-tổ thắng Hạng-vương, lập triều Hán. Dân chúng đều nhắc nhở đến Tam-kiệt, khâm phục Tam-kiệt, mà coi Cao-tổ như gã thất phu gặp thời. Vì vậy Cao-tổ phải ra tay. Bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên viết « Phi Tam-kiệt tất vô Hán thất. Cao-đế thành nghiệp, nhi Trương Lương dĩ khứ, Tiêu Hà dĩ ngục, Hàn Tín dĩ trảm. Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín vi công ». Nghĩa là « Không có Tam-kiệt trợ giúp thì không có triều Hán. Khi Cao-tổ thành nghiệp, thì Trương Lương phải bỏ đi tu, Tiêu Hà bị hạ ngục. Hàn Tín bị giết. Hán được thiên hạ, đều do công của Tín ».
– ? ! ? ! ?
– Nay tài của Thái-tử thua xa Cao đế, đức lại càng không bằng Câu Tiễn. Trong khi tài của Thái-úy bao gồm cả Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Công lao thì từ khi lập triều Lý đến giờ, chưa một văn quan, võ tướng nào sánh bằng. Uy thì tướng sĩ chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu kị-binh Phù-Đổng, hiệu ngưu-binh Hoa-lư, bốn Đô- đốc thủy quân đều do Thái-úy huấn luyện. Họ tuyệt đối trung thành với Thái-úy. Rồi, khi Tuyên-phi Thụy-Hương hoăng có nói rằng Thái-úy mưu chiếm ngôi vua, phong phi làm Hoàng-hậu. Từ ngày ấy đến giờ Thái-tử đã nghi ngờ Thái-úy, song người để bụng không nói ra.
Người ăn mày ngửa mặt nhìn trời, rồi tiếp :
– Từ xưa đến giờ, khi uy tín quyền hành bầy tôi áp chúa thì chỉ có hai con đường. Một là bầy tôi cướp ngôi của chúa. Hai là chúa phải giết bầy tôi.
– Tôi không bao giờ nghĩ đến làm vua, thì sao có thể có việc cướp ngôi ?
– Dĩ nhiên lòng dạ Thái-úy là như vậy. Nhưng Thái-tử vẫn nghi ngờ Thái-úy. Khi vua nghi, thì bầy tôi phải chết. Bây giờ Thái-úy chỉ có hai con đường đi.
– Xin tiên sinh cứ dạy.
– Hiện các hiệu binh Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ vẫn chưa rời khỏi các cửa thành. Hiệu binh Phù-Đổng còn đóng tại Bắc-ngạn. Hạm đội Âu-Cơ vẫn phong tỏa sông ngòi quanh kinh thành. Thái-úy ban lệnh cho họ ào ạt chiếm Kinh-thành, Hoàng-thành giết sạch bọn nịnh quan, tôn Long-Xưởng lên làm vua hư vị. Còn Thái-úy thì nắm thực quyền như Ngụy-võ đế Tào Tháo đã làm với Hán Hiến-Đế. Thế thì tuy không ngồi trên ngai vàng, mà Thái-úy làm vua.
– Ông tôi, bố tôi, mẹ tôi cho tôi ra làm quan là để giúp cái chí của Long-Xưởng, sao dựng lại quốc uy, đòi lại cố thổ. Nay quốc uy đã có, cố thổ thì chưa ; mà Long-Xưởng nghi ngờ, xua đuổi tôi, thì tôi còn ngồi lại làm gì ? Tôi không muốn lấn quyền nghĩa huynh. Con đường này tiên sinh cho tôi đi, e nhiều gai quá. Xin tiên sinh chỉ cho con đường khác.
– Thái-úy cùng công chúa về phủ, chờ ngày mai Thái-tử lên ngôi, rồi sai võ sĩ đến bắt đem ra chợ chém đầu với 180 tội trạng khác nhau.
Thủ-Huy chắp tay vái người ăn mày :
– Đa tạ tiên sinh ! Thủ-Huy này đành chịu chết, chứ không thể chọn con đường thứ nhất.
Người ăn mày than :

– Thái-úy đã chọn con đường đó, thì hỡi ôi ! Tôi e cái thân của Thái-úy khó bảo toàn đã đành, mà còn gia thuộc, môn phái e cũng bị tai kiếp.
Thấp thoáng một cái, người ăn mày đã tung mình biến vào khu nhà dân cư bên đường.
Đoan-Nghi kinh hãi :
– Không ngờ khinh công ông ta lại cao như vậy. Anh có biết ông là ai không ?
– Ông ta chính là người mặc áo đen đã cứu anh Long-Xưởng, và giết Vương Nhất, Cao Nhị ban nãy. Ừ ! Không biết ông ta là ai ? Anh chưa từng nghe trong phái Tản-viên có người võ công cao đến như vậy.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi về phủ phò mã, thì đã thấy Kim-Ngân, Tá-Chu, Trung Từ, Bảo-Bảo, đang ngồi chờ. Kim-Ngân nhìn anh bằng con mắt đầy thương cảm :
– Trước khi anh khởi binh, chị Phương-Lan đã dặn anh rằng khi về tới Thăng-long, phải xua quân áo ạt chiếm Kinh-thành, Hoàng-thành, trong lúc hỗn loạn, giết sạch bọn nịnh quan. Nhưng anh không nghe, nên mới ra nông nỗi này.
Đoan-Nghi cầm lấy tay Kim-Ngân :
– Đầu mối là anh Long-Xưởng nghi ngờ chúng ta, chứ không phải là do bọn nịnh quan. Ví dù khi quân tràn vào thành, giết sạch bọn nịnh quan, thì anh Long-Xưởng càng phải xuống tay mau hơn, mạnh hơn. Bây giờ chúng ta chỉ còn có cách theo lời khuyên của anh Lý, là về Thiên-trường vui với cỏ cây mà thôi.
– Không thể có chuyện đó được.
Trung Từ khẳng định :
– Long-Xưởng vì sợ, vì nghi anh Thủ-Huy mà cách chức, chỉ nội ngày mai, khi lên ngôi vua rồi, thì Long-Xưởng sẽ ban chỉ giết anh Thủ-Huy chứ có đâu để cho ngao du mây nước !
Thủ-Huy hỏi :
– Chú có cách nào không ?
– Dễ quá. Đêm nay anh nhập Đông-cung, nhả vào người Long-Xưởng ít nọc độc Huyền-âm, bấy giờ anh bảo y ăn cứt y cũng phải ăn !
– Anh không muốn làm cái việc đó.
– Vậy thì ngay bây giờ anh họp tất cả thân binh, bộc phụ, mã phu, gia nhân, giảng giải cho họ biết những gì đã xẩy ra, chu cấp tiền bạc cho họ về quê làm ăn. Một số khác thì đem về Thiên-trường. Còn anh với chị thì ngồi chờ Long-Xưởng sai võ sĩ tới bắt đem đi chặt đầu. Theo ước tính của em, dù sao Long-Xưởng cũng như bọn nịnh thần đều biết cái tính bất chấp luật lệ của anh. Nếu anh cứ ngồi đây, thì họ phải khử anh. Còn như anh bỏ đi, họ sẽ nhắm mắt, bịt tai. Vậy em nghĩ, anh chị, hai người hai ngựa ngao du thắng cảnh. Long-Xưởng có ban chỉ truy nã anh, e không một thị vệ, võ tướng nào dám tuân chỉ.
Thủ-Huy nắm tay Đoan-Nghi :
– Chúng mình thành vợ chồng đã mấy năm, nhưng ngày đêm cần lao chính sự, chưa bao giờ được sống thực sự cho nhau. Bây giờ chúng mình còn quá trẻ, chúng mình phải sống cho chúng mình. Đời dùng ta thì ta giúp đời. Đời không dùng ta, thì ta đội cỏ bồng phơi phới mà đi. Từ nay em không còn là công chúa, anh cũng chẳng còn là Thái-úy, là phò mã nữa. Chúng ta hãy theo gương Kim-Ngân, Tá-Chu ; Trung-Từ, Bảo-Bảo. Ngay bây giờ chúng ta về Thiên-trường.
Đoan-Nghi bảo Vương Thúy-Thúy :
– Vương tỷ tỷ, phiền Vương tỷ tỷ cho họp hai đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn, cùng gia tướng, gia nhân lại, để chúng tôi nói chuyện với họ.
Thủ-Huy thấy từ trước đến giờ, lúc nào Đoan-Nghi cũng gọi Thúy-Thúy, Bảo-Bảo là phu nhân, tức tước hiệu triều đình ban cho. Đây là lần đầu tiên nàng gọi Thúy-Thúy bằng danh tự tỷ-tỷ, thì có nghĩa nàng không còn coi mình là công chúa nữa.
Hai khắc sau, Thúy-Thúy trở lại cung tay :
– Chủ nhân ! Tất cả đang chờ đợi chủ nhân.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi đứng dậy nói với Kim-Ngân, Tá-Chu ; Trung-Từ, Bảo-Bảo :
– Các cô các chú cùng đi với chúng tôi cho vui
Tất cả mọi người đều tụ họp tại đại sảnh đường. Họ cùng đứng dậy chào. Thủ-Huy ra lệnh cho họ an tọa.
Đoan-Nghi đưa mắt nhìn cử tọa một lượt rồi cất tiếng trầm trầm :
– Tôi họp tất cả các vị tại đây để báo cho các vị một tin vừa buồn vừa vui. Buồn vì kể từ hôm nay, phò mã bị cách hết chức, tuy nhiên tước thì vẫn giữ nguyên. Người không còn là Thái-úy phụ-quốc, cũng không còn là Càn-nguyên điện đại học sĩ, Trung-nghĩa thượng-tướng quân nữa. Vui vì, vợ chồng chúng tôi quyết định cáo quan về sống với điền dã, thảnh thơi ngoài vòng cương tỏa.
Cả sảnh đường ồn lên, rồi lại im bặt. Thủ-Huy tiếp lời vợ :
– Các vị đây chia làm ba thành phần. Thành phần phục vụ phủ Phụ-quốc Thái-úy, Càn-nguyên điện, Trung-nghĩa thượng tướng quân thì đều là quan chức của triều đình. Các vị sẽ được trả về triều đình. Thành phần thứ nhì là con em đệ tử phái Đông-a hầu hết ở trong hai đoàn Long-biên, Côi-sơn, gốc người Thiên-trường thì lại trở về Thiên-trường. Thành phần thứ ba là những người mà mẹ tôi mua về phục thị cho chúng tôi thì chúng tôi cấp giấy hoàn hương, cấp tiền bạc, trả lại gia đình. Tuy nhiên ai không có gia đình, nếu muốn thì cũng được về Thiên-trường sống.
Lập tức sảnh đường ồn lên những tiếng bàn tán. Thủ-Huy thuật lại chi tiết tất cả những gì mà công đã gặp, đã làm từ khi gặp Long-Xưởng đang trên đường chạy trốn, bị Nghi-tàm song ma đuổi bắt đem giết… cho đến nay. Công không dấu diếm một chi tiết nào cả. Trong hơn một giờ (120 phút ngày nay), sảnh đường đông đến hơn nghìn người, mà không một tiếng động, không một lời thì thầm.
Đoan-Nghi đọc được nét phẫn uất hiện trên mặt các gia tướng, cùng đoàn võ sĩ Long-biên, Côi-sơn. Nàng tiếp lời chồng :
– Vợ chồng chúng tôi tiếng là phò mã công chúa, nhưng chúng tôi không giầu có súc tích như các phò mã, công chúa khác. Chúng tôi không hề thu một đồng tiền, một đấu lúa của dân chúng trong ấp phong. Phụ hoàng phong cho tôi một nghìn mẫu ruộng nhất đẳng kim điền. Tôi cho nông dân cấy rẽ. Tôi chỉ thu tô bằng nửa của những chủ điền khác. Tô thu được, tôi dùng để cấp cho dân nghèo không thước đất cắm dùi làm sinh kế để họ phá hoang, làm ruộng.
Công-chúa nhìn chồng :
– Chồng tôi được phong Côi-sơn quốc công, thực lộc toàn vùng Côi-sơn, có đến hai vạn hộ, mười lăm xã, thuộc vùng bờ xôi giếng mật. Bao nhiêu tiền thuế thu được, đều dùng vào việc mượn thầy dậy học, cất y viện, mua thuốc cứu dân, cùng phủ tuất kẻ nghèo, người khó. Chúng tôi thắt lưng buộc bụng sống bằng lúa, cùng tiền lương của Phụ-quốc thái-úy. Hôm nay chia tay, chúng tôi quyết định : Trong dinh có bất cứ vật gì, chúng tôi phân phát cho các vị hết. Chúng tôi chỉ giữ lại ba con ngựa. Hai con cho tôi với phò mã, một con cho Vương Thúy-Thúy.
Thủ-Huy chỉ ra vườn :
– Dinh thự này, không phải của triều đình ban cho. Nó vốn là của tiền nhân tôi, truyền tử lưu tôn đã bẩy đời. Song thân tôi sai sửa chữa lại cho chúng tôi ở, tôi vẫn giữ nguyên, nay trao cho chú Ty cùng vợ con ở, để trông coi, làm vườn. Khi chúng ta ngồi đây, thì tấm bảng đề chữ « Phụ-quốc Thái-úy, Trung-nghĩa thượng tướng quân phủ đệ » đã được hạ xuống và thay vào đó bằng tấm bảng « Đông-a vãng lai xá ». Nghĩa là khi tôi rời Thiên-trường về đây, tay trắng, thì lại ra đi với tay trắng.
Hội trường náo loạn hẳn lên. Không có gia nhân nào trở về nguyên quán cả, vì hầu hết họ là những người khốn nạn bị hương đảng ức hiếp mà phải tha hương cầu thực, bán mình. Ông bà Tự-Hấp bỏ tiền ra mua, rồi dạy lễ nghi, gửi cho Thủ-Huy. Họ tha thiết xin được về Thiên-trường sống.
Thấy Phan Lân trưởng đoàn võ sĩ Côi-sơn, Trần Tử-Kim trưởng đoàn võ sĩ Long-biên ngồi nhìn trời cười khẩy ; Thủ-Huy hỏi :
– Hai sư đệ cười ta chăng ?
Trần Tử-Kim càng cười lớn :
– Dĩ nhiên ! Đệ không cười sư huynh thì cười ai nhỉ ?
– Coi chừng ăn đòn ! Hai sư đệ cười gì nào ?
– Cười vì sư huynh mau quên !
– Ta quên gì đâu ?
– Hôm trước sư bá Cao Tử-Đức xem số Tử-vi cho sư huynh, có nói rằng năm nay đại hạn của sư huynh ngộ Khoa, Lộc, Tuần. Khi hạn gặp Tuần thì làm quan bị cách. Song cái bộ ba « Khoa, Lộc, Tuần phùng, hân nhiên nhập tướng ». Nghĩa là khi gặp hạn Hóa-khoa, Hóa-lộc, Tuần-không đóng chung, thì đang từ tướng võ, trở thành tướng văn. Cho nên bây giờ sư huynh tuy giải tán phủ Thái-úy, Trung-nghĩa, mà rồi đâu lại vào đó. Bọn đệ xin ở lại một hai ngày, rồi mới lên đường. Chứ lên đường hôm nay, thì mai lại được lệnh trở về, chán chết.
– Ừ nhỉ ! Nhưng chờ xem !
Tuy nghe Tử-Kim nói vậy, nhưng Thủ-Huy vẫn trao cho Vương Thúy-Thúy với ông Ty nhiệm vụ phân chia tài sản. Trong dinh chỉ giữ lại những gì có trước khi Thủ-Huy dọn về ở.
Khi trời chập choạng tối, thì cuộc phân chia tài vật đã xong. Đám gia nhân xuống con thuyền lớn, do Tá-Chu, Kim-Ngân chỉ huy, nhổ neo lên đường trước. Tiếp theo đến bốn con thuyền nữa chở đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn, do Trung-Từ, Bảo-Bảo, Thúy-Thúy, Tử-Kim, Phan Lân chỉ huy ngày mai sẽ lên đường.
Thủ-Huy bàn với Đoan-Nghi :
– Hồi chúng ta đi sứ Kim, em cứ ước ao, sau này có dịp sẽ cùng anh du lịch vùng Thiên-đài, Tương-giang, hồ Động-đình, để được thấy vùng đất linh, mà hồi xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu đã cùng nhau hưởng thanh phúc. Bây giờ dịp đó tới rồi. Ta đi chăng ?
– Dĩ nhiên ta đi. Nhưng chúng ta về Cổ-pháp bái lậy lăng mộ tiên đế rồi về Thiên-trường thăm ông nội, thăm bố mẹ, anh em cho phải đạo đã.
Đoan-Nghi, Thủ-Huy bỏ không mặc y phục công chúa, đại thần nữa. Hai người trang phục đại tang. Cả hai quần áo vải thô, xổ gấu, trái sống, lưng đeo kiếm, từ biệt người quản dinh là ông Ty, rồi hướng về phía Bắc-ngạn.
Ghi chú của thuật giả:
Tang phục thời Lý, Trần, Lê cho tới thời Nguyễn được ấn định rất rõ ràng, chi tiết trong luật. Tôi chỉ có tài liệu về tang chế triều Trần do gia phả các chi để lại, triều Lê do bộ luật Hồng-Đức, triều Nguyễn do bộ luật Gia-long ; mà không có tài liệu về triều Lý. Khảo gia phả bốn chi của họ Lý tại Đại-hàn, tôi chỉ biết một chi tiết : Hoàng-tử, công chúa, phò mã, đại thần để tang vua ba năm, quần áo sô gai, trái sống, sổ gấu.
Để độc giả giả trẻ, cũng như độc giả ở hải ngoại muốn biết rõ về tang chế Việt-Nam từ 1802 đến nay (1997) xin đọc phụ bản Tang- chế Việt-Nam ở cuối quyển này. Tôi nói hiện nay, vì từ khi đức Thế-tổ Cao-hoàng thống nhất đất nước (1802), đến niên hiệu Gia-Long thứ 10 (1811) sai đại thần Nguyễn Văn-Thành làm tổng tài soạn luật. Niên hiệu Gia-Long thứ 14 (1815) thì ban hành . Bộ luật này sau được gọi là luật Gia-long. Kể từ đấy cho đến khi hoàng đế Bảo-Đại thoái vị (1945) tang chế toàn quốc vẫn theo bộ luật này. Trong thời gian 1945 cho đến nay, không chính phủ nào ban luật ấn định tang chế cả, nên dân chúng vẫn còn để tang theo luật Gia-long. Tuy nhiên vẫn có những người không biết lễ nghi, tự chế ra lệ để tang, không ra Tây, chẳng ra Mỹ, khác với Canada, cũng chẳng giống Việt, rồi bảo là canh tân, để tránh bị đàm tiếu là vô học, bất hiếu.
Từ lâu lắm, hồi bà nội qua đời, bây giờ Thủ-Huy mới lại mặc tang phục. Một cảm giác vừa buồn, vừa chua chát làm công nghĩ thầm :
– Phụ-hoàng Anh-tông lên ngôi lúc ba tuổi, bị bà, bị mẹ áp chế riết rồi không còn chủ trương gì. Tuy nhiên từ khi ta rời Thiên-trường về triều, người đối với ta thực một lòng từ ái. Lúc nào người cũng dành cho ta những lời ôn nhu, ngọt ngào, luôn ban thưởng, không một đại thần, hoàng tử nào được hưởng. Ta nhất tâm, nhất trí khuông phò người, người biết công ta, biết lòng ta hơn Long-Xưởng. Cho nên mỗi khi đình thần nghị về việc phong chức tước cho ta, người đều chọn những đề nghị đẹp nhất. Bất cứ ai dèm pha ta, người đều gạt đi. Người có chín công chúa, duy Đoan-Nghi xinh đẹp nhất, võ công cao nhất, văn tài xuất chúng, ngài gả cho ta. Bây giờ ta mang tang phục để tôn kính, để nhớ ơn người. Còn Long-Xưởng ? Than ôi !
Đứng trên con đò của dân chúng, Thủ-Huy phóng con mắt nhìn về cuối giòng sông nước đỏ ngầu như máu. Một đàn cò trắng đo cánh trên nền trời Thu trong xanh. Thủ-Huy nói sẽ vào tai vợ :
– Nhà Phật có thuyết Vô-thường thực là tuyệt. Mới sáng nay, ba anh Kiến-Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh cùng chúng mình đem quân độ giang, hùng tráng biết bao. Thế mà bây giờ ba anh ấy đã ra người Thiên-cổ. Còn anh, thì sáng còn là Phụ-quốc thái-úy, cầm binh quyền xã tắc. Em là một công chúa cầm quân. Bây giờ chúng ta chỉ còn hai bàn tay trắng.
Đoan-Nghi mỉm cười :
– Anh trắng tay hay không thì em không rõ. Nhưng tay em không trắng, vì em vẫn còn anh. Mất cái gì em cũng không sợ. Em chỉ sợ mất anh mà thôi. Em nghĩ anh với em đi như thế này, thì em lại thấy hạnh phúc hơn là lúc anh cầm quân, suốt ngày bận rộn.
– Bởi vậy dân gian Việt có câu : Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười . Bây giờ chúng ta buồn tênh, nhưng thực là nhàn nhã.
– Mai này ta về Thiên-trường, đi cầy với anh Lý, cỡi trâu, thổi tiêu ắt còn nhàn hơn. Lần đầu tiên Đại-Việt mình có cô công chúa cấy lúa, đánh kỳ, làm cỏ.
Đò cập bến. Đoan-Nghi hỏi :
– Chúng ta nghỉ tại đây, hay tiếp tục đi ?
– Ta đi một đoạn nữa, sẽ tới đền thờ cao tổ mẫu. Chúng ta vào đó, xin nghỉ qua đêm, rồi mai về Cổ-pháp.
Ngôi đền này thờ mang tên Lý triều đệ tam hoàng thái hậu linh từ. Đền xây để thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Hồi còn niên thiếu, Đoan-Nghi thường được phụ hoàng, mẫu hậu, mẫu thân dẫn đi hành hương vào dịp giỗ vua Thánh-Tông, hoặc giỗ Linh-Nhân hoàng thái hậu. Từ khi lấy chồng, nàng với Thủ-Huy cùng chung lo quốc sự, nên không có dịp hành hương. Bây giờ nghe Thủ-Huy nhắc, nàng mới nhớ lại.
– Ừ nhỉ. Từ đây đến đấy có 14 dặm, thì chỉ cần một khắc sức ngựa mà thôi. Để em mua một ít lễ vật, dâng ngài.
Bến Bắc-ngạn lúc nào các hàng quán cũng mở cửa tới khuya. Đoan-Nghi mua một ít hoa quả thời trân, một con gà trống luộc, mươi phẩm oản… gói lại đeo trên lưng, rồi cùng chồng ra roi cho ngựa lên đường.
Ghi chú của thuật giả:
Ngôi đền này, nay thuộc xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Không rõ kiến trúc hồi đó thế nào. Còn đền hiện nay, năm 1995, tôi tới hành hương thì cảnh trí như sau : Từ quốc lộ có lối đi vào khoảng 20 mét, thị gặp cái cổng tam quan. Cổng có hai tầng. Trên cao nhất của cổng có bốn chữ đại tự :

Phúc như Đông-hải.
Hai cột ở tầng trên có đôi câu đối :
Mẫu nghi đoan chính chiếu thiên cổ,
Thánh trạch linh quang ngưỡng vạn niên.
Nghĩa là :
Ngài là bậc mẫu nghi đoan chính. Cái đoan chính đó chiếu sáng từ nghìn xưa. Ân đức, linh thiêng, sáng ngời khiến dân chúng chiêm ngưỡng vạn năm.
Câu đối ở cột dưới :
Tam dương nhật chiếu bình an địa,
Vương phúc tinh huy cát khánh trường.
Nghĩa là :
Hai câu này để ca tụng đức của vua Thánh-tông :
Đức của đệ tam hoàng đế chiếu xuống như mặt trời, khiến cho đất nước được bình an. Phúc của nhà vua ngày càng mở rộng, ngày càng đẹp, càng dài.
Vượt qua lối đi ngắn nữa thì vào cái sân. Bên trái là đền thờ Linh-Nhân hoàng thái-hậu, bên phải là ngôi chùa cổ mang tên Linh-nhân tư phúc tự. Tương truyền chùa này là một trong 76 ngôi chùa mà sinh thời Linh-Nhân hoàng thái hậu sai cất để cúng dàng. Xin độc giả đừng lầm với chùa Tư-phúc ở trên đỉnh núi Kỳ-lân, làng Chi-ngại, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng.
Đền, chùa vẫn tồn tại mấy bia đá. Nhưng tiếc rằng hầu hết bia đều bị vạc mất khá nhiều chữ.
Trong đền, có hai cung. Cung ngoài có cái kiệu, cùng nghi trượng. Cung trong có chữ đại tự :
Thánh cung vạn tuế.
Tượng ngài mặc y phục thái-hậu mầu vàng. Hai bên là tượng sáu vị phụ tá đương thời của ngài là :
Công-chúa Thiên-Thành.
Công-chúa Động-Thiên.
(Cả hai vị đều là con của vua Lý Thánh-tông.)
Minh-đức Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa, nhũ danh Nguyễn-thị Trinh-Dung.
Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa, nhũ danh Lê Ngọc-Nam.
Nhu-mẫn, Đoan-duệ, Anh-văn công chúa, nhũ danh Trần Ngọc-Huệ.
Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa, nhũ danh Vũ Thanh-Thảo.
Hành trạng của Linh-Nhân hoàng thái hậu và 6 công chúa, xin xem Nam-quốc sơn-hà, 5 quyển, 2232 trang, của Yên-tử cư-sĩ do Đại-Nam, Hoa-kỳ xuất bản.
Linh-Nhân hoàng thái hậu (1) (Ỷ-Lan) sinh ra vua Nhân-tông, Sùng-hiền hầu (2).
Sùng-hiền hầu sinh ra vua Thần-tông (3).
Vua Thần-Tông sinh ra vua Anh-tông (4).
Vua Anh-tông sinh ra Long-Xưởng, Long-Trát, Đoan-Nghi (5).
Cách xưng hô ngày xưa, theo bình dân và theo Hán-Việt như sau :
Bản thân (5). Kỷ thân : Long-Xưởng, Đoan-Nghi v.v.
Đời cha mẹ (4). Phụ, mẫu : Vua Anh-tông, Minh-Đạo vương.
Đời ông bà(3). Tổ phụ mẫu: Vua Thần-tông.
Đời cụ (2). Tằng tổ phụ mẫu : Vua Nhân-tông, Sùng-hiền hầu.
Đời kị (1). Cao-tổ phụ mẫu : Vua Thánh-tông, Linh-Nhân hoàng thái hậu.
Hai người dừng ngựa trước đền. Cổng đền đã đóng. Thủ-Huy rung chuông. Một người tuổi khoảng trên dưới bốn mươi, thân hình gầy gò, mặt choắt chéo, ra hỏi bằng giọng cộc cằn :
– Muốn gì ?
– Chúng tôi ở xa đến. Xin ông cho chúng tôi vào lễ Bà.
– Tối rồi ! Đền đóng cửa. Mai lại .
Dứt lời, y quay lưng trở vào, miệng lầm bầm nói một mình :
– Cả ngày dài thì không tới, đợi trời tối mới tới. Chán mớ đời. Ban ngày thì mải đi chơi. Tối lăn mặt trời đổ thóc vào xay !
Thủ-Huy rung chuông nữa, y quay lại, mặt cau có :
– Cái gì ?
Vừa lúc đó một bà già trên dưới sáu chục xuất hiện. Thoáng nhìn dáng đi khoan thai, nhẹ nhàng cùng sắc diện của bà, Đoan-Nghi hơi giật mình . Nàng nhìn chồng, cả hai cùng tự hỏi : Tạ sao lại có một bà già xinh đẹp, quý phái ở chốn thôn dã như thế này ?
Bà ta chỉ vào Đoan-Nghi, Thủ-Huy nói sẽ vào tai gã đàn ông :
– Phải lễ độ với khách. Coi kìa, lưng khách đeo kiếm kìa !
Nghe bà già nói, gã đàn ông đưa mắt nhìn, thấy Thủ-Huy, Đoan-Nghi đều đeo kiếm trên lưng, y kinh hãi, vội đổi thái độ ; hai tay cung lại, vái dài, gập đầu xuống gần sát đất :
– Bẩm lạy quan khách ạ. Xin quan khách vào lễ Thái-hậu.
Y mau mắn mở cổng, cầm dây cương ngựa dắt cột ở gốc mít, rồi tự giới thiệu :
– Tôi tên Ngô Văn-Phụng, là thầy đồ phụ trách việc viết sớ tại đây.
Y lại chỉ vào người đàn bà :
– Đây là bà thủ từ. Bà tên Lê-thị Bồng.
Nhìn thấy bọc lễ vật khá lớn, mắt gã Phụng sáng ngời. Y lấy cái mâm, rồi đỡ gói lễ vật trên tay Đoan-Nghi, bầy ra. Bà Bồng cung kính hỏi :
– Phải chăng nhị vị là thập phương tới vay tiền Thái-hậu?
– Không ! Chúng tôi không giầu, nhưng cũng tạm đủ sống. Đâu dám vay tiền ngài !
– Nhị vị đeo kiếm, vậy hẳn là con em đệ tử võ phái Mê-linh chăng ?
Thủ-Huy xua tay :
– Không hẳn như vậy !
– À, thôi rồi, các vị họ Lý hặc họ Lê hẳn ?
– Cũng không hẳn như vậy.
Thủ-Huy tò mò :
– Tôi tưởng khi đã đến đền này, thì ai cũng như ai. Có đâu phân biệt loại người?
– Không phải tôi phân ra, mà lệ này có từ lâu. Phàm thập phương tới lễ, thì chỉ được lễ ở ngoài, trước bàn thờ. Còn như thuộc họ Lý là họ của vua Thánh-tông, họ Lê là họ của Thái-hậu, thì được vào trong cung chiêm ngưỡng tượng của ngài.
– Thế còn nếu như là con em đệ tử võ phái Mê-linh ?
– Đương thời ngài là đệ tử của vua bà Bình-Dương, chưởng môn phái Mê-linh. Cho nên trước khi băng hà, ngài có di chiếu để lại : Trong đời ngài xử dụng tới mười tám thanh kiếm khác nhau. Vậy thì tại mỗi nơi thờ ngài được giữ một thanh. Sau này, phàm con em đệ tử phái Mê-linh tới hành hương, thì được chiêm ngưỡng kiếm ấy.
– À, thì ra thế.
Đoan-Nghi trả lời :
– Chúng tôi thuộc cả hai loại, tôi họ Lý, và cũng là đệ tử của phái Mê-linh.
Bà Bồng mỉm cười, ánh mắt bà dịu hẳn lại, thoáng một nét buồn xa xôi.
Ghi chú của thuật giả:
Công-chúa Thiên-Ninh là con gái của vua Lý Thánh-tông với Mai phi. Công chúa có tài kinh bang tế thế, được vua cha trao nhiệm vụ cải cách nông nghiệp, làm cho Đại-Việt trở thành giàu có súc tích. Trong cuộc bình Chiêm 1069, cuộc đánh Tống 1075 và kháng Tống 1077, công chúa chỉ huy tiếp vận lương thảo. Hồi phụ trách cuộc cải cách nông nghiệp, công chúa thường cho nông dân vay tiền làm ruộng, đến mùa gặt thì trả. Vì vậy dân chúng gọi công chúa là bà Chúa-kho. Trong cuộc kháng Tống, quân Tống vượt chiến lũy Như-nguyệt, tiến tới sát Thăng-long, chỉ còn 25 cây số. Công chúa chỉ huy quân đánh bật giặc trở về Như-nguyệt, rồi tử trận. Triều đình xây đền thờ công chúa ở Thị-cầu, Bắc-ninh.
Mỗi khi vào đầu Xuân, dân Việt thường tới đền thờ công chúa khấn xin vay tiền. Nhưng, trên công chúa còn có Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì vậy tín chủ phải tới đền thờ ngài khấn xin vay trước, rồi mới tới đền thờ bà Chúa-kho sau. Khi dâng sớ vay tiền, phải nói rõ vay bao nhiêu, rồi xin âm dương. Nếu được, năm đó phát tài, cuối năm phải tới lễ tạ và trả nợ. Thường thì tín chủ trả bằng tiền, vàng, bạc…mã, gọi nôm na là tiền, vàng, bạc âm phủ.
Hiện nay (1997), dường như sự linh ứng có thực, nên hằng năm cứ vào đầu Xuân, dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau đến đền thờ hai ngài…vay tiền. Khi trả thì không trả bằng tiền, vàng, bạc Âm-phủ nữa, mà trả bằng đô la Âm-phủ Hoa-kỳ. Lo


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.