Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông

Chương 15: Quốc Danh An-nam


Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 15: Quốc Danh An-nam

Quốc danh An-Nam
Niên hiệu Chính-long Bảo-ứng nguyên, đời vua Lý Anh-tông Đại-Việt.
Bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Long-hưng nguyên niên, đời vua Hiếu-tông nhà Nam-Tống (Quí-Mùi 1163).
Mùa Xuân tháng giêng, ngày 20 .
Cuối năm trước, triều đình nghị, tâu lên nhà vua xin đổi niên hiệu Đại-Định thành Chính-long Bảo-ứng kể từ mùng một tháng giêng. Nhà vua chuẩn tấu.
Hôm nay, triều đình thiết đại triều taiï điện Càn-nguyên để nghị việc cử sứ thần sang Tống triều cống.
Ba hồi chiêng trống, nhạc tấu bản Nguyên-thọ.
Chính-long Bảo-ứng hoàng đế ( Tức vua Lý Anh-tông) từ trong cung khoan thai tiến ra, theo sau nhà vua là thái tử Long-Xưởng. Bách quan văn võ chia làm hai hàng quỳ hai bên ngai vàng. Nhà vua bước lên ngai ngồi, lễ quan hô:
– Bình thân.
Bách quan đứng dậy. Thái tử Long-Xưởng ngồi ở chiếc ghế bên trái nhà vua. Phía sau thái-tử có Thái-tử thiếu bảo Trần Thủ-Huy và Thái-tử mật thư tỉnh sự Tăng Khoa. Đây là hai viên quan trẻ nhất của triều đình Chính-long Bảo-ứng. Lại có ba ghế cho ba hoàng tử là Kiến-Ninh vương Long-Minh, lĩnh đại đô đốc thủy quân, Kiến-An vương Long-Đức tổng trấn Thăng-long kiêm tổng lĩnh cấm-quân, Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa tổng trấn Thanh-Nghệ. Một ghế khác đặt sau ngai vàng cho công chúa Đoan-Nghi ngồi. Sau công chúa có quận chúa Bùi Trang-Hòa, Từ Thụy-Hương, Đào Như-Như .
Một đại thần bước ra quỳ tâu:
– Thần, Kiểm-hiệu Thái-úy, Đồng-bình chương sự, Trung-vũ quân tiết độ sứ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Khu-mật viện sứ, lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, Đăng-châu quốc công, Tô Hiến Thành kính tâu.
Thái-tử Long-Xưởng ban chỉ :
– Xin Thái-úy bình thân.
– Chương trình nghị sự hôm nay gồm có: Cử sứ đoàn sang Tống triều cống, làm lễ mãn tang Thái-sư Lưu Khánh-Đàm và Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền. Trước hết là việc cử sứ đoàn sang Tống triều cống, việc này xin để Lễ-bộ thượng thư tâu trình.
Một đại thần từ văn ban bước ra quỳ gối:
– Thần Ngô Lý-Tín, Dao-thụ Thái-phó, lĩnh Cần-chính điện đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Trường-yên quốc công kính tâu.
Long-Xưởng ban chỉ :
– Xin Thái-phó bình thân.
– Theo lệ, ba năm triều đình phải cử sứ sang Tống tu cống một lần. Năm nay, bệ hạ đã chuẩn tấu cho Lễ-bộ tham tri Trần Quang-Canh làm chánh sứ, Lại-bộ thị lang Vũ Du làm phó sứ. Cống vật gồm có mười hũ nước tại giếng Mỵ-Châu ở Cổ-loa, hai mươi cân hương liệu, mười hũ mật ong, hai trăm con trâu đực, hai trăm con trâu cái, hai trăm con ngựa đầy đủ yên cương, năm con voi lớn, mười thợ mộc, mười thợ sơn, mười thợ nề, mười thầy bói, mười tăng sĩ, trăm võ sĩ. Kể cả chánh, phó sứ, phu khuân vác, quản tượng … sứ đoàn gồm 120 người. Nhân sự, lễ vật đã đầy đủ, chỉ còn chờ ngày lên đường.
Ghi chú của thuật giả:
Huyền sử nói rằng, sau khi Mỵ-Châu bị vua An-Dương giết chết, thì máu chảy xuống biển, con trai ăn máu đó, nên ngọc trai có mầu sắc đỏ, tím, xanh v.v. Còn Trọng-Thủy trở về Cổ-loa, phần thương tiếc vợ, phần hối hận, y nhảy xuống giếng tự tử. Giếng đó gọi là giếng Trường-hận. Mỗi khi ngọc trai bị mờ, đem rửa bằng nước giếng Trường-hận thì ngọc trở thành óng ánh rất đẹp. Sự việc này, các lái buôn ngọc đồn sang Trung-quốc. Cho nên về sau, mỗi khi Đại-Việt sang cống Trung-quốc, bao giờ cũng cống nước giếng Trường-hận, các bà hoàng hậu, phi tần dùng để rửa ngọc trai.
Hiện dân Hà-nội vẫn dùng nước giếng Trường-hận để rửa ngọc trai.
Xin độc giả kiên nhẫn, giếng Trường-hận vẫn còn tại cố đô Cổ-loa, thường được gọi là giếng Mỵ-Châu. Tháng 8, năm 1997, thuật giả sẽ cùng phái đoàn y khoa châu Âu công tác tại Việt-Nam. Dịp này thuật giả sẽ lấy nước giếng ấy, đem về phân tích xem thành phần nước gồm chất gì, mà có thể làm bóng ngọc trai. Kết quả, sẽ công bố sau.
Nhà vua hỏi quần thần:
– Chư khanh có ý kiến gì không?
Các quan đều im lặng. Thái-tử Thiếu-bảo Trần Thủ-Huy hỏi:
– Thưa đại học sĩ. Đời đức Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông, lễ cống rất giản tiện, chỉ có tính cách tượng trưng, cũng không cống người. Tại sao, và từ bao giờ, lễ vật tăng lên nhiều như vậy? Lại nữa, còn cống cả người? Nếu như ta không cống đủ có được chăng?
Ngô Lý-Tín đưa mắt nhìn Tô Hiến-Thành, ngụ ý để ông này trả lời.
Tô Hiến-Thành đáp :
– Kể từ thời Anh-vũ Chiêu-thắng đời đức Nhân-tông (1077), sau khi Quách Quỳ, Triệu Tiết rút khỏi Đại-Việt, triều đình chủ trương mềm với Tống để được yên. Cho nên từ bấy giờ đến nay, bất cứ Tống yêu sách gì, ta cũng nhượng bộ để dân chúng khỏi bị binh cách, quốc sản khỏi bị thiếu hụt.
Nhà vua ban chỉ:
– Hôm nay có nhiều tân quan chưa am tường điển lệ . Vậy Tô thái-úy hãy nhắc lại những biến cố gần đây giữa Tống, Kim, Liêu, Mông-cổ cho tân quan am tường.
Hiến-Thành tâu tiếp :
– Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ nhì đời vua Thần-tông bản triều (Giáp Dần, 1134), Trương Tuấn, Ngô Giới, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung, Nhạc Phi đại phá quân Kim ở Kinh-châu; thế của Tống oai trấn Hoa-hạ. Nhạc Phi gửi hịch đi khắp nơi kêu gọi nghĩa sĩ đứng lên, quyết đánh sang Kim đem hai vua về. Anh hùng hào kiệt tụ dưới cờ đông không biết bao nhiêu mà kể.
Thủ-Huy thở dài :
– Chắc bấy giờ triều đình thấy thế Tống mạnh lên mới sai sứ sang thần phục, tu cống, để rồi họ sai sứ sang phong cho ta! Tống mới lập lại nước, quốc sản khánh kiệt, nên họ đòi ta cống nhiều như vậy; lại nữa nhân tài của họ như lá mùa thu, nên chi mới bắt ta cống người. Có phải thế không?
Trên gương mặt Hiến-Thành hiện ra nét ngượng ngập. Oâng ta trả lời bằng cái gật đầu.
– Tiếc quá!
Long-Xưởng than: Giả như lúc đó ta cho người lên liên binh với Kim Ngột-Truật, chia đôi giang sơn Tống, có phải là điều thống khoái kim cổ không? Hoặc giả, ít ra ta cũng bắt Tống phải công nhận quốc danh ta là Đại-Việt, hai nước trong thế ngang hàng, khỏi phải cúc cung tu cống, để khỏi phải cúi đầu nhận cái tước Giao-chỉ quận vương.
Thấy nét mặt Tô Hiến-Thành hiện ra vẻ không phục, nhà vua hỏi:
– Tô thái bảo! Thái bảo có ý kiến gì về những lời nghị sự của thái tử?
Tô Hiến-Thành tâu:
– Nghe thái-tử luận, thần lấy làm lo lắng vô cùng. Trong tương lai, thái-tử sẽ lên ngôi Cửu-ngũ. Bấy giờ, những gì thái-tử bàn hôm nay, mà đem áp dụng, thần e Đại-Việt ta lại đi vào cái họa như Khai-Quốc vương, như Linh-Nhân hoàng thái hậu đã làm. Chiến tranh diễn ra, người chết như rạ, mà kết quả đâu lại vào đấy.
Thái-tử thiếu-bảo Trần Thủ-Huy, bước ra vái Tô Hiến-Thành :
– Thưa Tô thái-úy! Không biết Thái-úy căn cứ vào đâu mà lại có ngôn từ cho rằng việc làm của Khai-Quốc vương, của Linh-Nhân hoàng thái hậu là sai lầm? Theo như ngu ý của tiểu sinh thì, ngay khi đức Thái-tổ, Thái-tông còn tại thế, mà các người cũng phải công nhận quốc sách giữ nước của Khai-Quốc vương là tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Đức Thánh-tông tôn vinh người là Quốc-phụ. Còn công nghiệp của Linh-Nhân hoàng thái hậu với ngài Thái-úy Thường-Kiệt, thực vĩ đại vô cùng. Thế mà Thái-úy cho rằng là cái họa ư?
Tăng Khoa tiếp lời Thủ-Huy :
– Quốc sách giữ nước của Khai-Quốc vương, của Linh-Nhân hoàng thái hậu nói ra thì dài, nhưng có thể tóm lược trong một câu : « Tôi với anh là anh em, là con cháu vua Thần-nông. Anh là anh, tôi là em. Chúng ta có cùng một giòng máu. Chúng ta phải yêu thương nhau, cùng mưu hạnh phúc cho dân. Anh không thể lấy thịt đè người. Nếu anh để tôi yên, thì anh có một Nam phương yên ổn. Còn anh cứ muốn ngồi lên đầu lên cổ tôi, thì anh sẽ bị tôi vật cổ xuống đất. Có thế thôi ».
Hiến-Thành thấy hai đứa trẻ con , mà dám bắt bẻ mình, ông định lên tiếng mắng, nhưng chợt nhớ ra rằng phàm khi thiết đại triều, ai cũng có quyền góp ý ; vả lại ông cũng ớn võ công của Thủ-Huy, Tăng Khoa. Ông tái mặt, chữa:
– Này Trần thiếu-bảo, Tăng tỉnh sự. Tôi chưa nói hết ý. Tôi muốn nói: Tài trí chúng ta không bằng Khai-Quốc vương, uy đức chúng ta không bằng Linh-Nhân hoàng thái hậu; quốc sản, binh lực không bằng thời vua Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông, mà chúng ta muốn làm những việc như Khai-Quốc vương, như Linh-Nhân hoàng thái hậu, thì e là mối họa lớn mà thôi.
Hiến-Thành muốn thoát ra khỏi lời buộc tội của Trần Thủ-Huy, ông ta hỏi thái tử:
– Thần muốn Thái-tử cho biết, đối vối việc tu cống này ta có nên giữ nguyên hay thay đổi?
Long-Xưởng hỏi Thủ-Huy :
– Nhị đệ nghĩ sao ?
Thủ-Huy chắp tay :
– Ta nên thay đổi một phần, và giữ lại một phần.
Nhà vua khuyến khích :
– Khanh nói đổi là đổi những gì ? Giữ là giữ những gì ?
– Tâu : Lúc này Tống yếu hơn thời Vương An-Thạch làm tể tướng. Họ chỉ còn phân nửa giang sơn, Kim ở phía Bắc đang mạnh. Ta lợi dụng cái thế ấy, mà bắt ép họ. Mấy năm trước, ta đã khám phá ra Tống gửi mật sứ sang mưu chiếm nước ta. Triều đình nghị rằng ta không thể giết chúng, nên đã cho Lưu Kỳ, Mao Khiêm cùng một số tùy tòng về Tống để dằn mặt họ. Nhưng Lưu Kỳ, Mao Khiêm sợ rằng không làm tròn sứ mạng, sẽ bị giết nên chúng trốn biệt. Còn bọn Hoa-sơn thì ta vẫn giam lỏng tại bãi Ngọc-thụy. Từ đó đến giờ, Tống không biết tin tức của mật sứ. Họ không dám hỏi ta, vì nếu hỏi thì hỏi sao ? Không lẽ lậy ông tôi ở bụi này ?
Triều đình cùng gật đầu công nhận lý của Thủ-Huy thực chính xác.
– Bây giờ ta sai sứ sang cho họ biết mọi chi tiết về vụ họ gửi mật sứ sang, ta khám phá ra, và bắt giam bấy lâu. Sứ ta hỏi : Tại sao ta vẫn tiến cống, mà họ lại gây hấn ? Sứ ta bỏ lửng không đặt điều kiện gì hết. Đó là ta mềm với họ.
Tể tướng Đỗ An-Di hỏi :
– Tiểu huynh đệ, nếu như họ chịu lỗi thì sao ?
– Ta vẫn mềm. Ta hứa trả hết tù nhân. Rồi ta cứng : Ta đòi họ phải chấp nhận hai điều. Một là, công nhận quốc danh Đại-Việt, chứ không được coi ta là quận Giao-chỉ nữa. Tuy nhiên ta vẫn nhún, ta chịu nhận sắc phong. Khi họ sai sứ sang phong cho ta, thì phải phong ngay là Đại-Việt hoàng đế. Chứ không thể phong là Giao-chỉ quận vương. Hai là, về việc tu cống. Ta nửa mềm, nửa cứng. Ta biết rằng Tống đã nghị hòa với Kim, chịu tiến cống xưng thần với Kim, thế họ tương đối mạnh … việc ta tu cống lâu riết rồi thành lệ, nếu ta hủy bỏ hoàn toàn thì e bọn mặt dơi tai chuột trong triều Tống sẽ bàn luận rắc rối. Nhưng ta có thể thay đổi, đó là phần cứng. Ta chỉ cống phẩm vật thôi, không cống người, cũng không cống voi, ngựa, trâu nữa. Sứ ta sang, phải tỏ ra cứng rắn, bắt họ công nhận quốc danh. Khi Tống công nhận quốc danh rồi, ít năm sau, ta chỉnh bị binh mã cho hùng cường, ta sẽ tiến tới bỏ tu cống . Hằng năm, hai nước chỉ sai sứ sang thông hiếu mà thôi. Mặt khác, ta liên binh với Kim, hai bên cùng ra binh. Thành công, tiến lên ta có thể đòi lại cố thổ thời vua An-Dương, vua Trưng. Hèn ra, ta cũng quay mặt lên Bắc nói truyện với Tống theo thế mạnh.

Thủ-Huy nhìn Tô Hiến-Thành :
– Từ khi hoàng thượng dẹp được cái triều đình gà mái gáy đến nay đã bốn năm, uy quyền tái lập, quốc sản dư thừa. Mười hai hiệu Thiên-tử binh được thao luyện, được vũ trang hùng mạnh như xưa. Các hiệu binh địa phương, Hoàng-nam các xã cũng được huấn luyện khi hữu sự có thể giữ nổi địa phương mình. Bốn hạm đội khí thế không thua thời đức Thánh-tông, Nhân-tông. Họ gờm ta nhất là hiệu Kị-binh Phù-Đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư, hai đội võ sĩ Long-biên và Côi-sơn. Việc ta làm ồn ào như vậy, ắt tế-tác đã tâu về cho Tống triều. Nhất định họ gờm ta. Khi ta sai sứ sang Tống thì ta đem bốn hạm đội lên vùng Tiên-yên, Đồn-sơn thao luyện. Lại di chuyển mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu Kị-binh Phù-Đổng, Ngưu-binh Hoa-lư lên Bắc-cương để hù họ : Tôi áp dụng tiền lễ hậu binh. Nếu như anh chịu điều kiện của tôi đưa ra thì thôi. Bằng như anh không chịu, tôi sẽ giết hết bọn sứ đoàn rồi truyền hịch cho thiên hạ biết cái tội gây hấn của các anh. Sau đó tôi kết thân với Kim, hai bên cùng ra quân. Như vậy, nhất định Tống phải thỏa mãn những điều ta đòi hỏi.
Thái-úy Tô Hiến-Thành tỏ vẻ không tin tưởng :
– Tâu bệ hạ, Tống đế với tể tướng Tần Cối, vốn chủ hòa với Kim. Tống đế nhường ngôi cho cháu, lên làm Thái-thượng hoàng, Long-Hưng hoàng đế chỉ là mộc vị. Tần Cối chết đã bẩy năm. Nhưng chính sách chủ hòa với Kim, ép các nước nhỏ vẫn không đổi. Bằng cớ la Tống triều mới truy phong cho Cối làm Thân-vương. Con Cối là Hy được phong tước công, hàm Thiếu-sư, lĩnh Quảng-Nam tiết độ sứ. Cứ như tin của Khu-mật viện thì hiện giữa Tống với Kim vô sự. Binh lực của Tống rất mạnh. Từ trước đến nay, Tống vẫn coi các nước nhỏ xung quanh là quận huyện của họ. Họ bị Kim đòi vàng, bạc, lụa là nhiều quá, công khố của họ không cung ứng nổi, họ mới bắt các nước nhỏ tu cống nhiều. Nếu nay ta không chịu cống cho họ, hơn nữa lại đòi tách ra thành một nước riêng, thì thần quyết họ không chịu. Bởi họ nhường ta, thì mấy chục nước khác cũng sẽ bắt chước, bấy giờ vua Tống không còn địa vị Thiên-tử nữa, các nước nhỏ sẽ cùng đánh chiếm Tống.
Ông nói với Thủ-Huy :
– Phàm vật cùng tất phản, uốn quá hóa cong. Ta đang là một quận huyện của Tống, nay bỗng dưng bật dậy mạnh quá, Tống sẽ đem binh đánh ta. Chiến tranh thực khó tránh.
Kiến-Ninh vương Long-Minh vốn ít nói, đây là lần thứ nhì vương lên tiếng :
– Thưa Thái-úy, không lẽ Đại-Việt ta cứ phải cúi đầu lạy người mãi sao ? Không lẽ ta sinh làm người Việt, mà cứ để cho người Hoa coi như man di mãi sao ? Kể từ đời đức Nhân-tông đến giờ, đây là thời gian ta mạnh nhất, Tống yếu nhất, mà ta không gỡ cái ách trên cổ, thì biết đến bao giờ gỡ cho nổi ?
Công-chúa Đoan-Nghi đứng dậy :
– Tâu phụ hoàng.
Thấy nhà vua ngơ ngơ, ngác ngác không có chủ trương gì, Long-Xưởng dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai phụ hoàng :
– Xin phụ hoàng tuyên chỉ theo thần nhi.
Rồi Long-Xưởng nói, nhà vua nói theo. Nhà vua dùng ngôn từ bình dân :
– Con gái yêu của bố. Con là Tiên-Dung của triều Hồng-bàng ; là tổ cô Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh thời đức Thái-tông ; là Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh thời đức Thánh-tông. Lời con tâu chắc là không thua các tổ cô. Con hãy ngồi xuống mà tâu.
Quần thần ngạc nhiên về lời nói văn hoa, tỏ ra yêu thương con gái trước triều đình của nhà vua, là điều hiếm hoi.
– Tâu phụ hoàng, ta với Trung-nguyên luôn ở vào thế cả hai không thể cùng đứng. Họ chỉ dám ra quân khi họ kéo được Chiêm đánh sau lưng ta. Nay Chiêm quy phục ta, thì muôn ngàn lần họ không dám đem binh sang gay hấn.
Kiến-An vương Long-Đức là người nổi tiếng nhiều mưu mẹo, vương tâu :
– Theo thần nhi, thì Tống hiện có ba điều nhược, họ không dám ra quân. Ví dù họ có ra quân, thì cũng không địch lại ta.
– Ba điều nhược đó là gì ?
Nhà vua hỏi.
– Một là, sau khi vua Tống nghe lời tể tướng Tần Cối, chủ hòa, nhường cả một vùng phía Bắc vốn là cố thổ của Trung-nguyên cho Kim. Dân chúng vùng Kim chiếm sống an vui, không bị nạn tham quan hà hiếp. Binh bị không phiền hà, trai không bị xung quân, nên việc nông tang phồn thịnh, ấm no. Suốt mấy chục năm qua, họ không nổi dậy chống Kim. Bởi họ nghĩ : Sống với Kim hạnh phúc hơn sống với Tống. Dân chúng hiện sống trong vùng cai trị của Tống, lại mong cho Kim chiếm vùng đất mình ở. Đó là nhược điểm thứ nhất của Tống.
Triều đình cùng công nhận lý giải của vương.
– Hai là, vua Tống nhờ Trường-giang ngũ hùng, nhờ võ lâm mà giữ được nước. Giữa lúc võ lâm, Trường-giang ngũ hùng tiến quân lên tới Chu-tiên trấn, chỉ dơ tay ra là đuổi Kim khỏi Biện-kinh, khôi phục giang sơn. Thế mà nhà vua bắt rút quân, rồi giết cha con Nhạc Phi. Trương Tuấn, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung bị đem về triều làm tướng không quân, bị khinh khi, bị làm nhục. Ngô Giới phải giả chết. Gần đây Trương Tuấn cũng bị giết. Võ lâm, tướng sĩ đều chán nản. Nếu không có Kim ép bên cạnh, họ đã nổi dậy. Tống triều gì mà không biết điều đó ? Thần nhi quyết họ không dám ra quân đánh ta. Đó là điểm nhược thứ nhì của Tống.
Chư đại thần lại cùng gật đầu công nhận lý của Kiến-An vương.
– Ba là, Tống có lỗi với ta. Từ khi triều Nam Tống trung hưng ta luôn gửi sứ sang tu cống đầy đủ, thế mà họ gửi mật sứ sang mưu chiếm nước ta. Nếu nay họ không chịu yêu sách của ta, mà ta công bố điều đó, thì Tống không có cớ gì đem quân sang ta. Ngược lại ta lại có chính nghĩa. Đó là điều nhược thứ ba của Tống.
Nhà vua lại hỏi tể tướng Đỗ An-Di :
– Khanh là Tể-tướng, ý khanh thế nào ?
– Tâu bệ hạ, Tô Thái-úy là người cầm quân, thì việc này người biết nhiều hơn thần. Thái-tử, công chúa đều là những bậc trí tuệ siêu phàm. Thành ra thần không còn gì để luận nữa.
Thủ-Huy chửi thầm :
– Thằng cha này là tên có bản lĩnh làm quan cao nhất triều đình đây. Triều Lý, từ sau khi vua Nhân-tông băng đến giờ toàn một bọn ù lỳ, lo hưởng thụ. Ta vốn không muốn làm quan, mà muốn vì sự nghiệp Đại-Việt, ta phải can đảm. Y tránh né, thì ta phải làm tới.
Hầu tâu :
– Xin bệ hạ cho tất cả các đaiï thần cùng phát biểu.
Triều đình nghị luận một lúc thì, hầu hết là ý kiến không đứng giữa, không quyết định. Chỉ có Tô Hiến-Thành, Phí Công-Tín, Lý Kính-Tu, Trần Trung-Tá, Ngô Lý-Tín, Đàm Dĩ-Mông muốn nhún với Tống. Còn Long-Xưởng, Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa, Đoan-Nghi, Lý Long-Căn, Bùi Kinh-An, Lưu Khánh-Bình, Trần Thủ-Huy, Tăng Quốc, Tăng Khoa, Vũ Tán-Đường đều muốn cứng với Tống.
Nhà vua tuyên chỉ thuận theo ý kiến Thủ-Huy. Triều đình xin nhà vua giao toàn quyền cho thái-tử Long-Xưởng đảm trách vấn đề gai góc này. Việc điều Thiên-tử binh, dàn ra Bắc-biên trao cho cho Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy. Việc dàn thủy quân ở lãnh hải thì trao cho Kiến-Ninh vương Long-Minh. Việc tiếp tế lương thảo thì trao cho Kiến-An vương Long-Đức, Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa.
Lại tuyên chỉ cho Lễ-bộ thượng thư Ngô Lý-Tín:
– Việc tu cống coi như xong. Bây giờ tới vụ giỗ đoạn tang hai đại thần là Lưu thái sư và Hoàng thái phó. Khanh đã chuẩn bị xong chửa ?
– Tâu, chỉ còn hơn tháng nữa, thì tới ngày giỗ đoạn tang Lưu thái sư, Hoàng thái phó. Thần xin bệ hạ chuẩn gia phong chức tước cho hai đại công thần, nhiều công với Xã-tắc.
Nhà vua hỏi Thái-tử Long-Xưởng :
– Thần nhi định gì ?
– Tâu phụ hoàng, khi hai vị từ trần, thì tước là quốc công. Bây giờ xin gia phong lên tước quận vương, và thêm mỹ tự. Lưu thái sư xin phong là Minh-văn, Trung-thứ, Tráng-tiết quận vương. Hoàng thái phó xin phong là Cung-nhượng, Thuần-mẫn, Tuyên-đức quận vương. Truyền lấy công khố xây lăng thực lớn, trên khắc bia kể lại công nghiệp. Như vậy, mới tỏ cho thứ dân biết rằng triều đình luôn lao tưởng đến các bậc công thần.
– Trẫm chuẩn tấu.
Thái-tử hô :
– Bãi triều.
Huyền sử Đại-Việt kể rằng :
« …Sau buổi thiết triều nghị sự việc tu cống Tống, thì hơn tháng sau, sứ đoàn Đại-Việt lên đường. Kể cả chánh, phó sứ, chỉ có hai mươi người. Cống phẩm gồm hương liệu, một bộ trà bằng sứ bịt bạc, một cái án thư bằng gỗ trầm, hai cái tráp bằng gỗ quế.
Khi sứ đoàn khởi hành, thì cũng là lúc Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy điều mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu kị binh Phù-Đổng, hiệu binh trâu Hoa-lư dàn ra biên giới Hoa-Việt. Trong khi đó Kiến-Ninh vương dàn các hạm đội Thần-phù, Aâu-Cơ, Bạch-đằng, Động-đình lên Đồn-sơn. Thủy bộ phối hợp thao luyện liên tiếp trong ba tháng. Cứ mỗi lần dân Tống ở các vùng Quảng-châu, Khâm-châu, Liêm-châu, thấy Thủy-quân Đại-Việt trương buồm, dàn hàng ngoài khơi, là già trẻ, lớn bé la hoảng, bồng bế nhau chạy xa vùng bờ biển. Còn dân Tống ở vùng Ung-châu, thấy Thiên-tử binh dàn hàng tập trận, thì kinh hoảng, bỏ chạy. Binh tướng thì vào trong thành đóng cửa lại chuẩn bị tác chiến. Nhưng quân Việt chỉ tiến tới biên giới, rồi rút về.
Các viên trấn thủ Ung, Liêm, Khâm, Quảng-châu tưởng quân Việt sắp đánh tràn qua, vội vã cho ngựa trạm phi bất kể ngày đêm về kinh đô Lâm-an cáo cấp.
Từ mấy năm nay, Khu-mật viện Tống triều được tế-tác báo cho biết rằng Đại-Việt đã chỉnh đốn lại chính sự như xưa, binh lực cực hùng mạnh, dường như có ý dòm ngó Nam thùy.
Tin quân Việt thao diễn ở vùng biên giới cáo cấp về tới Tống triều, thì cũng đúng lúc sứ đoàn Đại-Việt đến tu cống. Phó tể tướng Ngu Doãn-Văn cho mời riêng chánh sứ vào tư dinh đãi tiệc, mục đích thăm dò thực trạng Đại-Việt. Qua cuộc mạn đàm, qua tin tức tế tác Tống báo về hơn năm qua…với con người thông minh, mẫn cán như Ngu, ông ta nắm ngay được tình hình : Rằng kẻ nắm thực quyền bên Đại-Việt là thái-tử Lý Long-Xưởng, với bọn đại thần trẻ, chứ không phải nhà vua với tể tướng như bên Tống. Rằng binh lực Đại-Việt hùng mạnh, quốc sản Đại-Việt súc tích như thời vua Thánh-tông, Nhân-tông. Rằng cuộc thao diễn chỉ là đòn gây áp lực. Tất cả nói lên : Tống phải biết lỗi trong vụ gửi mật sứ Ngô Giới, Lưu Kỳ sang, lỗi đó phải chuộc bằng cách công nhận quốc danh Đại-Việt, và nhận tu cống tượng trưng. Bằng không thì cuộc diễn quân sẽ là cuộc Bắc-phạt, Tống không thể đương nổi. Ngay đêm đó, Ngu Doãn-Văn nhập cung mật tấu với Long-Hưng hoàng đế (Tống Hiếu-tông), rồi cả hai đưa ra quyết định : Nếu thuận theo yêu sách của phía Việt, thì e bọn triều thần chống đối lôi thôi. Còn như không thuận, thì Tống không đương nổi Tây-hạ, Đại-Việt với Kim một lúc. Vậy, nên thỏa mãn tất cả yêu sách của Đại-Việt, tuy nhiên đổi quốc danh thành An-nam, tức là một nước hiền lành ở phương Nam.
Sau đó Tống gửi sứ sang phong Chính-long Bảo-ứng hoàng đế làm An-Nam quốc vương. Triều đình Đại-Việt trao trả toàn bộ bọn Ngô Lân, cho theo sứ về Tống, cùng triệt thoái thủy-bộ binh từ Bắc-cương. Nhưng sứ Tống không chịu, họ đòi phải trả đạo sư Lạc-Nhạn và Vân-Đài tiên tử. Triều đình trả lời rằng hai người này trốn đi, Khu-mật viện truy tầm, nhưng không ra tung tích.
Mọi công việc hoàn thành tốt đẹp. Nhà vua truyền thiết đai triều để nghị sự lao tưởng những người có công. Công đầu là Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy. Hàm Thái-tử thiếu bảo được thăng lên Thiếu-bảo, thêm mỹ tự đặc tiến. Tước Thọ-xương hầu được thăng hàm Côi-sơn công. Chức Càn-nguyên điện đại học sĩ, Trung-nghĩa thượng tướng quân vẫn giữ nguyên.Bùi Kinh-An được thăng từ tước bá lên tước hầu, trước giữ Lại-bộ tham tri, nay giữ chức Công-bộ thượng thư. Lưu Khánh-Bình, Tăng Quốc được thăng từ tước hầu lên tước công. Tăng Khoa được thăng từ tước bá lên tước hầu. Các quan văn võ tham dự vào việc thao diễn thủy, bộ binh đều được thăng lên một chức.
Tha thuế cho dân nửa năm, truyền toàn quốc ăn mừng ».
Ghi chú của thuật giả:
ĐVSKTT, VSL, KHĐVSTGCM đều chép rằng : Niên-hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ nhì (Giáp-Thân, DL. 1163), Tống phong cho vua làm An-Nam quốc vương, đổi quận Giao-chỉ thành An-Nam quốc.
Chỉ độc giả Anh-hùng Đông-a mới biết rõ chi tiết, uyên nguyên ai là người khởi ra vụ đòi Tống phải chịu nhường bước. Từ bấy giờ, và đến nay, Trung-quốc không bao giờ còn coi Đại-Việt là quận Giao-chỉ nữa. Do vậy các triều Nguyên, Minh, Thanh, cả Trung-hoa dân quốc, Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc… phải coi Đại-Việt ta là một nước. Tuy Nguyên, Minh, Thanh phong cho Đại-Việt các tên khác nhau như An-Nam, Việt-Nam. Gần đây nhất, Đặng Tiểu-Bình dạy Việt-Nam bài học , làm như là thầy giáo dùng thước kẻ gõ lên đầu học trò. Bình quên mất rằng, người Việt có thể cãi nhau, chém nhau, giết nhau ; nhưng khi phải đối phó với ngoại xâm, thì họ lại bỏ hết tỵ hiềm, mà giữ nước. Thành ra cái thước mà thầy giáo họ Đặng gõ xuống đầu học trò, bị dội ngược lên khiến mặt ông thầy sưng vều, hút nữa thì mù mắt.
Đắc thắng bằng ngoại giao, bằng áp lực quân sự, thế nhưng quốc sách của Long-Xưởng, Thủ-Huy hãy còn một phần tối quan trọng : Liên kết với Kim để ép Tống, hoặc ít ra, Việt vẫn bang giao với Kim, Tống trong cái thế ngang hàng, không phải nhận sắc phong, không phải tu cống.
Hôm ấy Long-Xưởng vào cung vấn an hoàng-hậu thì gặp Thục-phi Đỗ Thụy-Châu. Đối với các bà phi của phụ Hoàng, Long-Xưởng luôn kính trọng như mẹ, dù các bà không lớn tuổi hơn Long-Xưởng làm bao. Mặt khác, Thụy-Châu là em của Tể-tướng Đỗ An-Di. An-Di không theo phe hưởng thụ của Tô Hiến-Thành, hơi nghiêng theo chủ trương phục hồi hào quang Đại-Việt của Long-Xưởng. Thục phi mới nhập cung không lâu, nhưng được phụ hoàng sủng ái, vì nhan sắc, vì ôn nhu văn nhã. Sau khi nghe Long-Xưởng tâu lên hoàng-hậu những cải cách mới về nông nghiệp, Thục-phi tâu với hoàng-hậu :
– Luật của bản triều định rằng, khi một hoàng tử đến tuổi mười ba, thì hoàng-hậu sẽ tuyển phi tần cho. Năm nay thái-tử đã mười tám rồi, mà sao hoàng-hậu chưa tuyển vương phi cho thái-tử ? Trong khi đó ba em của thái-tử là Kiến-Ninh vương, Kiến-An vương, Kiến-Tĩnh vương, người nào cũng có vương phi rồi.
Hoàng-hậu kéo tai con :
– Con có nghe phi quở không ? Mẹ thấy Bùi Trang-Hòa với con ríu rít bên nhau như đôi chim. Mẹ định ban chỉ phong Trang-Hòa làm vương phi. Con nghĩ sao ?
– Dạ, con xin tuân chỉ mẫu hậu.
– Còn việc con tâu xin cho Đoan-Nghi hạ giá với Thủ-Huy, mẹ đã tâu với phụ hoàng, và báo cho Bùi Thần-phi biết rồi. Nội trong mấy hôm nữa chỉ dụ sẽ ban ra.
– Dạ.

Đỗ Thục-phi mỉm cười :
– Tôi nghe Ôn-huệ Nhu-mẫn quận chúa Từ Thụy-Hương trong Đông-cung là người có tay tiên, hóa phép ra những món ăn tuyệt thế. Tôi muốn thái-tử cho tôi mượn Thụy-Hương ít lâu, để dạy ngự trù, làm yến dâng lên hoàng thượng. Mong thái-tử không nỡ từ chối .
– Phi dạy quá lời, phàm làm con, thì có gì quý nhất phải kính dâng lên phụ mẫu. Phi đã ban chỉ, thì thần nhi xin đưa Thụy-Hương vào hầu phi ngay.
Rời Hoàng-thành, Long-Xưởng về tới Ngự-thư phòng, thì Như-Như báo :
– Đại ca ! Có khách phương xa tới .
– Là ? ? ?
– Đại-hiệp Trần Tự-Hấp với phu nhân. Có cả đại hiệp Lê Thúc-Cẩn, Vỵ-xuyên ngũ tiên, Thần-nông sứ Thủ-Lý, Hải-hà sứ Phùng Tá-Chu, Khai-hoang sứ Tô Trung-Từ, và cô Kim-Ngân. Quý khách đang đợi ở cổng cung.
– Truyền đội nhạc, dàn ra đón khách. Nhị đệ đâu ?
– Sau khi thiết triều, nhị sư huynh trở về phòng. Người bị lên cơn đau, đang đóng cửa vận công chống độc.
– Chúng ta cùng ra đón khách.
Đại-Việt thất tiên đầy đủ, duy Thủ-Huy vắng mặt. Sáu người ra cổng. Đội nhạc Đông-cung tấu bản Anh-hùng tri ngộ . Long-Xưởng cung tay :
– Kẻ bạc đức là Lý Long-Xưởng, cùng các sư đệ, sư muội kính chào quý vị tôn sư quang lâm. Rất mong được chư vị dạy cho những lời vàng ngọc.
Tự-Hấp móc trong túi ra một bao thư niêm phong kín trao cho Long-Xưởng :
– Khi lâm hành, phụ thân chúng tôi trao cho chúng tôi bức thư này, để thay người, đệ trình lên thái-tử.
Long-Xưởng cung cung, kính kính tiếp thư, rồi mở ra đọc. Đọc xong, vương gấp lại, bỏ vào túi.
Bà Anh-Hoa chỉ Lê Thúc-Cẩn:
– Khải thái-tử, chúng tôi về đây để xem bệnh tình Thủ-Huy ra sao. Không dám làm phiền đại giá thái-tử nhiều.
Mọi người vào sảnh đường.
Lễ nghi tất.
Trung-Tĩnh nương, Tín-Hoa nương cùng điều khiển đám cung nga dâng trà, hoa quả, rồi hai người khoanh tay đứng hầu. Tín-Hoa nương gặp lại Thủ-Lý, mặt nàng tươi hẳn lên. Thủ-Lý phóng con mắt nhìn hai tỳ nữ bất hạnh, nội công chàng cực cao, khiến hai tỳ nữ vội cúi đầu xuống. Bất giác Thủ-Lý cau mày lại, rồi lắc đầu.
Ngay từ đầu không thấy Thủ-Huy, ông bà Trần Tự-Hấp cũng đoán ra rằng con mình gặp điều không may rồi. Xót con, bà Bùi Anh-Hoa không kiên nhẫn thêm được nữa. Bà hỏi :
– Khải điện hạ, không biết cháu Thủ-Huy nhà tôi đâu ?
– Thưa bá mẫu, nhị đệ không được khỏe, hiện đang ở trong tẩm phòng.
Thúc-Cẩn trình bầy :
– Chúng tôi về đây do Trần sư huynh gọi. Tôi muốn đươc gặp Thủ-Huy. Bệnh trạng y ra sao ?
Công-chúa Đoan-Nghi thuật lại các biến cố từ lúc đại chiến ở điện Uy-viễn, cho tới khi Thủ-Huy hút độc cứu mình. Rồi trong lần du ngoạn Thăng-long, Thủ-Huy gặp Trí-Thiền, được ông dùng Thiền-công chữa bệnh cho. Từ bấy giờ đến giờ, mỗi tháng Thủ-Huy chỉ bị lên cơn một lần. Cái thời hạn ba năm mà Trí-Thiền đưa ra rằng Thủ-Huy sống hay chết mới quyết được, thì chỉ còn có tám ngày nữa mà thôi.
Không hổ là đại tôn sư, Tự-Hấp nghe con mình chỉ còn sống được có tám ngày nữa, ông vẫn bình tĩnh :
– Xin điện hạ cho chúng tôi thăm Thủ-Huy.
Long-Xưởng nói với Thụy-Hương :
– Tẩm phòng của nhị đệ hơi nhỏ, không đủ lễ tiếp đại giá quý khách. Vậy ngũ muội vào vực nhị đệ ra đây .
Thụy-Hương vừa ứng lời đứng dậy, thì Thủ-Huy đã bước vào, công reo lên :
– Bố, mẹ, Lê sư thúc ! Kìa cả năm bà la sát cũng về đấy à ?
Chợt thấy ông anh Thủ-Lý, Thủ-Huy cảm thấy lạnh lưng. Nhưng lại có cả Trung-Từ, Tá-Chu, Kim-Ngân thì lòng bừng lên niềm vui, ấm áp. Công reo :
– Anh ! Em đi khắp nước, đâu đâu cũng thấy bán gia súc, hải sản, thủy sản, gạo tám của trại Thần-nông. Đức của anh cao thực. Em lại nghe nói, anh sắp lấy vợ, em mừng cho anh.
– Em lầm rồi, anh không có quyền chọn vợ, lấy vợ, mọi sự do mẹ định đoạt hết.
Thủ-Huy nắm lấy tay Trung-Từ, Tá-Chu :
– Mình nhớ hai cậu chết đi được. Dù bận gì thì bận, thỉnh thoảng hai cậu cũng nên ghé Thăng-long chơi với tớ ít ngày. Nghe quan tổng trấn Thiên-trường tâu về triều rằng, hồi này Hải-hà sứ Tá-Chu chế ra loại thuyền đánh cá mới, khi gặp bão không bị lật. Số thuyền đánh cá của các trang Thần-nông lên đến mấy nghìn. Tôm cá ê hề, dân chúng được mua giá rẻ. Mình phục cậu quá. Còn Trung-Từ, thì phá hoang phân nửa rừng rồi, thú dữ không còn hại dân, mỗi đầu người được một mẫu ruộng. Thực đúng là đạo nuôi dân của người quân tử.
– Hừ ! Ông anh làm quan rồi quên mất đứa em gái này hẳn.
Kim-Ngân bẹo tai anh nói nhỏ : Nguy lắm !Sắp bị lấy vợ rồi, nói cho mà biết.
– Anh làm sao mà quên cô em gái hiền lành như cọp, dịu dàng như gấu, và nhỏ nhẹ như cá sấu của anh.
Nói rồi công rút trong bọc ra một cái hộp bằng bạc, trên có khắc hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, trao cho em :
– Nghe nói, em xưng là Tiểu Côi-sơn song ưng. Nên anh sai thợ khắc cái hộp này tặng em đây.
Kim-Ngân mở hộp ra, trong hộp có cặp vòng hồng ngọc đỏ tươi. Nàng mỉm cười, tay nắm lấy cánh tay anh :
– Có thế chứ ! Ông anh phải như vậy chứ !
Anh em nhà họ Trần thường không úy kỵ việc thân mật với nhau. Thủ-Huy vuốt tóc em gái, nắm tay Kim-Ngân rồi nói nhỏ :
– Cô em sư tử của anh càng lớn càng xinh đẹp. Bao giờ thì lấy chồng ?
Bà Anh-Hoa nắm tay Thủ-Huy kéo lại ngồi bên cạnh. Bà nói bằng giọng thương cảm :
– Con bị lên cơn có đau lắm không ?
– Đau gì thì đau, nhưng thấy mẹ thì con hết đau ngay.
– Con ngồi đây để Lê sư thúc thăm bệnh, rồi điều trị cho.
Thủ-Huy ngồi ngay ngắn lại. Lê Thúc-Cẩn nắm lấy tay hầu chẩn mạch. Mọi người hồi hộp theo dõi. Khi thì ông nhăn mặt lại, khi thì ông mở to mắt ra, khi thì ông thở dài. Cuối cùng ông lắc đầu :
– Cháu đã gặp đại sư Trí-Thiền ba năm trước phải không?
– Vâng.
– Cái ông Á-hòa-thượng này tuyệt tích mười năm nay. Ai cũng tưởng ông ta viên tịch rồi. Nào ngờ ông ta vẫn luẩn quẩn ở Thăng-long. Cháu gặp ông ta trong trường hợp nào ? Tại đâu ?
Thủ-Huy thuật lại, không thiếu chi tiết nào. Lê Thúc-Cẩn lắc đầu :
– Một trẻ không biết y học, bướng bỉnh ra tay chữa bệnh cho người, để đến nỗi chính mình mang họa. Mang họa rồi, nghĩ rằng đằng nào mình cũng chết, lại ra tay hút hết nọc độc cứu người, đến nỗi đã bước một chân vào trong quan tài. Tuy nhiên, bệnh cũng còn đôi chút hy vọng. Nào ngờ lại gặp một lão hòa thượng. Cái lão hòa thượng này, nội công cao, thì cao thực. Cao đến trình độ không biết đâu mà lường. Nhưng lại chẳng biết một chút y lý. Lão cứ tưởng rằng nội công mình cao là giúp người trị được bệnh. Nào ngờ lại làm cho bệnh trở thành tuyệt vọng.
– ? ! ! ? !
– Đúng ra, nếu Trí-Thiền không can thiệp, hằng ngày khi bị lên cơn, cháu dùng phương pháp quy liễm của Hồng-thiết giáo chống độc, thì trong 49 ngày không còn lên cơn nữa. Mỗi năm cháu chỉ lên cơn 49 ngày vào tiết Đông-chí . Cứ như thế, trong vòng ba năm thì khỏi hẳn. Nhưng…
Ông bảo Thủ-Huy :
– Cháu tháo dầy ra cho nọc độc dễ thoát khỏi cơ thể.

Quả nọc độc vẫn ri rỉ tiết ra ở huyệt Dũng-tuyền dưới gan bàn chân, và hai huyệt Lao-cung, Thiếu-phủ ở bàn tay. Thủ-Huy xin phép bố, mẹ rồi tháo dầy ra.
– Thưa tiên sinh.
Thụy-Hương hỏi :
– Hôm ấy, Bồ-tát Trí-Thiền chỉ nắm lấy tay nhị sư huynh khoảng nửa khắc, mà đã khiến nọc độc tiết ra không ngừng. Cháu tưởng cứ tình hình ấy, ba năm qua trong cơ thể nhị ca sẽ không còn nọc độc nữa chứ ?
– Vấn đề như thế này.
Thúc-Cẩn giảng : Lão hòa thượng dùng thượng thừa Thiền-công làm cho ngũ độc hòa lẫn với nhau, thì trong một ngày Thủ-Huy không còn lên cơn sáu lần vào đầu mỗi giờ. Nhưng chỉ lên cơn một lần vào giờ Mùi. Khi lên cơn, Thủ-Huy dùng phương pháp quy liễm độc tố của Hồng-thiết giáo chống độc, thì chất độc theo Thận-kinh thoát ra ở huyệt Dũng-tuyền dưới gan bàn chân ; theo Tâm-kinh, Tâm-bào kinh thoát ra ở huyệt Lao-cung, Thiếu-phủ ở bàn tay. Nhưng tâm chủ huyết, thận chủ cốt, chủ tủy. Vì vậy nọc độc chạy vào trong xương, trong tủy… thì không bao giờ trục ra khỏi cơ thể nữa.
Thủ-Lý hồi hộp :
– Thưa sư thúc, như vậy tuy nọc độc nhập cốt, nhưng em Thủ-Huy không chết nữa, phải không ?
– Vẫn chết như thường ! Khi nọc độc nhập cốt, sẽ hại tủy. Não là một loại tủy. Nếu bệnh cứ kéo dài, thì não sẽ teo dần, rồi đi đến chân tay tê liệt. Cuối cùng thì chết.
Đoan-Nghi run run :
– Thưa tiên sinh, không còn thuốc gì nữa ư ?
– Nếu như tìm được Thái-tử sâm, thì có cơ trị khỏi.
Long-Xưởng kinh ngạc :
– Thưa tin sinh, vãn sinh chỉ nghe nói đến nhân sâm, chứ chưa từng nghe đến Thái-tử sâm bao giờ. Mà nói về sâm thì mỗi người nói một khác. Hôm nay, may mắn gặp tiên sinh ở đây. Xin tiên sinh đừng tiếc công giảng giải cho vãn sinh.
Thúc-Cẩn cất giọng trầm trầm giảng :
– Sâm có nhiều loại, mang tên khác nhau : Dã sâm, đản sâm, thổ sâm, hắc sâm, Cao-Ly sâm hay nhân sâm. Hôm nay tôi chỉ nói về nhân sâm. Lá sâm, hoa sâm, cành sâm đều có thể dùng làm thuốc. Nhưng, các phần này không được dùng nhiều. Chủ yếu dùng để trị bệnh là củ sâm.
Ông uống một chung trà, rồi tiếp :
– Sâm gọi là Cao-ly sâm, vì khi trồng ở sứ Cao-ly thì có dược tính tốt nhất. Một vài vùng ở phía Bắc Trung-quốc như Liêu-Đông, Trường-bạch, Hắc-long giang, Cát-lâm cũng có loại sâm này. Sâm chỉ có dược tính tốt khi mọc ở vùng khí hậu cực lạnh. Các sách thuốc dùng nhiều danh tự khác nhau để gọi sâm như Thổ-tinh, Thần-thảo, Hoàng-sâm, Huyết-tinh, Địa-tinh v.v. Dùng hạt gieo về cuối Đông sang Xuân, trồng trong một năm thì có củ. Củ đó gọi là thường sâm. Khi để củ sâm già từ 4 đến 6 năm thì hình dạng giống như một hài nhi, gọi là nhân sâm. Nếu nhân sâm gặp đất tốt, thì có mầu hồng gọi là hồng sâm. Khi hồng sâm lớn, thì gọi là Thái-tử sâm.
Ghi chú của thuật giả:
Nhân sâm mà Lê Thúc-Cẩn nói đây là loại Panax Ginseng C.A.Mayer. Còn các loại sâm khác, tính chất, công dụng không giống sâm Cao-ly.
Thủ-Lý hỏi :
– Cháu nghe nói loại nhân sâm nghìn năm có thể cải tử hoàn sinh. Ai ăn được thì trường sinh bất lão. Việc ấy có đúng hay không ?
Thúc Cẩn cười :
– Đó là tiểu thuyết. Sâm có thể sống lâu đến bao nhiêu năm thì không ai biết. Nhưng củ sâm từ 4 đến 6 tuổi dùng trong việc trị bệnh thì tốt nhất. Tính vị của sâm là hơi đắng. Khi dùng thì làm ấm cơ thể. Bởi vậy những người mà cơ thể nhiệt, hoặc bị nhiệt bệnh thì không nên dùng sâm. Nếu cứ dùng bướng, thì nóng đến phát điên, đầu nhức như búa bổ, nặng thì trúng phong ngã lăn ra, rồi miệng méo, bán thân bất toại.
Tăng Khoa hỏi :
– Thưa tiên sinh, thế sâm chữa được những bệnh gì ?
– Thường sâm dùng để trị bệnh tim, phổi. Nhân sâm dùng trị bệnh tỳ, vị, can. Hồng-sâm dùng trị bệnh thận. Thái-tử sâm dùng trị bệnh cốt, tủy, não. Đấy là nói về chi tiết. Còn bàn chung chung thì bất cứ loại nào trong ba loại cũng có tính chất dược lý như sau :
« Đại bổ nguyên khí, cố thoát sinh tân, an thần định chí, lao thương hư tổn, ăn ít, ăn vào bị mửa, đại tiện lỏng bạc, hư nhược sinh ho, kinh ủy, dương ủy, mất trí nhớ, nhức đầu chóng mặt, nữ nhân bạch đới ».
Trang-Hòa than :
– Tiên sinh ơi ! Tiên sinh nói sách như vậy thì làm sao chúng cháu hiểu được. Xin tiên sinh nói dân đi…
– Xin lỗi tiểu quận chúa. Kể ra thì nhiều như vậy, chứ nhân sâm dùng để trị năm loại bệnh sau. Một là, nhân sâm dùng để trị tất cả các bệnh tiêu hóa do tỳ, vị, can, đởm, đại trường, tiểu trường suy nhược sinh ra như ăn không tiêu, ăn vào đầy ứ, ợ chua, mửa ra thực vật, tiểu tiện lỏng, đau bụng kinh niên. Hai là, nhân sâm dùng để trị bệnh tâm, phế như tim đập chậm, phế lạnh sinh ho, suyễn kinh niên. Ba là, sâm dùng để bổ thận tráng dương, nên dùng trong trường hợp phụ nữ huyết trắng, suy nhược không thụ thai, tuyệt kinh sớm ; đàn ông phòng sự suy, hiếm muộn, đi tiểu vặt. Trong y học, tâm chủ thần chí, thận chủ não, chủ tủy, vì vậy sâm dùng để trị chứng mất trí nhớ, người già hay lẫn, hư nhược sinh kinh phong, nhức đầu chóng mặt. Điều quan trọng là dùng sâm trị bệnh di truyền tất cả các chứng trên
Như-Như mừng rỡ :
– Thưa tiên sinh, đã ba đời nhà cháu làm nghề ca hát, nên bố mẹ cháu đều hay bị sưng họng, rồi kéo tới ho. Chắc sau này cháu cũng bị di chứng này. Liệu dùng nhân sâm có trị khỏi không ?
– Nếu có nhân sâm thì còn nói gì nữa, không những có thể trị cho quận chúa, mà còn có thể trị cho song thân quận chúa nữa.
Đoan-Nghi trở lại với bệnh của Thủ-Huy :
– Ban nãy tiên sinh nói rằng anh Thủ-Huy sẽ chết. Thế thì bao giờ anh ấy mới chết ?
– Đúng ra y dùng phương pháp quy liễm độc của Hồng-thiết giáo thì sau 49 ngày là thoát chết. Y đã thoát khỏi cái kỳ hạn đó.Vì sự can thiệp của Trí-Thiền, nên đến ngày thứ ba mươi sáu trở đi, thì cơn đau sẽ đến không có kỳ hạn nào, khi thì ba ngày, khi thì một tuần, có khi năm ba tháng, sau ba năm thì chết. Bây giờ cái chết của y sẽ đến bất cứ lúc nào. Có thể y sống đến hằng trăm năm, chứ không nằm trong cái hạn kỳ hơn hai chục ngày nữa.
Đoan-Nghi chắp tay vái Thúc-Cẩn liên tiếp :
– Xin tiên sinh ra tay tế độ cứu nhị sư huynh !
– Công chúa ơi. Thủ-Huy là con của sư huynh tôi, thì tôi phải hết sức cứu chữa. Bây giờ chúng tôi xin đem y đi.
Bà Anh-Hoa nói với Long-Xưởng :
– Chúng tôi về đây bằng thuyền. Vậy xin thái-tử cho chúng tôi tự do. Khi Thủ-Huy khỏi bệnh, thì chúng tôi sẽ đưa y về giúp thái-tử.
Long-Xưởng cung tay :
– Bá mẫu đã định như vậy, thì xin các vị cứ tự tiện.
Thủ-Huy được Vỵ-xuyên ngũ tiên về phòng giúp đỡ, thu xếp hành trang. Nhưng vừa về đến nơi thì Trung-Tĩnh nương đã chuẩn bị sẵn rồi. Hai giọt nước mắt chảy lên má, nàng dùng tay viết lên bàn tay hầu mấy chữ :
« Nhất nhật bất khiến như tam thu hề ». (Ba thu dọn lại một ngày dài ghê).
Thủ-Huy an ủi :
– Tôi đi trị bệnh mấy ngày rồi lại về. Á-nương đừng buồn.
Nàng lại viết :
« Ta ngã hoài nhân » ( Than ôi. Ta nhớ thương người).
Thủ-Huy biết người tỳ nữ này có cảm tình với mình. Hầu an ủi :
– Mấy hôm nữa tôi về.
Huyền-Mi cười :
– Tiểu sư đệ có một tỳ nữ thông kinh Thi, nhưng tiếc rằng nó bị câm. Hai câu trên nó lấy từ kinh Thi ra. Phục thực.
Không biết Tín-Hương nương đã chuẩn bị từ lúc nào, mà thoáng một cái, nàng đã kết hoa ngọc lan, hoa nhài thành một vòng. Khi tiễn Thủ-Lý ra khỏi Đông-cung, nàng choàng vòng hoa vào cổ chàng, rồi nói bằng giọng thiết tha :
– Thần-nông sứ ! Người thoáng đến rồi lại thoáng đi như bóng chim. Biết ngày nào tiểu tỳ mới gặp lại người.
Bà Anh-Hoa đã nghe nói về Tín-Hương, bà an ủi :
– Khi nào nương nương có thời giờ, xin phép thái-tử rồi về Thiên-trương chơi. Thủ-Lý sẽ dẫn nương nương đi thăm non Côi, sông Vỵ.
Long-Xưởng truyền tấu nhạc tiễn khách.
Cả đoàn đi trên hai chiếc xe bốn ngựa. Xe đến bến Bắc-ngạn, nơi con thuyền của phái Đông-a đang đậu, mọi người xuống. Con thuyền nhổ sào, kéo buồm, rời bến. Trong con thuyền, Đại-Việt ngũ tuyệt đều hiện diện. Thủ-Huy biết rằng bố mẹ, cùng các sư thúc muốn họp riêng với mình, nên mới bầy ra việc trị bệnh.
Vũ Tử-Mẫn hỏi :
– Cháu Thủ-Huy ! Cháu hãy trình bầy chi tiết tình hình triều đình cho chúng ta nghe để chúng ta có thể làm được những gì cho Đại-Việt.
Thủ-Huy cứ thực sự kể hết mọi biến cố trong triều, tính tình, hành trạng của nhà vua, hoàng-hậu, thân-vương, thái-tử, các phi tần, các công chúa, cho đến các đại thần. Cuối cùng công kết luận :
– Lạ một điều, xét về xuất xứ, hầu hết các đại thần không xuất thân từ khoa cử, thì cũng xuất thân từ các cuộc tuyển võ. Họ đều là người có chân tài. Thế nhưng, họ đều ù ù, cạc cạc như vịt ; ù lỳ, mũ ni che tai, thành ra Đông-cung triều trở thành triều đình.
Nghe xong, Thủ-Lý cười :
– Không phải các quan trong triều đều ù lỳ, mũ ni che tai cả đâu ; chẳng qua hoàn cảnh mấy chục năm nay đã tạo cho họ thành người như vậy. Nếu như họ có ý kiến sắc bén, ta e họ không bị giết như Lý Sơn, Lý Long-Vũ, thì cũng như bọn Vũ Đái, Nguyễn Dương, Dương Tự-Minh mà tan nhà nát cửa. Bây giờ cái ông vua thì chỉ biết có gái, ăn với ngủ. May mắn còn có hoàng-hậu, thái-tử Long-Xưởng, công chúa Đoan-Nghi… Nhưng anh chắc cái nếp ù lỳ, sống chết mặc bay của các đại thần trên 80 năm qua, nó đã ăn sâu vào tủy não rồi. Vua thì lười biếng, ham chơi, các quan thì chỉ mong có ông vua như vậy để nắm quyền, nên họ chủ trương cúi đầu trước bọn Tống thì là điều bình thường. Anh nghĩ chú nên cáo quan, về Thiên-trường nuôi trâu, cầy ruộng với anh, còn hơn là phí sức đi xây lại cái nhà đã đổ nát.
– Đôi khi em cũng nghĩ như anh, nhưng ít ra, những cố gắng của em cũng mang lại ít nhiều kết quả.
Thủ-Lý lắc đầu cười. Trong khi Tự-Hấp than :
– Ta sợ một truyện là, thái-tử hành sự vốn cẩn trọng, thế mà mấy phen hút chết vì tin tức bị lộ. Nhất định quanh thái-tử có một con rắn độc, chuyên cắn trộm. Nó là ai ? Phải tìm cho ra.
– Thưa bố ! Con hết sức theo dõi, mà vẫn chưa tìm ra tung tích. Trong Đông-cung, ngoài Đại-Việt thất tiên còn có vú Loan, vú Mai, Tăng Quốc, vợ chồng Đào Duy… Tất cả những người này đều sống chết với Đông-cung. Nếu như Đông-cung có bị tai vạ gì, thì họ cũng bị táng gia bại sản theo.
Tử-Giác lắc đầu :
– Cháu luận như vậy thì không được. Trong vụ này cháu phải nghi tất cả, ngoại trừ Long-Xưởng với cháu.
– Dạ, cháu hiểu. Cứ như sư thúc dạy, cháu xin đưa ra trường hợp từng người. Đầu tiên là Đoan-Nghi. Nếu là nàng, thì không phải tự tâm nàng, mà do mẫu thân là Thần-phi Bùi Chiêu-Dương chủ động. Đặt vấn đề : Tương lai, khi Long-Xưởng lên ngôi, thì Trang-Hòa nghiễm nhiên trở thành hoàng-hậu, mẫu nghi thiên hạ ; anh của Thần-phi là Bùi Kinh-An thành quốc trượng, toàn gia cực vinh hiển. Long-Xưởng lại yêu thương Đoan-Nghi. Vậy Thần-phi làm việc này với mưu đồ gì ?

– Có thể trước đây bà bị thái-hậu áp chế, cũng có thể mưu phế trưởng lập thứ. Ta nghe, Đoan-Nghi có người anh là Lý Long-Minh tài trí không kém gì Long-Xưởng.
– Thưa sư thúc, Long-Minh được phong tước Kiến-Ninh vương, rất hợp tính với Long-Xưởng, luôn phục tùng anh. Chắc không có chuyện dành ngôi đâu.
Bà Anh-Hoa tiếp :
– Rồi, bây giờ tới vú Loan ?
– Nếu là vú Loan thì quá nguy hiểm, bởi chồng vú trông coi ty Mật-sự thuộc Khu-mật viện, có bổn phận phòng gian, theo dõi mọi hoạt động của tông thất, các quan, kể cả Đông-cung. Con của vú là Tăng Khoa lĩnh chức Mật-thư tỉnh sự, mới đây thăng lên Trung-thư lệnh. Bao nhiêu bí mật triều đình đều nằm trong tay gia đình vú cả. Nhưng, từ vú Loan cho tới Tăng Quốc, Tăng Khoa làm gian tế cho ai ? Khi làm gian tế họ được hưởng gì ?
Tử-Mẫn hỏi :
– Còn vú Mai ?
– Nếu là vú Mai với Thụy-Hương thì không nguy hiểm cho lắm, vì hai người này vốn cô đơn, gia đình họ hàng đều thuộc thành phần dân dã. Vú lại bị các nho thần không ưa, vì lý do Thụy-Hương ra đời trong hoàn cảnh nghi ngờ. Tuy vậy con cũng cứ theo dõi vú.
– Con không nghi ngờ gì Đào Duy, Như-Yên với Như-Như ư ?
Thủ-Huy chỉ vào Lê Thúc-Cẩn :
– Không ! Vì ông bà là đệ tử của Lê sư thúc. Lê sư thúc đưa vào cung giúp con, thì con nghi ngờ sao được ?
Thủ-Lý vỗ vai Thủ-Huy :
– Bây giờ thế này. Trong các đường dây nghi ngờ, mỗi đường dây ta gài một cái bẫy, như thế thì biết rõ thủ phạm là ai ngay.
– ? ! ? ! ? !
– Em với Long-Xưởng đưa ra ba mật sự. Mật sự thứ nhất chỉ bàn với vú Loan, Tăng Khoa. Nếu như mật sự này bị tiết lộ ra, thì gian tế là nhóm này. Cũng tương tự, mật sự thứ nhì bàn với Đoan-Nghi, Trang-Hòa, mật sự ba bàn với vú Mai và Thụy-Hương…
Anh-Hoa xua tay :
– Ba cái bẫy mà anh con đưa ra đó, chỉ với mục đích tìm hiểu sự thực mà thôi. Bởi trước đây, họ làm gian tế cho thái-hậu, mà nay thái-hậu đã rời quyền hành rồi, thì ta không còn lo nữa.
Tự-Hấp ngồi ngay ngắn lại :
– Hôm trước, nhân chị Thanh-Tước lên thăm con, thái-tử với con có đãi tiệc chị ấy. Con có nhớ không ?
– Vâng. Con còn nhớ.
– Sau tiệc, thái-tử gửi chị ấy một mật thư trao tận tay cho bố. Xin bố làm cách nào cho thái-tử gặp riêng, tại một nơi bí mật.
– Ái chà ! Sao đại ca không cho con biết ?
– Vì thái-tử sợ nhờ con gửi thư, e con rắn độc biết thì mưu cơ bị lộ. Vì vậy chúng ta mới bầy ra việc đem con xuống thuyền trị bệnh. Rồi thái-tử sẽ âm thầm tới đây nghị sự với chúng ta.
– Như thế đại ca nghi ngờ hết mọi người, trừ con mà thôi.
Bà Anh-Hoa mỉm cười nhìn Thủ-Huy :
– Đúng thế. Việc mật nghị sẽ bàn sau. Bây giờ mẹ muốn báo cho con một tin quan trọng .
– ? ? ?
Bà nắm lấy tay Thủ-Huy :
– Bố mẹ về Thăng-long báo cho con biết hai tin vui. Tin thứ nhất là : Cuối tháng này bố mẹ sẽ làm lễ vu quy cho năm chị Vỵ-xuyên. Bố mẹ cũng làm lễ hỏi Tô Phương-Lan cho anh Thủ-Lý, làm lễ đính hôn cho Tá-Chu với Kim-Ngân. Con chuẩn bị về dự đám cưới.
Thủ-Huy nhìn năm bà chị nuôi, hầu trêu :
– Chà ! Không biết năm người nào tốt phúc được làm chồng năm bà chị tiên nga của con ? À, hôm qua con gieo quẻ, thấy tiền kiếp của năm ông ấy đều là hòa thượng !
Thanh-Tước tát yêu em :
– Cậu hai này ! Bộ thiên hạ hết người rồi hay sao mà bố mẹ gả chị cho sư phá giới ?
Thủ-Huy nắm lấy bàn tay ngà của Thanh-Tước :
– Chị nóng tính quá. Em nói tiền kiếp chứ đâu có nói kiếp này ?
– Thì ra thế ! Ta Thanh-Tước xin rửa tai nghe tài Quỷ-Cốc của cậu.
– Có gì lạ đâu ! Nếu tiền kiếp các ông ấy không là hòa thượng, gõ thủng mười tám cái mõ, thì sao kiếp này lại được làm chồng năm tiên cô Vỵ-xuyên ? À năm ông ấy là ai vậy ?
Bà Anh-Hoa nhìn Lê Thúc-Cẩn :
– Là năm cao đồ của Lê sư thúc.
– Con biết rồi, thì ra Hồng-sơn ngũ tiên, dường như năm ông có tên là Đương-Quy, Phòng-Phong, Cam-Thảo, Kỷ-Tử, Bạch-Truật thì phải. Hồng-sơn ngũ tiên kết hôn với Vỵ-xuyên ngũ tiên thì đẹp quá rồi. Có điều Hồng-sơn ngũ tiên đeo túi vân du thiên hạ cứu người, chả biết Vỵ-xuyên ngũ tiên có chịu đi theo không ? Aùi chà…
Hoàng-Anh hỏi :
– Tiểu sư đệ. Tại sao tiểu sư đệ lại ái chà ?
– Chị khéo giả bộ. Ông yêu thương năm chị vô cùng tận ! Bất cứ lúc nào, dù ăn, dù dạo chơi sơn thủy, cụ cũng mang năm chị đi theo. Bây giờ năm chị đi lấy chồng, thì người buồn lắm.
Đại hiệp Tự-Hấp ngồi ngay ngắn lại, ông nói với Thủ-Huy :
– Ông nội có gần bốn chục cháu nội, cháu ngoại, cháu nuôi. Nhưng người đặc biệt sủng ái năm chị Vỵ-xuyên, Thủ-Lý, với con. Mấy năm trước, vì quốc sự, ông phải cho con về Thăng-long, mà ngày ngày ông nhớ nhung con…ông nhắc đến con luôn. Nay cả việc con bị trúng độc, bố cấm tuyệt, không ai được nói cho ông nghe. Bây giờ Vỵ-xuyên đi lấy chồng, nên bố muốn cưới vợ cho con. Vợ con sẽ thay con phụng dưỡng ông nội.
Nghe bố nói đến ông nội, Thủ-Huy bùi ngùi cảm động. Vì ông bà Tự-Hấp tuy là đại tôn sư võ học, nhưng đại hiệp Tự-Kinh lại đích thân dạy dỗ các cháu. Cho nên ngoài tình ông cháu ra, giữa ông và các cháu còn có tình sư phụ, đệ tử. Càng ngày ông càng cảm thấy tuổi mình một cao, mà ông muốn đem tất cả kiến thức của mình truyền cho các cháu. Vì vậy, khi ăn, lúc dạo chơi, ông đều mang các cháu theo để dạy dỗ. Từ hồi Thủ-Huy về Thăng-long, mỗi khi có miếng ngon, vật lạ, hay những gì quý giá, công đều sai thân binh phi ngựa đem về dâng lên ông. Hóa cho nên, gần như ngày nào, ông cháu cũng có thư tín qua lại.
Công ứng lời cha :
– Con thực là đứa cháu bất hiếu, không ở gần để phụng dưỡng ông. Còn việc lấy vợ…
Đến đây công nghĩ đến Thụy-Hương, Đoan-Nghi, không biết mình phải trả lời sao với cha mẹ.
Thấy con im lặng, Anh-Hoa tưởng Thủ-Huy xấu hổ, bà vuốt tóc con :
– Bố mẹ sắp cưới vợ cho con, vì con đã lớn. Con cần có vợ, rồi dọn ra phủ đệ riêng mà ở, chứ không thể ở mãi trong Đông-cung. Mẹ đã định xong, cuối năm nay thì cưới.
Thủ-Huy giẫy nẩy lên :
– Mẹ hỏi vợ cho con bao giờ ? Mẹ hỏi ai ? Tại sao mẹ không hỏi ý kiến con ?
Bà Anh-Hoa phóng đôi mắt sắc như dao, nhìn con :
– À ! Bây giờ cậu làm quan to rồi, cậu muốn vượt ra ngoài quyền hành của cha mẹ hả ? Này, thiên kinh, địa nghĩa, phàm việc dựng vợ gả chồng của trai gái phải do cha mẹ đứng làm chủ. Ngay việc lập vương phi cho thái-tử Long-Xưởng cũng phải do hoàng-hậu ban chế, cậu hiểu chưa ?
Bị mẹ đem đạo lý ra mắng, Thủ-Huy đành cúi đầu im lặng chịu trận. Bà Anh-Hoa tiếp :
– Còn trong nhà, tôi là mẹ, tôi đi hỏi nàng dâu về, tôi lại phải hỏi ý kiến ai nhỉ ?
Ghi chú của thuật giả:
Độc giả còn trẻ, hoặc sống ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam đừng kinh hãi vì lý luận của bà Anh-Hoa. Bởi đây là nét đặc thù của văn hóa tộc Việt. Văn hóa Nho-giáo định rằng việc dựng vợ, gả chồng trong gia đình là do trưởng tộc. Khi áp dụng văn hóa Nho-giáo, thì tộc Hoa dành toàn quyền cho ông, cha, hay bác, chú ; chứ bà, mẹ, cô, thím không có quyền gì cả. Còn văn hóa Nho-giáo du nhập vào Đại-Việt đã bị Việt hóa đi rất nhiều. Khi quyết định việc vợ chồng cho con cái, thì mẹ-cha toàn quyền ; tuy rằng nếu ông-bà còn sống, thì mẹ-cha cũng trình với ông-bà, chú-bác, cô-dì lấy lệ. Bà mẹ trong gia đình Việt xưa (1945 về trước), gần như toàn quyền hỏi vợ cho con trai, gả chồngcho con gái, ông bố chỉ ừ hự cho có lệ. Ngay đến thời thuật giả, mẫu thân học chưa quá trình độ biết đọc, biết viết, còn phụ thân thì học thức cực uyên bác, ra đời uy quyền áp chúng nhân. Ấy vậy mà khi gả chồng cho con gái, hỏi vợ cho con trai (1963-1973), cụ bà quyết định hết, cụ ông chỉ có nhiệm vụ coi Tử-vi xem con dâu, con rể có hợp tuổi với con trai, con gái của cụ hay không ?
Thủ-Huy thu hết can đảm :
– Thưa mẹ, thế mẹ đã hỏi ai cho con ?
– Là thứ nữ của sư thúc Tô Trung-Sách, tên Phương-Liên. Trưởng nữ của người là Phương-Lan, mẹ đã hỏi cho anh Thủ-Lý rồi.
Thủ-Huy giẫy nẩy lên :
– Ái già ! Phương-Liên ư ?
– Con không thích nó à ? Phương-Liên bằng tuổi con, lại xinh đẹp, nết na, văn học uyên bác, võ công do chính ông nội truyền thụ. Hồi bé, con với nó nô đùa, chơi với nhau, hiểu tính nhau rồi mà.
Nghe mẹ nói, Thủ-Huy nghĩ thầm :
– Ta có nên nói thực truyện của ta không ? Mẹ đâu có biết những gì giữa ta với Đoan-Nghi, Thụy-Hương ?
Trong hai người anh, thì Kim-Ngân thân với Thủ-Huy hơn Thủ-Lý. Vì Thủ-Lý tính tình nghiêm nghị, ít nô đùa. Bây giờ thấy bố mẹ nghị việc hỏi vợ cho Thủ-Huy, mà công dẫy nẩy lên như đỉa phải vôi, thì ắt có lý do trọng đại gì đây. Nàng hỏi anh :
– Từ hồi bé đến giờ, trong bẩy chúng mình, lớn nhất là anh Lý, thứ đến anh Trung-Từ, Tá-Chu, với anh. Nhỏ hơn một chút là chị Phương-Lan. Cuối cùng là em với Phương-Liên. Chúng mình cùng học võ với ông nội, học văn với mẹ ; lại cùng ăn, cùng vui đùa với nhau ; bây giờ anh Lý chị Lan ; em với anh Chu… sắp thành vợ chồng. Vì vậy mẹ mới định hỏi chị Liên cho anh. Tại sao anh lại không vui ? Hay là anh bị cô công chúa, quận chúa nào bắt mất hồn rồi ?
Thấy con tần ngần, bà Anh-Hoa ngạc nhiên :
– Con nghĩ gì vậy ?
Lê Thúc-Cẩn đã tiếp xúc với Đại-Việt thất tiên, ông cũng nghe Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh, vợ chồng Đào Duy nói nhiều lần về tình cảm giữa bẩy thiếu niên trong Đông-cung, ông đoán ra tâm sự Thủ-Huy đến chín phần mười. Ông nói với bà Anh-Hoa:
– Bà mẹ thương con đi hỏi vợ cho con, b


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.