Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 20: Giai Nhân Tô, Hàng
Hôm ấy, sau một ngày duyệt binh về, Long-Xưởng họp các em với Thủ-Huy tại ngự thiện đường để cùng ăn cơm trưa. Mục đích, sau bữa ăn, anh em cùng vào cung vấn an phụ hoàng, mẫu hậu, rồi lên đường tiến quân.
Cơm xong, anh em đang vui đùa với nhau thì Thủ-Huy ghé miệng vào tai công chúa Đoan-Nghi nói nhỏ :
– Trên nóc điện có hai gian nhân nghe trộm.
– Muội khám phá ra từ lâu rồi. Trong hai tên, thì một tên già, một tên trẻ. Hai tên này nội công rất cao thâm. Chúng thở ra nhỏ như tơ. Không biết chúng thuộc môn phái nào ?
– Nội công chúng hơi giống nội công nhà mình. Để anh bảo Tăng Khoa lôi cổ chúng xuống.
Long-Xưởng cũng đã khám phá ra hai người nghe trộm. Vương để chung rượu xuống bàn rồi nói lớn :
– Cao nhân phương nào giá lâm Đông-cung, sao không xuống đây cùng anh em tiểu vương đồng ẩm, đàm văn, luận võ, mà núp trên nóc điện chi cho nhẹ thể ?
Nói rồi vương cầm chung rượu tung lên nóc nhà. Chung rượu xuyên thủng mái ngói ra ngoài.
Tăng Khoa lạng người một cái, y đã ra ngoài sân. Trên nóc điện bốn thị vệ đang bao vây hai người bịt mặt. Một người đàn ông to lớn, uy nghi mặc áo vàng, một người đàn bà nhỏ bé mặc áo xanh. Chỉ hai chiêu, người áo xanh đã đánh bay bốn thị vệ rơi xuống sân. Lối đánh rất đặc biệt, tuy dũng mãnh, nhưng nhẹ nhàng, giống như hai sư huynh sư đệ đồng môn tập luyện vậy.
Tăng Khoa thấy hai người không có ác ý, hầu tung mình lên nóc cung, chắp tay hướng người hai người:
– Thái-tử có lời thỉnh nhị vị xuống uống chung rượu.
Trong khi vái, Tăng vận kình lực ra hai tay. Người áo vàng lơ đãng nhìn trời. Trong khi người áo xanh phất tay một cái, kình lực phát ra như sóng vỗ. Bình một tiếng, Tăng Khoa cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngừng. Hầu phải lùi liền ba bước để hóa giải kình lực.
Long-Xưởng kinh ngạc không ít, vì suốt mấy năm qua Tăng Khoa được Thủ-Huy chỉ dạy không ngừng cùng với Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa. Hơn nữa Tăng luyện tập rất cần cù. Có thể nói, bản lĩnh của Tăng hiện không thua vương làm bao. Trong các võ tướng của triều đình, rất hiếm người đấu ngang tay được với Tăng.
Long-Xưởng đưa mắt ra hiệu cho Thủ-Huy, rồi cả hai cùng tung mình lên nóc điện. Long-Xưởng cung tay :
– Cao nhân giá lâm, không biết có gì dạy bảo ?
Người áo xanh hất hàm hỏi :
– Phải chăng người là Lý Long-Xưởng, được phong tước Hiển-Trung vương ?
– Quả đúng như cao nhân nói.
Người áo xanh lại nhìn Thủ-Huy :
– Phải chăng người là cháu nội của đại hiệp Trần Tự-Kinh ?
Thấy người này có vẻ coi thường Long-Xưởng, mà lại tỏ ra kính trọng ông nội mình. Thủ-Huy cung tay :
– Dường như cao nhân có quen biết với ông nội vãn bối ?
Người áo xanh không trả lởi, y phát một chiêu chưởng đánh thẳng vào mặt Thủ-Huy. Kình lực chưa ra hết mà Thủ-Huy đã cảm thấy ngộp thở. Công kinh hãi, vội xuất chiêu Đông-hải lưu phong đỡ. Ầm một tiếng, người áo xanh bật lui liền ba bước, hai tay xoa vào nhau tỏ vẻ đau đớn . Còn Thủ-Huy bật tung người lên cao, ngói trên nóc điện bay khắp bốn phía. Tiếng chưởng chạm nhau, tiếng ngói rơi, còn có mấy tiếng la hoảng của Đoan-Nghi, Trang-Hòa và anh em Long-Xưởng. Bởi hiện công lực Thủ-Huy có thể nói là cao thâm nhất trong các võ quan của triều đình, thế mà dường như ngang sức với người áo xanh.
Thủ-Huy lộn hai vòng trên không, rồi đáp xuống nóc điện. Công cung tay hướng người áo xanh :
– Xin cao nhân cho biết cao danh quý tính.
Người áo xanh không trả lời Thủ-Huy mà nói một mình :
– Chiêu Đông-hải lưu phong sao đang dương, lại chuyển sang âm được nhỉ ?
Bà ta gật gật đầu :
– Người quả thực là cháu của một vĩ nhân nổi danh nhân nghĩa nhất Đại-Việt.
Người áo xanh hướng người áo vàng :
– Chủ nhân ! Y là con giòng cháu giống, mình có thể đối thoại được.
Đến đó Nghĩa-Thành vương vừa đến. Vương đưa mắt nhìn người áo vàng : Từ tướng đi, từ hai vai, từ cái lưng đều rất quen thuộc, rất thân ái, mà vương không đoán ra là ai. Người áo vàng đang bước đi, khi nhìn thấy vương, ông ta cũng dừng lại. Bốn mắt nhìn nhau, tay ông run run, dường như súc động.
Dù bị coi thường, nhưng Long-Xưởng vẫn tỏ ra lễ độ. Vương kéo ghế mời hai người ngồi trên, ngang với Nghĩa-Thành vương. Còn mình thì ở ngôi chủ vị tiếp khách. Nhưng chỉ người áo vàng ngồi, còn người áo xanh thì khoanh tay đứng hầu phía sau.
Người áo vàng xuất hồn nhìn khắp ngự-thiện đường một lượt, rồi nói một mình, nhưng để cho Thủ-Huy nghe :
– Ta có một thắc mắc là từ xưa đến giờ, đại hiệp Tự-Kinh nổi tiếng nhân từ, hiệp nghĩa nhất Đại-Việt, thường dạy con cháu nên đứng ngoài vòng danh lợi để giữ cho thân thể thơm tho. Cớ sao người lại cho cháu nội lăn mình vào chốn hôi tanh này nhỉ ?
Thủ-Huy thấy phong thái của hai người, công chắp tay :
– Thưa tiền bối, thời vua Trưng, các anh hùng cùng cắp gươm phò tá ngài, có ai vì mấy đấu gạo đâu ?
Người áo vàng phẩy tay một cái, tỏ ra cử chỉ tát yêu Thủ-Huy :
– Khá lắm, người ứng đối nhanh như vậy thì hẳn là con trai của Bùi Anh-Hoa? Người là Thủ-Huy hay Thủ-Lý ?
– Thưa, cháu là Thủ-Huy.
– Hồi người đầy năm, ta có gửi tặng cho người một món quà. Món quà đó là cái khánh ngọc đỏ khắc hình con rồng với con chim âu quấn lấy nhau. Món quà đó đâu rồi ?
Thủ-Huy giật bắn người lên, công mở to mắt nhìn người áo vàng. Vì ông chính là người ấy, mà ông nội, bố mẹ cùng các sư thúc muốn đưa lên ngôi vua, thay cho Chính-long Bảo-ứng hoàng đế . Suốt từ thời thơ ấu, Thủ-Huy cũng như một số các đệ tử phái Đông-a đều nghe các bậc trưởng thượng nhắc đến, mà không biết người ấy là ai. Một lần Thủ-Huy hỏi mẹ : Cái khánh ngọc đeo trên cổ từ đâu mà có ? Bà Anh-Hoa trả lời : Do người ấy tặng cho con lúc đầy năm. Thủ-Huy hỏi người ấy là ai, thì bà Anh-Hoa lắc đầu không muốn nói. Bây giờ nghe người áo vàng xưng là nhân vật đã tặng khánh ngọc cho mình, thì công biết ông chính là người ấy.
Nghe câu nói đó, Thủ-Huy vội lậy phục xuống đất :
– Cháu…cháu… xin kính cẩn ra mắt sư bá.
Nói rồi công kéo chiếc khánh đeo trên cổ trao cho người áo vàng. Người áo vàng vẫy tay tỏ ý không cần coi. Ông phát một chiêu nhẹ nhàng, kình lực đỡ Thủ-Huy đứng dậy. Ông cười :
– Cháu gọi ta là sư thúc chứ đừng gọi là sư bá, mà sau này bà chị Anh-Hoa lại mắng ta. Vừa rồi cháu tự ví việc ra làm quan của cháu với các anh hùng thời Lĩnh-Nam. Như vậy cũng được đi. Song quần hùng Lĩnh-Nam theo phò vua Trưng là phò cái chí của ngài. Đức của vua Trưng cao vòi vọi. Còn ngày nay cháu theo phò cái cục bột Thiên-Tộ (ghi chú : tức vua Anh-tông hay Chính-long Bảo-ứng hoàng đế) chỉ biết có gái, thì thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô, bán bò tậu ễnh ương mất rồi.
Kiến-Ninh vương vốn nóng tính. Vương thấy người áo vàng nhục mạ phụ hoàng thì quát lớn :
– Im cái mồm. Người có biết đây là đâu không mà nói lời vô phép như vậy ? Hay người ỷ có võ công cao, rồi muốn nói gì thì nói ư ? Người hãy nhìn xung quanh mà xem, thị vệ đã vây kín Đông-cung. Ta chỉ hô lên một tiếng, là thị vệ sẽ băm người ra như băm chả ngay.
Mọi người chỉ thấy hoa mắt một cái, tiếp theo hai tiếng bốp. Người áo xanh đã tát Kiến-Ninh vương hai cái, rồi lùi trở về chỗ, tay chỉ vào mặt vương :
– Bây giờ chính ta bảo mi im cái mồm, bằng không ta lấy tính mệnh mi.
Người áo vàng vẫn nói bằng giọng kẻ cả :
– Ta tiếc cho cháu ! Tài trí không thua gì Kinh-Nam vương xưa. Kinh-Nam vương tuy đem tài ra giúp Tống, nhưng Tống Nhân-tông là người biết tài vương, lại thương dân, thực xứng đáng là đấng quân phụ. Còn Thiên-Tộ, thì hỡi ơi !
Thủ-Huy chỉ vào Long-Xưởng :
– Thưa sư thúc, nếu nhìn bề ngoài thì thế. Nhưng sự thực lại khác. Xưa kia, ông Cổ-Tẩu là người ương gàn, thế mà lại sinh ra bậc thánh là vua Thuấn. Cha của Tăng Tử là người ác, thế mà con lại là người hiền. Đệ tử tuân lệnh nội tổ ra giúp nghĩa huynh, khi vận nước chông chênh như trứng trồng, chứ đâu có vì bổng lộc !
– Cái gì mà trứng chồng ?
Thủ-Huy tóm lược việc Tống sai mật sứ sang mưu chiếm ngôi vua, biến Đại-Việt thành quận huyện. Rồi các đại tôn sư họp nhau phá vỡ. Tiếp theo đến việc bắt Tống công nhận quốc danh, khi phong, phải phong làm An-Nam quốc vương, chứ không được phong làm Giao-chỉ quận vương. Cuối cùng, là viêc đi sứ Kim.
Người áo vàng gật đầu :
– Lâu nay ta ẩn thân, nên không biết rõ tình hình. À thì ra thế. Ta có nghe nhiều người ca tụng cái đức của thằng bé con Long-Xưởng. Ta không tin. Bây giờ nghe cháu nói, ta cũng tin một phần.
Ông nhìn Long-Xưởng :
– Này bé con ! Ta nghe con nhỏ Từ Thụy-Hương trước đây là tỳ thiếp của người, rồi tại sao y thị lại trở thành Tuyên-phi ? Sự việc ra sao ?
Long-Xưởng chưa kịp trả lời, thì Kiến-Tĩnh vương đã lên tiếng :
– Việc phụ hoàng ta phong cho ai làm phi, làm thiếp, người không có quyền hỏi. Người là ai mà dám có giọng điệu đại bất kính như vậy ?
Người áo xanh búng tay một cái, một hạt vàng bay ra, bay thực chậm, nhưng quay tròn với tốc độ cực nhanh kêu lên tiếng vi vu, rồi thình lình véo một tiếng , hột vàng bay vòng cầu trúng vào huyệt Á-môn của Kiến-Tĩnh vương. Lập tức toàn thân vương bị tê liệt, mở miệng không ra.
Công chúa Đoan-Nghi thấy anh bị áp chế, thì chịu không được. Nàng rút kiếm, rồi chuyển thân mình một cái, kiếm đã dí vào cổ người áo xanh.
Người áo xanh kinh hoàng, bà lộn liền ba vòng về sau để tranh mũi kiếm. Sau ba vòng, bà lại đáp xuống giữa ngự-thiện đường. Nhưng khi bà đáp xuống, thì mũi kiếm vẫn dí vào cổ bà. Thì ra Đoan-Nghi đã dùng một chiêu võ trấn môn của Long-biên kiếm pháp, nàng chuyển thân theo bà như bóng với hình. Lòng nguội như tro tàn bà lên tiếng :
– Mi đánh trộm ta mà thành công. Ta không phục.
Bấy giờ bà mới nhìn kẻ khống chế mình, đó là một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, nhan sắc diễm lệ. Chợt bà kêu lên :
– Mi… Mi là công chúa Đoan-Nghi. Nếu mi là anh hùng, thì hãy đường đường chính chính đấu với ta mà thắng ta, ta mới phục.
Công chúa Đoan-Nghi thu kiếm về :
– Được ! Người hãy rút kiếm ra. Nếu người thắng được ta, thì ta sẽ tha cho người rời khỏi nơi đây.
Người áo xanh rút kiếm, rồi gật đầu :
– Nào chúng ta qua lại mấy chiêu với nhau.
Thấp thoáng ánh thép, Đoan-Nghi đã ra một chiêu, cắt đứt giải buộc khiến chiếc khăn bị mặt của người áo xanh rơi xuống đất. Tất cả mọi người hiện diện đều bật lên tiếng ái chà. Vì bộ mặt người áo xanh cực đẹp. Thực là một giai nhân tuyệt thế.
Người áo xanh hét lên một tiếng, rồi vung kiếm tấn công. Chiêu số của bà rất quái dị, khi thì giống Mê-linh kiếm pháp. Khi thì giống Đông-a kiếm pháp. Khi thì giống Hoa-sơn kiếm pháp. Trong khi Đoan-Nghi dùng kiếm chiêu, thì người kia dùng kiếm khí, kình lực phát ra kêu vo vo. Đoan-Nghi khoan thai trả đòn. Đấu được trên trăm hiệp, Đoan-Nghi đã tìm ra nguyên tắc kiếm thuật của người áo xanh : Bà ta khéo phối hợp kiếm pháp Mê-linh, Đông-a và Hoa-sơn làm một, mà không một chút sơ hở.
Từ đầu đến cuối, người áo vàng không nói một câu, ông lơ đãng nhìn trận đấu giữa người áo xanh với Đoan-Nghi, thình lình ông nhổm người dậy, tay ông phóng ra hai chỉ. Choang, choang hai tiếng kiếm của Đoan-Nghi với người áo xanh bị vuột khỏi tay, bay lên trần nhà, cắm vào cây xà. Đoan-Nghi kinh hãi lùi lại ba bước.
Người áo vàng nói một mình :
– Hà ! Con nhỏ này học ở đâu được kiếm pháp của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Khá lắm.
Thủ-Huy giật mình hỏi :
– Thưa sư thúc, cháu tưởng đó là Mê-linh kiếm pháp chứ …
– Cháu biết một mà không biết hai. Dĩ nhiên căn bản là Mê-linh kiếm pháp. Nhưng, cháu nên nhớ, Linh-Nhân hoàng thái hậu đã học võ công Hoa-sơn, Đông-a, Hồng-thiết, trước khi học Mê-linh kiếm, vì vậy khi ngài xử dụng Mê-linh kiếm pháp, thì không còn là kiếm pháp nguyên thủy nữa. Cho nên, sau này, ngài truyền kiếm pháp ấy lại cho hậu thế, thì kiếm pháp đó là thứ kiếm pháp bị ngài pha trộn thành một loại kiếm pháp mới. Cũng như cháu, cháu học võ công Đông-a, Hoa-sơn một lúc, thành ra dù cháu xử dụng võ công nào, thì cũng không còn thuần túy nữa.
Thủ-Huy cau mày suy nghĩ, công chợt nhớ ra, có rất nhiều chiêu công dạy cho Đoan-Nghi phảng phất võ công Đông-a, Hoa-sơn. Bất giác công đưa mắt nhìn người áo vàng, và nghĩ thầm : Ông là bạn của bố ta có khác. Bác học đến thế là cùng.
Nguời áo vàng hỏi Long-Xưởng :
– Người đã biết ta là ai chưa ? Chắc là chưa, vì vậy khi ta mắng gã Thiên-Tộ thì người bực mình.
Ông mở khăn bịt mặt ra, mọi người cùng ồ lên một tiếng, vì ông giống Chính-long Bảo-ứng hoàng đế như hai giọt nước. Có điều đôi mắt ông sáng long lanh, da hồng hào, chứng tỏ nội công của ông cao thâm khôn lường.
Nghĩa-Thành vương rưng rưng nước mắt, bật kêu lên :
– Đại huynh ! Thì ra đại huynh vẫn còn tại dương thế ! Hỡi ơi, gần hai chục năm qua, đệ cứ tưởng đại huynh bị Cảm-Thánh với Đỗ Anh-Vũ hại rồi. Tạ ơn trời phật, đại huynh vẫn cơn sống, mà võ công cao đến dường này.
Người áo vàng ôm lấy Nghĩa-Thành vương :
– Anh thoát cả trăm lần chết, ngày nay mới được thấy em.
Ông hỏi Long-Xưởng :
– Người đã biết ta là ai rồi mà sao không quỳ gối ra mắt ?
Long-Xưởng cẩn thận hơn :
– Tiểu bối ở địa vị cầm đại quyền quốc gia, không thể chỉ vì gương mặt tiền bối mà nhẹ dạ tin ngay được. Vãn bối phải dè dặt.
Người áo vàng móc trong bọc ra một con nai bằng ngọc xanh biếc trao cho Long-Xưởng :
– Người cẩn thận như vậy là phải. Người hãy coi xem vật này là gì đây ?
Long-Xưởng khúm núm cầm lấy con nai, trên có khắc « Thiên-Thuận ngũ niên, ngũ nguyệt, sóc nhật, Sửu thì, Thiên-Lộc ». Nghĩa là niên hiệu Thiên-Thuận thứ năm (DL.1132, Nhâm-Tý), tháng năm, ngày 1, giờ Sửu, Thiên-Lộc sinh.
Long-Xưởng chợt nhớ lại, trong tập Thần-tông thực lục có chép :
« … Khi Thần-tông được 12 tuổi, thì mẹ là Chiêu-Hiếu hoàng thái hậu (Vợ Sùng-Hiền hầu) đã tuyển cho hàng chục phi tần. Nhưng nhà vua không sủng ái người nào. Cho đến năm ngài 16 tuổi, thì có sự thay đổi lớn. Một ngày, nhà vua trốn khỏi Hoàng-thành đạo chơi phường bán hoa ngoài thành Thăng-long, thì ngài gặp thiếu nữ bán hoa tên Hồng-Hạnh. Ngay từ lúc mới gặp nàng, ngài đã say mê. Từ đấy, đêm nào ngài cũng trốn ra gặp nàng, khi thì mua hoa, khi thì làm thơ tặng. Nhưng nàng là một thiếu nữ được giáo dục rất kỹ về tam tòng, tứ đức, nên dù ngài đeo đuổi cả tháng trời, mà nàng vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Việc này đến tai mẫu thân Hồng-Hạnh, bà đùa với ngài rằng :
– Nếu cậu muốn hỏi con gái tôi, thì cậu hãy về làm một bông hồng hạnh bằng vàng đem đến đây dẫn lễ.
Lập tức ngài trở về cung, sai làm một bông hồng hạnh bằng vàng thực lớn, rồi hôm sau đem ra cho bà mẹ nàng. Bà mẹ giật mình, nhưng vẫn đùa :
– Được rồi, tôi gả nó cho cậu. Vậy giờ Thìn ngày mai, cậu phải đem kiệu rồng đến đây rước dâu.
Kiệu rồng là kiệu dành cho vua ngự. Bà nói câu đó, có ý nhắn nhủ rằng bà không gả Hồng-Hạnh cho ngài. Ngài trở về truyền lễ quan, cung nga, thái giám, hôm sau đem kiệu rồng ra đón Hồng-Hạnh nhập cung, phong làm Tu-dung. Bấy giờ cha mẹ nàng mới biết ngài là vua. Ngài cực kỳ sủng ái Hồng-Hạnh. Nhưng Chiêu-Hiếu thái hậu, cùng Cảm-Thánh hoàng-hậu và hai bà Thục-phi, Tuyên-phi cực kỳ ghét nàng.
Nhập cung được hai tháng thì Tu-dung Hồng-Hạnh có thai. Niên hiệu Thiên-Thuận thứ 5, tháng 5, ngày mùng một, giờ Sửu, thì Tu-dung sinh ra một hoàng nam. Vua đặt tên là Thiên-Lộc, lập làm thái tử, truyền lấy viên ngọc xanh lớn nhất khắc hình con nai, với hai sừng, ban cho. Tu-dung Hồng-Hạnh được thăng lên Thần-phi.
Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (Bính Thìn, DL. 1136), Cảm-Thánh hoàng-hậu lại sinh ra hoàng tử Thiên-Tộ. Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ 6 (Mậu Ngọ, DL.1138) vua Thần-tông bệnh nặng, truyền gọi Tham-tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn-Thông vào để viết di chiếu.
Cảm-Thánh hoàng hậu, Tuyên-phi Nhật-Phụng, Thục-phị Phụng-Thánh đem vàng hối lộ cho Thông. Khi nhà vua truyền Thông viết chiếu truyền ngôi cho Thái-tử Thiên-Lộc, thì Thông cầm bút suy nghĩ. Một lát ba bà Cảm-Thánh Nhật-Phụng, Phụng-Thánh vào khóc rằng : « Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên-Lộc là con của người thiếp được vua yêu. Nếu cho Thiên-Lộc nối ngôi, thì bà mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con bọn thiếp tránh sao cho khỏi bị tai vạ ? ». Vì thế vua xuống chiếu lập hoàng tử Thiên-Tộ kế vị, còn thái-tử Thiên-Lộc thì phong làm Minh-Đạo vương…
…Niên hiệu Đại-Định nguyên niên (Canh Thân. DL. 1140), phong Thần-phi Hồng-Hạnh làm Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu và phong một vị sủng phi khác của vua Thần-tông là Đức-phi Quỳnh-Chi, một bà phi bác học đa năng, thường được vua dùng như một đại học sĩ phụ tá làm Linh-khang Chiêu-đức thái phi. »
Sau không thấy ai nhắc đến Minh-Đạo vương cùng bà phi Hồng-Hạnh ra sao. Một lần Long-Xưởng có hỏi Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền, thì ông nói rằng :
« Nhờ Từ Văn-Thông giúp mà hoàng thượng được lên ngôi vào lúc ba tuổi. Quyền hành do Chiêu-Hiếu hoàng thái hậu và em hậu là Đỗ Anh-Vũ. Trước đây Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu có theo học với một đạo cô phái Tản-viên, nay ngài theo đạo cô này đi tu. Niên hiệu Đại-Định thứ 8 (DL1147), Chiêu-Hiếu thái hậu khám phá ra vụ Đỗ Anh-Vũ tư thông với Cảm-Thánh hoàng thái hậu. Anh-Vũ với Cảm-Thánh hoàng thái hậu ám hại Chiêu-Hiếu thoàng thái hậu. Quyền vào tay Anh-Vũ với Cảm-Thánh hoàng thái hậu. Một lần Minh-Đạo vương cùng với vương phi trên đường về Cổ-pháp viếng lăng mộ tiên đế, thì bị cướp giết cả nhà. Ai cũng bảo Cảm-Thánh hoàng thái hậu với Anh-Vũ ra tay ám toán .».
Bây giờ thấy người mặc áo vàng giống phụ hoàng như hai giọt nước, cùng di vật từ đời vua Thần-tông, nhất là Nghĩa-Thành vương đã nhận ra anh mình, Long-Xưởng không nghi ngờ gì nữa. Vương hô các em quỳ xuống, rồi khấu đầu :
– Bọn thần xin khấu đầu trước hoàng-thúc. Vì không biết rõ thân thế Hoàng-thúc, nên bọn thần có nhiều điều vô lễ. Mong Hoàng-thúc đại xá cho.
Minh-Đạo vương chỉ ghế :
– Các người không nên đa lễ. Các người ngồi đây đi. Đức Thái-tổ nhà ta xuất thân là đứa trẻ chăn trâu ở chùa Tiêu-sơn, Linh-Nhân hoàng thái hậu thủa hàn vi cũng từng chăn trâu. Ta muốn cùng các người dùng tình mà ở với nhau, chứ không muốn lễ nghi phiền phức.
Ông chỉ vào thiếu nữ áo xanh :
– Đây là đệ tử thứ ba của ta, tên Bạch-Phụng.
Ông ngửa mặt nhìn vào quãng xa xôi, rồi tiếp :
– À, để ta thuật cho các người nghe bằng cách nào ta sống sót cho tới ngày hôm nay? Hồi sáu tuổi ta đã bắt đầu luyện võ với một sư phụ phái Đông-a, năm mười ba tuổi, thân mẫu định tuyển phi tần cho ta. Song, ta xin khất lại, để có thời gian học văn luyện võ. Mãi đến năm mười sáu tuổi, thì ta gặp một thầy đồ nghèo khổ, vợ chết không có tiền chôn cất. Ông đến yết kiến, xin bán con gái với giá ba lượng bạc. Ta thương tình, ban cho ông mười lượng bạc, lại sai sắm quan quách, chôn cất vợ ông ta, mà không nhận con gái. Ông ta thâm cảm ơn nghĩa, xin ta nhận ông với con gái làm gia thuộc trong phủ. Ta nhận lời cho ông làm gia sư, phụ trách chức trưởng sử. Còn con gái ông, thì tuyển làm cung nga tại ngự thư phòng. Nhưng khi ta gặp con gái ông, thì hỡi ơi, nàng là một giai nhân tuyệt thế. Cho nên, chỉ hơn tháng sau, ta quyết định tuyển nàng làm vương phi. Việc này, khắp triều đình đều phản đối, duy mẫu thân ta thì lại vui vẻ. Nàng tên là Phạm-thị Thanh-Thủy.
Vương ngước mắt nhìn lên trời :
– Thanh-Thủy vốn được cha dạy văn, ta cho nàng luyện võ. Chỉ ít lâu sau, võ công nàng trở thành cao thâm. Gia sư trong phủ đều bị nàng vượt qua. Còn ta…Tuy ta bị truất ngôi thái tử, nhưng trong lòng không một chút oán hờn, bởi đó là ý chỉ của phụ hoàng. Ta nghĩ : Mình không được làm vua, thì mình cũng có thể giúp em mình, như Khai-Quốc vương xưa đã giúp vua Thái-tông. Ta hết sức học văn, luyện võ, lại bỏ tiền bạc ra kết thân, chiêu mộ hào kiệt. Cho đến năm 17 tuổi, ta là một trong những đệ tử có võ công cao nhất của phái Đông-a. Bản lĩnh của ta ngang với hai người con của sư phụ là Tự-Hấp, Tự-Duy, với Đại-Việt ngũ tuyệt. Anh hùng Chiêm, Việt, Hoa ra vào cửa ta rầm rập, họ thấy Cảm-Thánh dâm loạn quá, Anh-Vũ lại cực kỳ ác độc. Họ đưa ý kiến rằng nên giết Cảm-Thánh, Anh-Vũ rồi đưa ta lên làm vua. Ta cực lực từ chối. Vì vậy Cảm-Thánh với Đỗ Anh-Vũ không yên tâm. Họ sợ ta hỏi cái tội dâm loạn, chuyên quyền của họ, nên họ bàn mưu với nhau trừ ta trước. Kể ta với lực lượng anh hùng theo ta, ta có thể giết Cảm-Thánh, Anh-Vũ dễ dàng. Nhưng dù sao Anh-Vũ cũng là ông cậu của phụ hoàng ta. Cảm-Thánh là hoàng-hậu thời tiên hoàng. Vì vậy ta khoanh tay, mặc cho hai người lộng hành. Thế nhưng, đùng một cái, ta được cung nga thân tín báo cho biết rằng Đỗ Anh-Vũ bàn với Cảm-Thánh hoàng thái hậu định vu cho ta cái tội mưu phản rồi đem đại quân làm cỏ trang ấp của ta. Quá kinh hoàng, ta nghĩ chỉ có cách giả chết ẩn thân mới thoát nạn. Một mặt ta phân tán tân khách, thủ hạ đi khắp nơi. Một mặt ta đem vương phi về Cổ-pháp lễ lăng mộ tiên đế, rồi trốn sang Trung-quốc. Không ngờ chuẩn bị của ta bị Anh-Vũ biết. Y sai một đội cao thủ sáu người, gồm ba nam, ba nữ đón đường giết ta. Ta với vương phi chống trả giết được 5 tên, còn một tên cuối cùng, võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Y chỉ đánh có hai chiêu, vương phi của ta bị táng mạng. Còn ta, y chỉ đánh có mười chiêu ta bị ngã. Gữa lúc chúng ta tuyệt vọng, thì sư-phụ Trần Tự-Kinh cùng hai người con là Trần Tự-Hấp và Trần Tự-Duy xuất hiện. Tên cao thủ của Cảm-Thánh thấy ba người thì bỏ trốn biệt. Sau đó ta quy ẩn, âm thầm luyện võ, thu đệ tử. Các hào kiệt nghe ta còn sống, thì lại tụ họp về với ta.
Thủ-Huy hỏi :
– Thưa sư thúc, cái tên cao thủ của Anh-Vũ ấy dùng võ công môn phái nào ?
– Y dùng võ công Đông-a.
Thủ-Huy bật lên tiếng than :
– Ái chà. Không lẽ là Mao Khiêm ?
– Đúng ! Chính là y.
Minh-Đao vương chỉ lên tường, nơi treo nhiều tranh và bút pháp :
– Đây là Đông-cung, nơi ta đã ở mấy năm. Khi phụ hoàng người lên ngôi, ta bị truất ngôi thái tử, trở thành Minh-Đạo vương, ta phải rời nơi này để trở về phủ đệ riêng. Từ ngày bị ám hại phải xa Thăng-long, lòng tưởng nhớ quê hương, mỗi năm ta lại âm thầm về thăm lại chốn cũ. Lần này, bị các người khám phá ra.
Ông chỉ vào Bạch-Phụng :
– Tuy xa Thăng-long, nhưng ta an trí mỗi châu, mỗi trấn, mỗi huyện một đệ tử để theo dõi tình hình đất nước. Bạch-Phụng là người phụ trách vùng Thăng-long.
Ông hỏi Bạch-Phụng :
– Ta trao cho con phụ trách vùng kinh thành. Thế sao cái vụ Thiên-Tộ cướp Từ Thụy-Hương của Long-Xưởng, mà con không biết ?
– Thưa sư phụ, tự đệ tử không muốn biết.
Bạch-Phụng thuật :
– Khi trao cho đệ tử coi vùng Thăng-long, sư phụ có dạy rằng « Chư sự lớn nhỏ đều phải biết, khi hành sự phải tôn trọng luật lệ. Duy có việc trong Hoàng-thành thì tuyệt đối không được tò mò vào, cũng không được can thiệp vào ». Chính vì vậy mà việc Chính-long Bảo-ứng hoàng đế đem Từ Thụy-Hương vào cung, rồi phong làm Tuyên-phi, đệ tử không theo dõi. Tuy nhiên nếu sư phụ muốn, đệ tử sẽ cho điều tra.
Minh-Đạo vương tỏ vẻ buồn rầu, ông hỏi Long-Xưởng :
– Ta nghe võ lâm anh hùng đàm tiếu về việc này quá nhiều, nên phải về đây điều tra cho rõ ngọn nguồn. Sự đã ra thế này thì còn dấu diếm làm gì ? Người hãy thuật cho ta rõ uyên nguyên ra sao !
Long-Xưởng đành thuật lại từng chi tiết : Nguồn gốc ca kỹ của vú Mai, kẻ vô danh đánh chồng vú bị tê liệt, trong khi đó vú mang thai rồi sinh Thụy-Hương. Vú được tuyển làm nhũ mẫu cho Đoan-Nghi, sau ba năm vú muốn ở lại thì bị quan Ngự-sử đại phu đàn hặc về việc chồng vú bị liệt, mà vú mang thai. Ngự y cũng xác nhận rằng chồng vú bị tổn thương xương sống, không thể giao hợp với đàn bà, mà vú vẫn có thai, thì cái thai đó là con hoang. Sau nhờ Đoan-Nghi xin, Long-Xưởng cho vú vào ở trong Đông-cung. Thụy-Hương học văn, luyện võ đều thành, và Đại-Việt thất tiên kết thân với nhau, phá tan âm mưu chiếm Đại-Việt của Tống. Rồi mối tình Thụy-Hương với Thủ-Huy diễn ra mà Long-Xưởng không biết. Khi Thủ-Huy lấy vợ thì Thụy-Hương lại trở thành người tình của Long-Xưởng. Cuối cùng Thụy-Hương được phong Tuyên-phi và phụ chính cho nhà vua.
Nghe Long-Xưởng thuật, mặt Minh-Đạo vương tái đi, ông hỏi bằng giọng run run :
– Thế… Thế …Triệu Mai-Hương hiện ở đâu ?
– Thưa hoàng-thúc, Triệu Mai-Hương là ai ?
– Là…là vú Mai đó. Triệu Mai-Hương là một giai nhân gốc người Dương-châu, bên Trung-nguyên.
Đoan-Nghi kinh ngạc :
– Không biết hoàng-thúc có lầm không ? Bởi vú Mai có khuê danh là Trần Lệ-Mai, khi đem vú vào nuôi sữa cho hài nhi, Khu-mật viện đã về quê vú ở Đăng-châu điều tra. Viên quan điều tra còn đến cả nhà từ tổ của vú xem xét gia phả. Như vậy thì sao vú là người Dương-châu được ? Suốt thời gian nuôi sữa hài nhi, cũng như trong mười năm ở Đông-cung, vú không biết nói tiếng Hoa, thì sao có thể là người Tống ? Theo hài nhi nghĩ, có lẽ hoàng-thúc đã lầm ca kỹ Triệu Mai-Hương với vú Mai thì phải.
Trán Minh-Đạo vương nhăn lại, ông hỏi :
– Có thể như thế. Không chừng trong thời gian Triệu Mai-Hương nức danh đế đô, thì vú Mai cũng nổi tiếng, nên có sự lầm lẫn chăng ? Thế vú Mai đâu ? Cứ cho ta gặp nàng là ta biết ngay.
Long-Xưởng đáp thay em :
– Từ khi Thụy-Hương trở thành Tuyên-phi thì vú vào ở trong cung với con gái.
– Ta sẽ thân vào Hoàng-cung điều tra vụ này.
Thủ-Huy nghĩ thầm :
– Cứ nghe ngôn từ của Minh-Đạo vương, thì dường như trước đây vú Mai là người tình của vương thì phải ? Bằng không tại sao ông biết bà có tên là Mai-Hương ?
Minh-Đạo vương thẫn thờ như người mất hồn. Ông nhìn Bạch-Phụng :
– Phải theo dõi vụ này thực chi tiết. Bạch-Phụng ơi ! Con cố tìm hiểu xem tại sao vú Mai đang là một ca kỹ tài sắc nhất Thăng-long, có biết bao nhiêu vương, hầu, khanh, tướng cầu hôn, mà thị không nhận lời ; mà lại nhận lời cầu hôn của một thị vệ võ công bình thường, tiền không, văn tài cũng không, cho đến cái dáng đẹp đẽ bên ngoài cũng không có. Vấn đề thứ nhì là liệu thủ phạm ám toán chồng vú Mai có phải là gian phu ăn nằm với vú Mai sinh ra Thụy-Hương không ? Cuối cùng, phải điều tra xem vú Mai có phải là Triệu Mai-Hương không. Việc này hơi khó đối với bất cứ người đàn ông nào. Nhưng con là nữ thì không khó. Bởi ngay trên nhũ hoa trái của Mai-Hương có một vết sẹo hình hoa mai.
Minh-Đạo vương nhìn Long-Xưởng, rồi lắc đầu :
– Ban nãy các cháu bàn nhau chuẩn bị ra quân thực mật, cho đến phút chót có phải thế không ?
– Quả như hoàng thúc dạy.
Ông hỏi Thủ-Huy :
– Phàm khi ra quân thì chúa tôi phải một lòng, thì mới thành công. Nay cháu tuổi còn trẻ, tước tới công, mà lại cầm binh quyền trong tay, liệu có tránh được miệng thế có dèm pha không ?
Nghe Minh-Đạo vương hỏi, Long-Xưởng rùng mình nghĩ thầm :
– Quả mẫu hậu, Giai-phi vơí ta cùng nghi ngờ Thủ-Huy ! Vị hoàng thúc này sao lại đoán ra được ? Ta im lặng, xem Thủ-Huy trả lời thế nào.
– Thưa sư thúc ! Đối với phụ hoàng, cháu là phò mã . Đối với anh Long-Xưởng cháu là nghĩa đệ, là em rể. Là phò mã, nếu cháu không làm được những việc nghiêng trời lệch đất như thánh Tản với vua Hùng, thì ít ra cháu cũng noi gương tổ là Kinh-Nam vương đối với vua Nhân-tông nhà Tống. Lòng cháu sáng như trăng, như sao. Vì vậy cháu nghĩ dù phụ hoàng, dù nghĩa huynh… đều tin vào lòng trung của cháu, chứ có đâu nghi ngờ ?
Long-Xưởng nghĩ thầm :
– Ta không tin người đâu.
Minh-Đạo vương lắc đầu :
– Ừ thì ta cứ tạm tin như vậy. Còn việc ra quân, các cháu có giữ đươc bí mật không ?
– Dạ được ạ !
– Ta không tin ! Các cháu hành động như thế này thì không khác gì lậy ông tôi ở bụi này ! Cháu đã biết, xung quanh cháu có con rắn độc, mà cho đến giờ này cháu cũng chưa biết y là ai ? Y làm việc này thì được hưởng gì ? Ai sai y vào tiềm ẩn ở đây ? Khi chưa tìm ra căn cước y, mà lại họp nhau bàn tiến binh thì thực là nguy hiểm. Tỷ như y làm việc cho Tống thì sao ? Cháu nên nhớ, hiện mọi hoạt động trọng đại đều phát xuất từ Đông-cung cả. Cho nên dù Tống, dù Chiêm, dù phe chủ hòa, không ít thì nhiều đều cài người vào Đông-cung. Những cao thủ, những bộ mặt lớn ra vào Đông-cung, thì người của Tống biết hết.
Nghe Minh-Đạo vương nói, Long-Xưởng, Thủ-Huy đưa mắt nhìn nhau. Cả hai như cùng tự nhủ : Vị hoàng thúc này nói rằng ông ẩn thân từ lâu, thế sao ông biết rất chi tiết những bí mật ở Đông-cung như việc có con rắn độc chưa tìm ra ? Mọi quyền lực mưu kế đều phát ra từ Đông-cung?
Cung nga dâng trà. Minh-Đao vương bưng chung trà lên uống. Sau khi uống xong, ông chỉ cái chung hỏi Trang-Hòa :
– Cái chung này ai biếu cháu ?
Vương phi Trang-Hòa tiếp lấy chung, phi giật bắn người lên, vì đó chính là chung của Đông-cung, song ai đó đã khắc lên hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, biểu hiệu của Côi-sơn song ưng. Cạnh hình, có mấy chữ «Hiển-Trung vương tài trí thì tài trí, nhưng bàn quốc sự lại để gian nhân nghe trộm, thì còn gọi là mẫn tiệp nữa chăng ? ».
Minh-Đạo vương, Nghĩa-Thành vương, Long-Xưởng cùng nhìn Thủ-Huy như hỏi : Có biết gian nhân ở đâu ? Thủ-Huy đưa mắt cho công chúa Đoan-Nghi. Công chúa hướng vào Trung-Tĩnh phu nhân tức Á-Nương :
– Vân-Đài tiên tử ! Người là người phái Hoa-sơn tiềm ẩn trong Đông-cung bấy lâu nay như vậy cũng đủ rồi. Chúng tôi nể tình công chúa Huệ-Nhu là cao tổ mẫu phái Đông-a, trước đây xuất từ quý phái, nên lờ đi cho người ẩn thân. Nhưng nay bị Côi-sơn song ưng mắng vốn, chúng tôi xin người hãy ra mặt để cho ai nấy đều biết một tiên tử Hoa-sơn đẹp như thế nào ?
Á-Nương vẫn cúi đầu lau chùi, như không nghe thấy gì. Như-Như là vợ của Tăng Khoa, hiện giữ nhiệm vụ cai quản nhân sự trong Đông-cung, nàng chắp tay :
– Khải công chúa điện hạ, bà này bị câm, trước đây bà là tỳ nữ của Thục-phi Đỗ. Hồi Thục-phi nhập cung thì mang theo. Vì bà có tài tẩm quất, nên Thục-phi dâng cho hoàng-hậu. Khi Thái-tử lập Đông-cung, hoàng-hậu ban cho thái-tử. Bà tuy câm nhưng cực kỳ trung thành. Ngay từ hồi Thái-tử chưa ra Đông-cung, bà hầu hạ thái-tử không một chút khiếm khuyết. Bà vốn bị ác tật, lưng gù có cái bướu to bằng quả dưa, mặt méo, nhưng bà rất chăm chỉ. Ngày Thái-tử dẹp triều đình gà mái gáy, hoàng-hậu sa thải hết cung nga do thái-hậu tuyển, chỉ giữ lại Á-Nương với con Nhài. Khi công chúa hạ giá với phò mã, thì Nhài được phong tước Tín-Hương phu nhân, theo công chúa. Còn Á-Nương được phong Trung-Tĩnh phu nhân. Á-Nương sao có thể là gian tế ?
Đoan-Nghi mỉm cười, nàng lạng người tới bắt Á-Nương. Á-Nương đứng trơ trơ, không có phản ứng gì, rõ ra người chưa luyện võ. Bị Đoan-Nghi bắt, bà ta kinh ngạc mở to mắt tỏ vẻ sợ hãi. Đoan-Nghi chĩa ngón tay trỏ ra nói bằng tiếng Hàng-châu:
– Đây là Lĩnh-Nam chỉ, ta mà điểm vào người bà, dù bà là cao thủ phái Hoa-sơn, thì bao nhiêu độc khí của Huyền-âm chưởng sẽ làm bà lạnh như băng mà chết. Bà hiểu không ?
Nói rồi nàng phóng chỉ đến véo một tiếng. Á-Nương lách mình nhanh không thể tưởng tượng nổi, tránh khỏi chiêu chỉ. Bấy giờ mọi người mới tin Á-Nương là người của phái Hoa-sơn. Á-Nương lộn người hai cái, bà ta đã ra khỏi ngự-thiện đường, đáp xuống giữa sân. Hơn mười thị vệ bao vây xung quanh bà ta. Bà ta lên tiếng :
– Các người đều là cao nhân Đại-Việt, mà lại dùng số đông người để thắng ta ư ?
Tiếng nói của bà rất thanh tao, nhẹ như gió thoảng, ngọt như cam thảo, âm rất trẻ.
Long-Xưởng vẫy tay cho thị vệ lùi ra xa. Vương nói với Á-Nương bằng giọng ôn tồn :
– Vân-Đài tiên tử, mới ngày nào chúng ta gặp nhau trên bến sông ở Thiên-trường, thế mà thấm thoắt đã mười năm dư. Thời gian qua mau thực. Khi tiên tử cùng đạo sư Lạc-Nhạn, chuồn xuống nước, trốn khỏi con thuyền của phái Hoa-sơn, Khu-mật viện truy lùng nhị vị khắp nơi mà không thấy, cô gia cứ tưởng các vị chết đuối rồi. Nào ngờ tiên tử chính là Á-Nương của Đông-cung. Hồi ấy, trước ngày cô gia lên đường đi Thiên-trường, tiên tử có xin phép nhũ mẫu của cô gia về quê ở Đông-triều thăm nhà ít ngày. Thì ra tiên tử giả xin phép để có thể đi Thiên-trường với bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ. Sau khi trốn khỏi con thuyền giam lỏng, tiên tử trở về Đông-cung thì bị công chúa Đoan-Nghi khám phá ra. Nhưng cô gia bảo công chúa rằng cứ lờ đi, xem tiên tử mưu đồ gì hơn là bắt giam. Hiềm vì hôm nay đây, Côi-sơn song ưng phiền trách, nên Đoan-Nghi phải bắt tiên tử xuất hiện. Vậy tiên tử còn chờ gì mà không bỏ mặt nạ ra. Cô gia xin lấy lễ mà tiếp tiên tử.
Á-Nương cười nhạt, chỉ thấy thấp thoáng, mụ nghiêng mình một cái đã đoạt thanh kiếm trên lưng của một thị vệ. Ánh thép lóe lên, kiếm xỉa vào cổ Thủ-Huy. Thủ-Huy tung người lên cao. Á-Nương vọt người theo, vung kiếm chặt chân đối thủ. Đang chới với trên không, Thủ-Huy chĩa ngón tay phóng xuống một Lĩnh-Nam chỉ. Chỉ chạm vào kiếm choang một tiếng, trong khi chân công đá gió một cái, người bật tung ra xa. Á-Nương cũng xê dịch người theo. Đoan-Nghi rút kiếm tung cho chồng. Thủ-Huy bắt kiếm, rồi xỉa vào làn kiếm quang của Á-Nương. Lại choang tiếng nữa hai kiếm chạm nhau tóe lửa. Cánh tay công cảm thấy tê rần. Bất giác công nảy ra niềm khâm phục :
– Võ công Hoa-sơn quả danh bất hư truyền. Tuy tuyệt học của họ bị mai một, thế mà công lực của Vân-Đài cũng đến mức này. Sứ đoàn Ngô Giới, Lưu Kỳ sang đây với mục đích cướp nước bằng cái mã đẹp trai của Lưu Kỳ. Mấy năm trước bọn Ngu Doãn Văn tuy được trao Vô Trung kinh, nhưng lại không có thuật ngữ, thì cũng vô ích mà thôi. Bây giờ nếu như ta dùng võ công Vô Trung kinh, thì chẳng hóa ra ta học lóm võ công của họ ư ? Đã vậy ta dùng toàn những chiêu bình thường của Hoa-sơn, cho mụ này hết dò la.
Công nghiêng người ra chiêu Thương-tùng nghênh khách, tiếp theo tới chiêu Sơn-trung lạc diệp. Vân-Đài bật lên tiếng úi chà, rồi nhảy lùi lại trả đòn. Hai người quấn lấy nhau, khi tới khi lui, ánh thép lấp lánh. Vân -Đài thì dở hết bản lĩnh ra, chỉ với mục đích bắt Thủ-Huy phải xử dụng võ công trong bộ Vô Trung kinh. Còn Thủ-Huy thì lại đánh cầm chừng, cứ hai ba chiêu Hoa-sơn, công lại xen vào một chiêu của Tản-viên, Đông-a hay Mê-linh.
Trải qua một trăm hiệp, công nghĩ thầm :
– Hôm ở Thiên-trường mình với Vỵ-xuyên ngũ tiên bầy mưu bắt Hoa-nhạc tam nương, thành ra không biết rõ bản lãnh họ như thế nào. Cứ như Nghi-Hòa sư thái kể : Người đã kết bạn với Tam-nương, và không ngớt khen ngợi công lực, kiếm thuật của Tam-nương. Thế mà sao hôm nay công lực, cũng như kiếm thuật của Vân-Đài lại quá tầm thường thế này ?
Chợt công để ý đến cái bướu trên lưng Vân-Đài, mồi lần mụ ra chiêu, thì cái bướu lại thóp vào, phình ra rất quái dị. Như vậy thì không phải là bướu rồi. Không biết nó là cái gì ? Chợt công nghĩ ra : Chắc cái bướu đó là cái bọc, trong đó mụ dấu vật chi bí mật đây. Đã vậy ta phải rạch cái bọc ra cho biết.
Nghĩ là làm, thình lình công biến chiêu, dùng một chiêu trong Mê-linh kiếm pháp tên Nguyệt-quang tùy ảnh, khiến Vân-Đài phải lộn liền ba vòng về sau để tránh. Công chỉ chờ có thế, lúc mụ lộn một vòng, thì công biến từ Mê-linh kiếm, chuyển qua chiêu Phong-ba hợp bích của Đông-a kiếm. Kiếm hoa lên, xoẹt một cái, bướu trên lưng Vân-Đài bị rạch nửa vòng. Áo rách ra, bên trong là một cái bọc lớn cũng bị rạch. Giữa lúc đó mụ lộn sang vòng thứ nhì, thứ ba, vật dụng trong túi rơi xuống đầy sân.
Đám thị vệ nhặt các vật dụng đó trình cho Long-Xưởng.
Biết bị mắc mưu, Vân-Đài quay kiếm đánh thục mạng, giống như lối đánh cả hai cùng chết. Thủ-Huy giật mình, không tự chủ được, công ra liền ba chiêu Hoa-sơn, biến hóa mỗi chiêu ra âm, dương ; rồi âm, dương thành tứ tượng ; tứ tượng thành bát quái. Đúng ra mỗi biến chiêu đó kiếm có thể xuyên thủng da thịt Vân-Đài, nhưng Thủ-Huy kịp ngừng lại, khiến y phục mụ bị rách mà thôi. Người Vân-Đài bị bao trùm trong làn kiếm quang, y phục bị khoét mất hàng chục lỗ. Người mụ trông thực thảm thiết.
Động lòng trắc ẩn, Thủ-Huy thu chiêu nhảy lùi lại. Công chúa Đoan-Nghi cởi áo khoác tung cho mụ. Áo tỏa ra như chiếc dù rồi che khắp thân mụ.
Những người đàn ông hiện diện đều là cao nhân đạo đức, vội quay mặt đi chỗ khác.
Còn Thủ-Huy nhìn Vân-Đài, chợt nhớ lại một chuyện cũ bất giác công bật lên tiếng cười khúc khích, rồi quay mặt nhìn ra chỗ khác. Trong khi Vân-Đài nổi giận phừng phừng :
– Tên tiểu mao đầu kia, cái việc ấy dù trải đã mười năm dư, dù mi lớn rồi, dù mi là quan to, lão nương vẫn không quên được mối hận mi làm nhục lão nương. Suốt mấy năm qua, vì quốc sự, lão nương phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai tôi đòi trong Đông-cung. Lão nương chưa có dịp băm vằm mi ra làm nghìn mảnh, thì chưa hả giận. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện cũ, lão nương lại ứa gan…
Thủ-Huy cung tay :
– Tiên tử đã lìa xa cõi hồng trần, lên tiên, thì chấp nhất làm chi cái việc ấy. Vả hồi đó vãn bối còn là đứa trẻ nít, đâu có biết sự đời là gì ? Sau hôm ấy, vãn bối cảm thấy hối hận vô cùng.
Long-Xưởng kinh ngạc, hỏi :
– Nhị đệ, cái gì đã xẩy ra ?
– À, cái chuyện đệ bắt tiên tử ở Thiên-trường, rồi lỡ tay khiến…
Công ghé miệng vào tai Long-Xưởng :
– Khiến Vỵ-Xuyên ngũ tiên với đệ nhìn thấy khắp thân thể ngọc ngà của tiên tử.
Thủ-Huy lại nhìn Vân-Đài :
– Nếu như tiên tử không chịu quên chuyện cũ, thì vãn bối đành phải kể cho thái-tử cùng mọi người nghe, để Thái-tử tạ lỗi với tiên tử vậy.
Mặt Vân-Đài tái xanh, bà xua tay :
– Thôi ! Im ! Không được kể ra.
Chợt Long-Xưởng nhớ lại : Hôm ấy tại đại sảnh đường phái Đông-a, Ngô Giới, Lưu Kỳ không ngớt thắc mắc rằng bằng cách nào phái Đông-a bắt được Hoa-nhạc tam nương, thì Hoa-nhạc Tam-nương nổi giận phừng phừng mắng Thủ-Huy, rồi Thủ-Huy dọa thuật rõ nguyên do. Tam-nương cũng phải xuống nước năn nỉ.
Long-Xưởng tuyên chỉ cho Như-Như :
– Thất muội ! Em đưa Vân-Đài tiên tử vào thay y phục, rồi vào ngự-thiện đường đàm luận.
Như-Như, Vân-Đài đi rồi, Long-Xưởng quay lại xin thỉnh ý Minh-Đạo vương, thì không thấy vương với Bạch-Phượng đâu cả. Thì ra lợi dụng trong lúc mọi người xem Thủ-Huy, Vân-Đài đấu kiếm, hai người đã ra đi.
Long-Xưởng, Thủ-Huy, Đoan-Nghi kiểm điểm lại những vật dụng trong cái túi của Vân-Đài : Một ít vàng, bạc, cặp vòng đeo tay bằng ngọc xanh biếc, một cái nhẫn nạm kim cương. Những thức này không ai chú ý cả. Kế tiếp là hai tập sách mỏng. Một tập ghi chép những võ công mà Vân-Đài đã luyện, toàn là võ công Hoa-sơn. Tập thứ nhì dầy hơn ghi chú tình hình Đại-Việt : Từ những sự lớn như đồn trú của các hiệu Thiên-tử binh, thủy quân, các hiệu binh địa phương, nơi đồn trú lương thảo… Tình hình triều đình, nội cung, tiểu sử chư đại thần. Nhất là cuộc chuẩn bị Bắc tiến. Nghĩa là trọn vẹn tình hình Đại-Việt. Bất giác Long-Xưởng rùng mình nói với Đoan-Nghi :
– Suốt bao năm qua, lúc nào ta cũng lo lắng bất an, vì xung quanh ta mai phục một con rắn độc mà không ai tìm ra ; lắm khi ta sợ nó đến không còn biết mình là ai nữa. Bây giờ ta mới biết, con rắn đó là Á-Nương, mà Á-Nương lại là Vân-Đài, y thị làm việc cho Tống. Bọn Tống cài người thực tài, họ cho Vân-Đài lọt vào nhà họ Đỗ, rồi từ gia nhân họ Đỗ, thị trở thành Á-Nương cung Chiêu-Linh. Cuối cùng từ cung Chiêu-Linh sang Đông-cung. Còn cái gã Lạc-Nhạn, không biết y ẩn ở đâu ?
Thấy Tăng Khoa cau mày trầm tư không nói, Long-Xưởng hỏi :
– Lục đệ ! Ta thấy dường như lục đệ không mấy đồng ý với ta thì phải.
– Không hẳn thế. Đệ thấy vụ này có nhiều nghi vấn. Nghi vấn thứ nhất là bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ mới sang gần đây, trong khi Á-Nương đã được đưa sang từ lâu. Làm sao y thị là Vân-Đài được? Nghi vấn thứ nhì là, Á-Nương làm gia nhân họ Đỗ từ thủa mười hai tuổi, với cái tuổi đó, Tống không thể huấn luyện thị làm tế tác cho họ. Thứ ba, nếu Á-Nương là đệ tử phái Hoa-sơn, thị sang Đại-Việt từ năm mười hai tuổi, vậy thị học võ bao giờ mà leo tới địa vị đệ nhất nhân trong Hoa-nhạc Tam-nương ? Ta cần thẩm vấn mụ.
Lát sau, Như-Như dẫn Vân-Đài ra Ngự-thiện đường. Mụ mặc cái áo cánh lụa mầu tím, quần đen, bước đi nhẹ nhàng, dáng điệu uyển chuyển đẹp vô cùng. Chỉ tiếc cái mặt mụ méo, da dăn deo, coi không tương xứng tý nào cả. Mụ nói với Long-Xưởng :
– Thái tử ! Tiểu tỳ có nhiều lỗi với thái-tử. Nay sự đã ra thế này, tiểu tỳ xin thái-tử cho tiểu tỳ được cung khai với Trần phò mã.
Long-Xưởng gật đầu nói với Thủ-Huy :
– Điều đó không khó, nhị đệ hỏi cung Á-Nương đi.
Thủ-Huy dẫn Á-Nương vào ngự-thư phòng của Long-Xưởng, rồi đóng cửa lại.
Á-Nương nói với Thu-Huy bằng giọng ngọt ngào đầm ấm :
– Thủ-Huy đại ca ! Đại ca có biết muội là người thế nào không ?
– Dĩ nhiên là không. Xin tiên tử đừng gọi tôi là đại ca, vì tuổi của tiên tử lớn hơn tôi nhiều.
Á-Nương ngồi xuống trước mặt Thủ-Huy, rồi từ từ bóc miếng da dán trên trán, hai miếng nữa dán hai bên má. Lập tức cái mặt méo biến thành khuôn mặt thanh tú. Mụ lại lấy khăn lau mặt, bất giác Thủ-Huy ngẩn người ra . Bây giờ Á-Nương trở thành một tuyệt thế giai nhân tuổi khoảng mười tám hai mươi. Nước da trắng mịn, đôi môi hồng mọng, mũi dọc dừa, đôi mắt u uẩn nét buồn xa xôi. Thủ-Huy rùng mình :
– Nàng đẹp hơn Thụy-Hương, Đoan-Nghi nhiều. Aùi chà ! Với sắc diện này, người ngoài nhìn vào thì tưởng Á-Nương mười chín, đôi mươi là cùng. Nét xuân của nàng có trẻ hơn tuổi thì cũng hơn mình khoảng bốn năm tuổi thôi. Mà hồi ở Thiên-trường, Nghi-Ninh sư thái nói người từng sang Hoa-sơn kết thân với đạo cô Vân-Đài tiên tử. Như thế Vân-Đài này với Vân-Đài kết bạn với Nghi-Ninh không phải là một người. Vậy thì cái nàng Vân-Đài này đã hóa trang giả làm đạo cô Vân-Đài già kết thân với Nghi-Ninh năm xưa. Ta phải cẩn thận mới được.
Thủ-Huy nghĩ đến đây, thì Vân-Đài đã lau mặt, bao nhiêu bột hóa trang đã mất hết. Nàng đẹp huyền ảo như người đi đêm. Không kiềm chế nổi, Thủ-Huy bật lên tiếng kêu :
– Ái chà !
Rồi chân tay công run run, nói trong hơi thở ngập ngừng :
– Như…Như thế này nghĩa là thế nào ? Tại sao tiên tử lại trẻ thế này ? Trẻ thế này mà là người cầm đầu Hoa-nhạc tam nương ư ? Tiểu bối nghĩ tiên tử không phải là đạo cô Vân-Đài đã kết bạn với Nghi-Ninh sư thái. Hôm ở Thiên-trường, tiên tử hóa trang giống đạo cô Vân-Đài đến độ Nghi-Ninh sư thái cũng tưởng là một.
Vân-Đài thở dài, nàng nhìn Thủ-Huy với đôi mắt chứa chan yêu thương, rồi nói bằng âm thanh ngọt ngào nhỏ như tơ :
– Trần đại ca ! Chắc đại ca muốn biết sự thực tất cả những gì xung quanh muội phải không ?
– Quả…Quả như tiên tử nói.
– Nếu cuộc đời của công chúa Đoan-Nghi, của vương phi Trang-Hòa, từ lúc sinh ra, trên bước đường đi đầy hoa thơm cỏ lạ ; thì cuộc đời của muội sinh ra, như đi trên con đường toàn chông gai, đầy rắn độc. Khi mới lớn lên, muội tự an ủi rằng, lúc thiếu thời mình gặp tân khổ, thì khi trưởng thành sẽ gặp may mắn. Nhưng… nhưng khi vừa lớn, thì muội gặp đại ca. Vô tình thân thể muội để lộ ra hết trước mặt đại ca. Hỡi ơi ! Kể từ đấy , tất cả tâm ý muội đều dành cho đại ca, mà nào đại ca có biết ! « Nhất kiến chung tình » (chỉ thấy một lần, đã yêu trọn đời ), trong hơn mười năm qua, đại ca thì vẫn ở trước mặt, mà giống như hoa trong gương, bóng chim dưới nước. Thấy thì vẫn thấy hằng ngày, nhưng lại nghìn trùng xa cách.
Nói đến đây nàng bật lên tiếng khóc.
Thủ-Huy mở to mắt nhìn Vân-Đài, nghe nàng nói mà tưởng như trong giấc mơ. Công không tin ở tai mình nữa. Công nghĩ thầm : Hay mình đang mơ ? Bất giác công bẹo vào má mình, thì cảm thấy đau. Như vậy là sự thực ư ? Công định lên tiếng hỏi, thì Vân-Đài ra dấu bảo im lặng :
– Đại ca đừng hỏi nhiều, thời gian muội ở cạnh đại ca không lâu nữa đâu. Không chừng lát nữa đây người ta sẽ giết muội, hầu bảo toàn cơ mật cũng nên. Để muội thuật trọn cuộc đời muội cho đại ca nghe.
Vân-Đài ngước mắt nhìn lên nóc điện, lồng ngực nàng chuyển động một cái, công cảm thấy hồn phách bay phơi phới :
– Tiểu muội họ Vương tên Thúy-Thúy, đệ tử của phái Hoa-sơn. Như đại ca biết, phái Hoa-sơn nổi danh Thiên-hạ về khoa Tướng-mệnh, Địa-lý, Tử-vi. Hồi muội mới ra đời, thì một đạo cô phái Hoa-sơn tính số, rồi nói rằng : « Số đứa trẻ này đúng vào cách trong Tử-vi kinh. Tử-vi kinh nói : Phượng hàm thư nhi phùng Nhật, Nguyệt, Tam-kỳ lai nhập Tử, Sinh. Nam tất uy bá quyền danh, nữ tất danh đằng xướng vũ ». Đại ca có hiểu ý nghĩa câu này không ?
– Tôi…Tôi có học Tử-vi. Câu này nghĩa là: Khi mệnh có Phượng-các, Tấu-thư, Thái-âm hay Thái-dương thủ, lại thêm Khoa, Quyền, Lộc nữa… Nếu là nam, thì uy quyền tới bá, nếu là nữ thì vang danh thiên hạ vì ca, múa. Nếu đúng như vậy thì mệnh tiên tử lập tại Tuất, Thái-âm, Phượng-các thủ mệnh, tam hợp đươcï Khoa, Quyền, Lộc.
– Đúng thế ! Đạo cô còn nói : Năm mười sáu tuổi, muội sẽ gặp một đại hạn suýt chết đuối, sau đó dây oan nghiệt đưa đẩy, khiến thân thể muội sẽ bị lộ toàn diện ra trước mặt một người đàn ông. Cái người đàn ông đó chính là người tình quân trọn đời của muội. Cho nên hôm muội bị lộ liễu thân thể trước mặt đại ca ở Thiên-trường, thì muội biết đại ca sẽ là người mà muội trao thân. Dù hồi ấy đại ca mới mười hai tuổi, trong khi muội thì hoa đã chớm nở. Bấy giờ, phản ứng tự nhiên của người con gái, muội mắng đại ca, chửi đại ca. Nhưng sau nghĩ lại, muội thầm yêu, trộm nhớ đại ca, nguyện dâng hiến trọn đời cho đại ca.
Nước mắt rưng rưng, Vân-Đài tiếp :
– Vị đạo cô còn nói với gia gia, má má muội : Người quyết không để cho muội sa vào vòng ca xướng, sau này muội lớn lên, người sẽ nhận muội làm đệ tử. Như vậy muội tất sẽ có cái uy bá quyền danh, chứ không có cái danh đằng xướng vũ. Khi muội năm tuổi, thì đạo cô đem muội lên núi Hoa-sơn, thu làm đệ tử. Sư phụ giao muội cho nhiều thầy khác nhau, thay phiên dạy. Muội được học đủ thứ : Nào học văn, nào luyện võ, nào được học tiếng Việt, lịch sử Việt.
Thủ-Huy ngắt lời :
– Trong phái Hoa-sơn, chỉ mình tiên tử được dạy đặc biệt như thế, hay còn nhiều người khác nữa ?
– Tất cả các đệ tử trên dưới muội mười tuổi, đều được học giống nhau. Trong khi dạy, các thầy đều nhắc đến mối hận Tứ vị Hoa-sơn thần kiếm bị cầm tù, rồi chết ở Đại-Việt. Toàn thể đệ tử phái Hoa-sơn phải ghi ngớ trong lòng ngày đêm là làm sao sang Đại-Việt tìm bộ Vô Trung kinh đem về. Bộ võ kinh này hiện ở trong khu vực tổng đường phái Đông-a, thì việc dùng võ công đoạt lại e còn khó hơn bắc thang lên trời. Muốn tìm bộ võ kinh này phải theo hai con đường. Con đường thứ nhất là đệ tử Hoa-sơn đầu quân làm tướng Tống, rồi khích cho Tống, Việt có chiến tranh. Khi chiến tranh diễn ra, chư đệ tử Hoa-sơn đều tình nguyện sang đánh Đại-Việt. Lúc Tống thắng Đại-Việt rồi, thì viên tướng đệ tử Hoa-sơn sẽ đem quân về Thiên-trường tìm võ kinh. Hoặc con đường thứ nhì là sao cho đệ tử Hoa-sơn trở thành một đại thần Đại-Việt, rồi tìm cách vu vạ cho phái Đông-a làm phản, xin triều đình mang quân về tiễu trừ. Bấy giờ viên đại thần đệ tử Hoa-sơn sẽ đoạt lại kinh thư.
Nghe Vân-Đài kể, Thủ-Huy thất kinh hồn vía, công nghĩ thầm :
– Từ trước tới giờ, từ ông nội ta cho đến các yếu nhân phái Đông-a đều cho rằng Tống gửi mật sứ sang Đại-Việt với chủ tâm muốn chiếm nước. Vô tình trong sứ đoàn, có một vài đệ tử phái Hoa-sơn, họ lợi dụng dịp đó để đi tìm võ kinh. Bây giờ, theo Vân-Đài, thì tất cả mọi sự đều do phái Hoa- gây ra cả.
Quốc-công hỏi
– Thế sư phụ của tiên tử là ai ?
– Là Nam-Nhạc Hằng-sơn đạo sư.
– Hồi Nghi-Ninh sư thái sang Trung-nguyên kết thân với Vân-Đài tiên tử. Thế sao tiên tử cũng là Vân-Đài ? Ai là Vân-Đài thực ?
– Hỡi ơi, đến Đại-ca mà cũng không biết rằng những gì là Ngũ-nhạc đại lĩnh, Hoa-nhạc tam phong, Hoa-nhạc tam nương đều là những chức chưởng chứ không phải là tên. Như phái Tiêu-sơn có chưởng môn, Thủ-tọa Vạn-Hạnh đường, Thủ-tọa Tỳ-ni Đa-lưu-chi đường, Thủ-tọa Bố-Đại đường. Vì vậy trước đây đã có vị tiền nhiệm lĩnh chức Thống-lĩnh Vân-Đài sơn nên người đời gọi là Vân-Đài tiên tử, thì nay muội thay người lại là Vân-Đài thì có gì là lạ đâu.
Một tia sáng lóe trong tâm Thủ-Huy :
– Theo Long-Xưởng kể, hồi Côi-sơn song ưng giết cả nhà Đỗ Anh-Vũ, Tô Hiến-Thành đưa ra ý kiến cứ đổ cho Song-ưng là người của phái Đông-a, rồi Cảm-Thánh ban chỉ bắt nhà vua phải nhận mưu đó. Vậy không biết Tô có làm gian tế cho Tống khi hiến kế này không ? Liệu Cảm-Thánh chấp nhận ý kiến này, là do ý bà hay bà bị Tống xúi dục ?
Công hỏi :
– Hiện trong triều đình Đại-Việt những đại thần nào là người của phái Hoa-sơn ?
– Chính thức thì chưa, hoặc có nhưng muội không biết cũng nên. Điều muội biết chắc rằng ít nhất có hàng chục người ăn cơm Đại-Việt, mà cúi đầu làm thân trâu ngựa cho phái Hoa-sơn. Khoan rồi muội sẽ vạch mặt bọn này cho đại ca biết. Bây giờ muội thuật tiếp : Hồi Mao Bình về Trung-nguyên đúng vào lúc sư bá Ngô Lân coi Khu-mật viện. Mao thuật hết tình hình Đại-Việt cho Khu-mật viện Tống. Ngô sư bá mới thấy rằng việc cho đệ tử Hoa-sơn làm quan bên Đại-Việt rất khó. Bởi muốn làm quan võ, hay quan văn đều phải qua cuộc thi tuyển. Muốn được ứng tuyển phải cung khai lý lịch tam đại, rồi do làng, xã chứng thực, thì người Trung-quốc làm sao mà lọt vào được ? Mà dù có lọt vào được, thì phải hơn mười năm mới có thể thành đại thần. Cuối cùng Ngô sư bá cật vấn Mao tình hình Đại-Việt từ hồi triều Lý mới lập. Ngô sư bá thấy rằng :
« Thời đức Thái-tổ, có nạn Đàm quý phi được sủng ái, rồi phụ thân của bà là Đàm Can lộng hành làm phản. Đời đức Thái-tông, ngài sủng ái Thiên-Cảm hoàng hậu, rồi đưa đến phụ thân bà là tể tướng Dương Đức-Thành mưu cướp ngôi. Tuy ông ta bị cách chức, nhưng Thiên-Cảm hoàng hậu vẫn còn đó. Cho nên sang đời vua Thánh-tông, bà đưa cháu vào ngôi Thượng-Dương hoàng hậu. Đến đời vua Thánh-tông, một lần nữa anh cả Thượng-Dương thái hậu là Dương Đạo-Gia cũng mưu cướp ngôi. Còn vua Thánh-tông thì lại đem một cô gái quê về phong làm Ỷ-Lan phu nhân, rồi thành Linh-Nhân hoàng thái hậu ».
Ngô sư bá tìm ra đươc một kẽ hở của triều đình Đại-Việt. Kẽ hở đó là : Các bà trong hậu cung tham dự vào việc triều chính dễ dàng. Vậy, nên tuyển những nữ đệ tử thực đẹp, rồi tìm cách cho lọt vào nội cung Đại-Việt. Khi lọt vào hậu cung, may mà được ban hồng ân, thì nữ đệ tử sẽ dùng tất cả các ôn nhu văn nhã, cái văn tài, cái nghệ thuật đàn ngọt, hát hay, cũng như tài thêu may, tài nấu nướng để được lòng nhà vua. Môn phái sẽ cử những bậc trưởng thượng ngồi trong bóng tối cố vấn cho nữ đệ tử đó thu phục nhân tâm từ thái-hậu, hoàng-hậu, cho tơí các bà phi, hoàng tử công chúa. Nếu như đệ tử đó thành hoàng hậu hay thứ phi, thì chẳng mấy chốc trở thành một Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bấy giờ phái Hoa-sơn sẽ xin Tống triều cử sứ sang bắt Đại-Việt trả bộ Vô Trung kinh. Vị đệ tử phi tần vốn đã có uy tín, một mặt xin nhà vua, một mặt dùng uy tín, tình cảm ảnh hưởng tới triều đình. Bấy giờ triều đình ban chỉ xuống, thì phái Đông-a không thể từ chối.
Nói đến đây nàng mỉm cười :
– Ngô sư bá quyết định tuyển ba người thực đẹp để kế vị ba sư muội của người làm Hoa-nhạc tam nương. Người đầu tiên được tuyển là muội, sẽ kế vị là Vân-Đài. Người thứ nhì, thì gốc ở Dương-châu. Người này là con gái của sư thúc Công-Chúa vớùi sư bá Lạc-Nhạn. Sư thúc Công-Chúa sinh đẻ nàng ở Đại-Việt. Nàng sẽ được cha mẹ dạy dỗ, để kế vị thân mẫu thành Công-Chúa tiên tử. Còn người thứ ba là dân Hàng-châu. Người này được dạy dỗ để thành Mao-Nữ.
– Hai người kia có đẹp bằng tiên tử không ?
– Muội chưa được gặp họ. Theo sư phụ, thì mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười ! Như đại ca biết, từ khi hai vua Tuyên-hòa, Tĩnh-khang bị Kim bắt mang về Bắc, thì con thứ chạy xuống Giang-Nam lập ra triều Nam Tống, đóng đô ở Hàng-châu, rồi cải danh Hàng-châu thành Lâm-an cho đến nay. Sư bá Ngô Lân bấy giờ đang làm đại thần triề