Bạn đang đọc Anh chàng Hobbit: chương 01c
Tuy nhiên, trong lúc này, đứa cháu hiền lành hơn của cụ Bò Rống lại đang hồi tỉnh trong phòng khách. Lát sau, khi đã dùng cốc đồ uống, anh chàng nem nép bò ra cửa phòng. Đây là những gì anh chàng nghe thấy Gloin nói, “Hừm!“ (hoặc một cái khịt mũi đại loại như vậy). “Liệu anh chàng có hợp không, các bạn nghĩ thế nào? Ông Gandalf bảo là anh chàng hobbit này dữ dội lắm thì rất tốt thôi, nhưng một tiếng hét như thế khi bị kích động cũng đủ khiến lão rồng cùng bà con của lão thức giấc và giết cả lũ chúng ta rồi. Tôi nghĩ tiếng hét ấy nghe có vẻ sợ hãi hơn là kích động. Thực ra, nếu không phải vì có ký hiệu trên cửa thì tôi đã chắc là chúng ta đến nhầm nhà. Ngay khi để mắt thấy anh chàng bé nhỏ cứ run bần bật và thở hổn hển trên tấm thảm là tôi đã nghi ngờ rồi. Nom anh chàng giống một gã hàng xén hơn là một tay ăn trộm!”
Thế là anh chàng Baggins vặn quả đấm cửa và bước vào bên trong. Cái phần của dòng họ Took trong con người anh chàng đã thắng. Anh chàng bỗng cảm thấy mình sẽ nhịn ngủ nhịn ăn để được xem là dữ tợn.Còn về những lời anh chàng bé nhỏ cứ run bần bật trên tấm thảm, chúng hầu như khiến anh chàng trở nên thật sự dữ tợn. Nhiều lần sau đó, cái phần của dòng họ Baggins lại ân hận về những gì anh chàng làm lúc này, và anh chàng tự nhủ: “Bilbo ơi, mày là một thằng đần; mày đã sa ngay vào chuyện này và đang tự mình làm khổ mình đấy.”
“Xin lỗi các vị,” anh chàng nói, “nếu như tôi đã nghe lỏm những lời lẽ mà các vị vừa nói. Tôi không có tham vọng muốn hiểu các vị đang bàn chuyện gì, hoặc việc các vị đề cập đến bọn trộm cướp, song tôi nghĩ là mình hoàn toàn chắc chắn rằng” (đây là điều mà anh chàng coi là xúc phạm lòng tự trọng của mình) “quý vị cho tôi là đồ vô tích sự. Tôi sẽ cho các vị thấy. Không có ký hiệu nào trên cánh cửa nhà tôi hết – cánh cửa đó mới được sơn cách đây một tuần – và tôi hoàn toàn chắc các vị đã đến nhầm nhà. Ngay khi nhìn thấy những bộ mặt lạ lùng của các vị ở ngoài cửa, tôi đã nghi ngờ rồi. Nhưng hãy coi là các vị đến đúng chỗ đi. Hãy cho tôi biết các vị muốn làm gì, và tôi sẽ thử làm điều đó, dù có phải cuốc bộ từ đây tới miền Đông xa xôi để chiến đấu với lũ rồng dữ tợn tại Sa Mạc Cuối Cùng. Tôi đã từng có một ông đại-thúc-tổ là cụ Bò Rống Took, và…”
“Phải, phải, nhưng chuyện đó xa xưa lắm rồi,” Gloin nói. “Tôi vừa nói về cậu kia mà. Mà tôi đảm bảo là trên cánh cửa này có một ký hiệu đấy – cái ký hiệu thường dùng trong nghề, hoặc ngày trước người ta vẫndùng. Kẻ Trộm cần việc làm, rất hăng hái và tiền công phải chăng, đó là ý nghĩa của cái ký hiệu ấy. Nếu thích thì cậu có thể dùng cụm từ Chuyên Gia Săn Lùng Kho Báu thay cho từ Kẻ Trộm. Một vài người thích thế. Đối với bọn ta thì cũng như nhau cả thôi. Gandalf bảo bọn ta là ở vùng này có một người như thế muốn tìm việc làm ngay và bảo ông ấy đã thu xếp một cuộc gặp gỡ ở đây vào giờ dùng trà ngày thứ Tư”.
“Dĩ nhiên là có một ký hiệu,” Gandalf nói. “Ta đích thân vạch nó ở đó. Vì những lý do rất chính đáng. Các vị đề nghị ta tìm giúp người thứ mười bốn cho cuộc thám hiểm của các vị, và ta chọn anh chàngBaggins. Ai muốn bảo là ta đã chọn nhầm người hoặc nhầm nhà thì cứ việc nói, và các vị có thể dừng lại ở con số mười ba và đành chấp nhận tất cả mọi vận rủi, hoặc quay trở về mà đào than.”
Lão cau có nhìn Gloin một cách thật giận dữ đến mức chú vội ngồi thụp xuống chiếc ghế tựa của mình; và khi Bilbo cố mở miệng để hỏi một câu, lão quay lại vừa quắc mắt nhìn vừa vểnh cặp lông mày rậm lên cho tới lúc Bilbo ngậm miệng lại đánh tách một cái. “Thế là được rồi,” Gandalf nói. “Chúng ta không bàn gì thêm nữa. Ta đã chọn anh chàng Baggins và như thế hẳn là đủ cho tất cả các vị rồi. Nếu ta bảo anh ta là Kẻ Trộm thì anh ta là Kẻ Trộm, hoặc rồi đến lúc sẽ là như thế. Anh chàng này còn nhiều tiềm năng hơn các vị đoán đấy, nhiều hơn cả anh ta biết về chính mình nữa kìa. Các vị (có khả năng) sẽ còn sống cả để mà cảm ơn anh ta đấy. Nào Bilbo, anh bạn của ta, hãy kiếm cái đèn và cho chúng ta chút ánh sáng mà xem cái này!”
Trên mặt bàn, dưới ánh sáng của một cây đèn lớn có cái chụp màu đỏ, lão trải ra một miếng giấy da khá giống một tấm bản đồ.
“Cái này là do lão Thror làm, ông nội của anh đấy, Thorin ạ,” lão nói để trả lời những câu hỏi hồi hộp của mấy chú lùn. “Đó là sơ đồ của Quả Núi.”
“Tôi thấy cái này sẽ chẳng giúp chúng ta được nhiều lắm,” sau khi liếc mắt ngó qua, Thorin thất vọng nói. “Tôi nhớ rất rõ Quả Núi này và cả những vùng đất quanh đó nữa. Tôi còn biết Rừng U Ám ở chỗ nào và cả Bãi Héo Hắt nơi lão rồng khổng lồ sinh nở nữa.”
“Có một con rồng được đánh dấu đỏ trên Quả Núi,” Balin nói, “nhưng chẳng cần cái dấu ấy cũng có thể dễ dàng tìm được lão, nếu chúng ta đến được nơi đó.”
“Có một điểm mà các vị chưa để ý tới,” lão phù thủy nói, “và đó là cái lối vào bí mật. Các vị có thấy cái chữ rune ở sườn phía Tây kia, và hình bàn tay chỉ vào chữ đó từ những chữ rune khác không? Nó đánh dấu một lối đi bí mật xuống Hành Lang Ngầm.” (Hãy xem bản đồ ở đầu tập sách, và các bạn sẽ thấy những chữ rune màu đỏ ở đó.)
“Lối đi ấy trước kia có thể là bí mật,” Thorin nói, “nhưng làm sao có thể biết được nó có còn bí mật nữa hay không? Lão rồng Smaug đã sống ở đó đủ lâu để phát hiện ra bất kỳ điều gì cần biết về những cái hang ấy.”
“Lão ta có thể – song lão ta có lẽ đã không sử dụng nó hàng năm rồi.”
“Vì sao?”
“Bởi nó quá hẹp. ‘Cửa cao năm bộ[3] và ba người có thể sóng bước đi vào,’ những chữ rune viết thế, song lão rồng Smaug không thể trườn vào một cái hang cỡ ấy, thậm chí là khi lão còn trẻ, chắc chắn là sau khi đã nuốt chửng ngần ấy chú lùn và con người ở thị trấn Thung Lũng thì lão không thể chui vừa.”
“Có vẻ như đó là một cái hang to đối với tôi,” Bilbo rít lên (anh chàng chẳng biết gì về những con rồng và chỉ biết những cái hang của người hobbit). Anh chàng lại thấy hồi hộp và thích thú, đến nỗi quên cả việc phải im lặng. Anh chàng rất thích bản đồ, nên trong hành lang nhà anh có treo một tấm bản đồ lớn vẽ Vùng Xung Quanh, trên đó tất cả các lối đi dạo anh ưa thích được đánh dấu bằng mực đỏ. “Làm sao có thể giữ bí mật một cánh cửa lớn như vậy với mọi người ở bên ngoài, nói gì đến lão rồng?” anh chàng hỏi.
“Bằng rất nhiều cách,” Gandalf nói. “Nhưng bằng cách nào mà cái cửa hang này được giữ bí mật thì phải tới đó mà hiểu. Từ những gì ghi trên bản đồ ta đoán là có một cánh cửa đóng kín được làm cho nom hệt như sườn Quả Núi. Đó là phương pháp những người lùn thường dùng – ta nghĩ đúng là như thế, phải không nào?”
“Hoàn toàn đúng,” Thorin nói.
“À mà,” Gandalf nói tiếp, “ta quên không nói kèm theo tấm bản đồ là một chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa nhỏ và kỳ lạ. Nó đây này!” lão nói, rồi trao cho Thorin một chiếc chìa khóa bằng bạc có thân ống dài và những khe răng rất phức tạp. “Hãy giữ nó an toàn!”
“Nhất định tôi sẽ làm thế,” Thorin nói, đoạn chú buộc chặt nó vào một sợi dây chuyền đẹp đẽ quàng quanh cổ rồi luồn dưới chiếc áo vest của mình. “Bây giờ mọi chuyện đã bắt đầu có vẻ khả quan hơn. Cái tin này khiến tình thế của chúng ta thay đổi thuận lợi hơn nhiều. Từ trước tới nay chúng ta chưa biết rõ ràng sẽ phải làm gì. Chúng ta đã nghĩ đến việc đi về phía Đông một cách hết sức lặng lẽ và cẩn thận, tới tận Hồ Dài. Sau đó thì bắt đầu rắc rối…”
“Rắc rối trước đó từ rất lâu kia, theo chút hiểu biết của ta về những con đường đi về phía Đông,” Gandalf nói xen vào.
“Chúng ta có thể từ đó đi ngược theo Sông Chảy,” Thorin cứ thao thao nói mà chẳng để ý, “và tới đống hoang tàn của thị trấn Thung Lũng – cái thị trấn cổ trong thung lũng ở đó, dưới bóng Quả Núi. Song không ai trong chúng ta muốn nghĩ đến Cổng Trước cả. Sông Chảy ra từ chính cái cổng này qua vách đá lớn ở phía Nam Quả Núi; và lão rồng cũng ra ngoài bằng cái cổng đó – quá thường xuyên, trừ phi lão đã thay đổi thói quen.”
“Cách ấy sẽ chẳng ăn thua gì đâu,” lão phù thủy nói, “nếu như không có một Chiến Binh dũng mãnh, thậm chí một Anh Hùng. Ta đã cố tìm một người; nhưng các chiến binh đang bận đánh lẫn nhau ở các xứ sở xa xôi, còn ở vùng này thì anh hùng hiếm lắm, hoặc mặc nhiên là không thể nào tìm được. Những thanh gươm ở vùng này hầu hết đều cùn, còn búa rìu thì được dùng để chặt cây, và những cái khiên thì dùng làm nôi hoặc để úp đĩa; mà lũ rồng thì ở tít tận đẩu tận đâu (vì thế đã thuộc về truyền thuyết) nên chẳng ai phải lo lắng cả. Bởi vậy ta quyết định dùng cách ăn trộm – đặc biệt khi ta nhớ tới sự tồn tại của một cái Cửa Hông. Và đây là anh bạn Bilbo Baggins nhỏ bé của chúng ta, tên kẻ trộm, tên kẻ trộm đã được bình chọn. Thế nên hãy xúc tiến công việc bây giờ và vạch ra vài kế hoạch thôi.”
“Thế thì tốt quá,” Thorin nói, “có lẽ chuyên gia ăn trộm cho chúng tôi vài ý kiến hoặc gợi ý đi nào.” Gã quay lại nói với Bilbo bằng một vẻ lịch sự giả tạo.
“Trước hết tôi muốn được biết thêm đôi chút về mọi việc,” anh chàng nói, cảm thấy vừa rất bối rối vừa dao động trong lòng, song cho đến lúc này anh vẫn kiên quyết tiếp tục mọi việc theo tính cách của dòng họ Took. “Ý tôi là về số vàng và lão rồng, và tất cả, và việc số vàng ấy đến đó bằng cách nào và nó thuộc về ai, và vân vân và cụ thể hơn nữa.”
“Chao ôi!” Thorin nói, “cậu không có một tấm bản đồ à? và cậu không nghe bài hát của bọn ta sao? mà bọn ta chẳng đã bàn về tất cả chuyện này hàng giờ rồi đó sao?”
“Dù sao tôi cũng muốn mọi chuyện phải dễ hiểu và rõ ràng,” anh chàng khăng khăng nói, khoác lên mình thái độ nghiêm túc và thực tế (thường chỉ dành cho những kẻ tìm cách vay tiền của anh), và cố hết sức tỏ ra khôn ngoan, cẩn trọng và chuyên nghiệp, xứng với sự tiến cử của Gandalf. “Tôi cũng cần biết về những rủi ro, những chi phí mình phải bỏ tiền túi ra, thời gian cần thiết, công sá và vân vân” – nói vậy là anh chàng ngụ ý: “Tôi sẽ được gì từ số vàng đó? và liệu tôi có còn sống mà trở về không?”
“Ồ thôi được,” Thorin nói. “Đã lâu lắm rồi, vào thời ông nội Thror của ta, dòng họ ta bị đuổi ra khỏi vùng viễn Bắc, rồi quay trở lại, đem hết của cải và công cụ của họ tới Quả Núi này trên bản đồ. Quả Núi đó trước kia được cụ kỵ nhà ta phát hiện ra, đó là cụ cố Thrain, nhưng hồi ấy người ta khai mở, người ta đào đường hầm, người ta xây cất nhà cửa và công xưởng đồ sộ hơn – ngoài ra, ta tin rằng họ cũng tìm thấy rất nhiều vàng và cơ man nào là châu báu nữa. Dù sao thì họ cũng trở nên vô cùng giàu có và nổi tiếng, còn ông nội ta thì một lần nữa lại là Vua dưới gầm Quả Núi và cụ được những người trần tục vô cùng kính trọng, những người này sinh sống ở phía Nam và dần dần tản lên mạn Sông Chảy, tới tận cái thung lũng bị Quả Núi che khuất. Họ đã xây dựng cái thị trấn Thung Lũng vui vẻ kia vào thời đó. Các vua chúa thường ời thợ rèn của chúng ta, và thậm chí ban thưởng rất hậu hĩ cho cả những người ít khéo tay nhất. Các bậc cha mẹ thường nài nỉ chúng ta nhận con em họ đến học việc, và trả công chúng ta thật hào phóng, đặc biệt là bằng lương thực, vì vậy chúng ta chẳng bao giờ phải bận tâm tự mình trồng trọt hoặc tìm mua. Nhìn chung đó là những năm tháng tốt đẹp của chúng ta, cả đến những người nghèo nhất trong dòng họ nhà ta cũng có tiền chi tiêu và cho vay, có thì giờ rảnh rỗi làm những món đồ đẹp đẽ chỉ để cho vui, đó là chưa kể những món đồ chơi kỳ diệu và tuyệt vời nhất, những thứ mà trên thế gian ngày nay chẳng thể nào tìm được. Vì vậy hành lang nhà ông nội ta bày đầy những áo giáp và châu báu, những đồ chạm khắc cùng cốc chén, và cái chợ đồ chơi ở Thung Lũng thì là một kỳ quan của phương Bắc.
“Chắc chắn vì thế mà lão rồng tìm đến. Cậu biết đấy, lũ rồng ăn trộm vàng và châu báu của người, tiên và người lùn ở bất kỳ nơi nào chúng có thể tìm thấy; và chúng canh gác món đồ trộm được trong suốt đời mình (trên thực tế là vĩnh viễn, trừ phi chúng bị giết) mà chẳng bao giờ dùng đến một cái khuyên đồng trong số đó. Quả thật là chúng hầu như không phân biệt nổi đâu là một tác phẩm đẹp đâulà một tác phẩm tồi, tuy rằng chúng vẫn thường biết rõ giá cả thị trường; và chúng không thể tự làm ình được thứ gì, thậm chí không sửa nổi một cái vảy nhỏ bị hỏng trên áo giáp. Vào thời ấy ở phương Bắc có rất nhiều rồng, và có lẽ vàng đang dần trở nên khan hiếm, phần vì những người lùn chạy trốn về phía Nam hoặc bị giết hại, phần vì tình trạng đất bỏ hoang khắp nơi và sự tàn phá ngày càng tệ hại của lũ rồng. Có một con rồng đặc biệt rất tham lam, khỏe và độc ác có tên là Smaug. Một hôm hắn bay vút lên không và xuống phía Nam. m thanh đầu tiên mà bọn ta nghe thấy tựa như một trận bão đổ xuống từ phương Bắc, và những cây thông trên Quả Núi gãy răng rắc liên hồi trong gió. Vài kẻ trong số những người lùn tình cờ lại vắng nhà (ta may mắn là một trong số đó – một chàng trai giỏi giang thích phiêu lưu mạo hiểm hồi ấy, luôn đi lang thang, và chính điều đó đã cứu mạng ta vào ngày hôm đó) – chà, từ một khoảng cách xa tít bọn ta nhìn thấy con rồng đáp xuống quả núi của bọn ta trong một đám lửa bắn tung tóe. Sau đó hắn xuống các sườn núi và khi hắn đến các khu rừng, tất cả đều bốc cháy. Bấy giờ tất cả các quả chuông đều rung lên trong thị trấn Thung Lũng và các chiến binh đều chuẩn bị vũ khí. Những người lùn vội chạy khỏi thị trấn qua lối cổng lớn; nhưng con rồng đã đợi họ ở đó. Chẳng một ai chạy thoát theo con đường đó cả. Dòng sông ào ào chảy tỏa hơi nước mịt mùng và sương mù che phủ thị trấn Thung Lũng, rồi trong đám sương mù ấy con rồng xông vào tiêu diệt hầu hết các chiến binh – câu chuyện buồn quen thuộc, chỉ có điều nó lại quá phổ biến vào thời đó. Rồi hắn quay trở về và trườn vào Cổng Trước rồi phá tan nát tất cả các hành lang, đường hẻm, các đường hầm, thung lũng, hầm rượu, các khu nhà lớn và lối đi. Sau đó không còn người lùn nào ở bên trong sống sót, và hắn chiếm tất cả của cải của họ. Có lẽ, vì đó là cung cách của lũ rồng, hắn đã chất tất cả số của cải đó thành một đống lớn sâu trong núi và dùng nó làm giường ngủ. Về sau hắn thường bò ra ngoài qua cổng lớn và tới thị trấn Thung Lũng vào ban đêm, bắt người mang đi, đặc biệt là các trinh nữ, để ăn thịt, cho tới khi thị trấn này hoang tàn, tất cả dân ở đó đều chết hoặc bỏ đi hết. Tình hình ở đó hiện nay thế nào thì ta không biết đích xác, nhưng ta cho rằng ngày nay không ai sinh sống gần Quả Núi, cùng lắm cũng là đến ở bờ bên kia của Hồ Dài.
“Mấy người ít ỏi bọn ta ở rất xa bên ngoài quả núi đã ngồi khóc trong chỗ ẩn nấp và nguyền rủa lão rồng Smaug; và tại đó bọn ta bất ngờ thấy bố và ông nội ta đến nhập bọn, râu ria cháy sém. Họ hầm hầm vẻ mặt nhưng lại nói rất ít. Khi ta hỏi xem họ đã trốn thoát bằng cách nào, họ bảo ta hãy nín lặng, rằng một ngày nào đó đến lúc thích hợp thì ta khắc biết. Sau đó chúng ta ra đi, và từ đó tới nay chúng ta đã phải ráng sức kiếm sống khắp mọi miền xuôi ngược, thường xuyên phải hạ mình làm nghề thợ rèn hoặc thậm chí đi đào than. Song không bao giờ chúng ta quên cái kho báu bị ăn cướp của mình. Và ngay cả lúc này, khi mà ta sẵn sàng thừa nhận là bọn ta đã dành dụm được kha khá và không đến nỗi túng thiếu lắm” – nói đến đây Thorin lấy tay vuốt ve sợi dây chuyền vàng quanh cổ mình – “bọn ta vẫn có ý định giành lại nó, và trả hận lão rồng Smaug – nếu chúng ta có thể.
“Ta vẫn thường băn khoăn về chuyện bố và ông nội ta đã trốn thoát. Bây giờ ta hiểu là hồi ấy hẳn phải có một lối Cửa Hông bí mật mà chỉ có họ biết. Song hình như họ đã vẽ một bức bản đồ, và ta muốn biết làm thế nào mà Gandalf đã vớ được nó, và tại sao nó lại không được truyền lại cho ta, người thừa kế hợp pháp kia chứ.”
“Ta đã không ‘vớ được nó’ đâu, ta đã được trao cho đấy,” lão phù thủy nói. “Ông nội Thror của ngươi đã bị tên yêu tinh Azog giết tại vùng mỏ Moria, ngươi nhớ chứ.”
“Ta nguyền rủa cái tên hắn, phải,” Thorin nói.
“Còn Thrain, bố ngươi, đã bỏ đi vào ngày hai mươi mốt tháng Tư, đến hôm thứ Năm vừa qua là tròn một trăm năm, và suốt từ đó tới nay ngươi chưa hề gặp mặt…”
“Đúng, đúng,” Thorin nói.
“Chà, bố ngươi đã đưa cho ta cái này để giao lại cho ngươi; mà nếu ta đã lựa chọn thời gian và cách thức riêng để trao nó thì ngươi khó có thể trách ta được, vì phải tính đến bao khó khăn vất vả ta mới tìm được ngươi. Bố ngươi đã không nhớ nổi tên mình khi lão đưa cho ta tờ giấy này, mà lão cũng chẳng hề nói tên ngươi cho ta biết; vì vậy nghĩ đi nghĩ lại thì ta cho là mình phải được ca ngợi và cảm tạ kia đấy! Đây, nó đây này,” lão vừa nói vừa trao tấm bản đồ cho Thorin.
“Ta không hiểu,” Thorin nói. Bilbo cảm thấy mình cũng đã muốn nói như vậy. Lời giải thích của lão dường như chẳng giải thích được gì.
“Ông nội ngươi,” lão phù thủy nói thật chậm rãi và dứt khoát, “trao tấm bản đồ này cho con trai lão để đảm bảo an toàn trước khi lão tới vùng mỏ Moria. Bố ngươi đã ra đi để thử vận may cùng tấm bản đồ đó sau khi ông nội ngươi bị giết; và lão đã kinh qua bao cuộc mạo hiểm thuộc loại gian nan nhất, song lão chưa hề đến gần Quả Núi. Làm sao mà lão bị bắt thì ta không biết, song ta đã thấy lão bị cầm tù trong ngục tối của lão Thầy Đồng.”
“Thế ông làm cái quái gì ở đó?” Thorin run bắn lên hỏi, và tất cả mấy gã lùn đều rùng mình kinh hãi.
“Ngươi không phải bận tâm. Ta đang tìm hiểu một số việc, như thường lệ; mà công việc lần đó thật vô dựng mà tôi vừa mới mô tả cho các bạn, và rõ ràng đã ổn định cuộc cùng nguy hiểm. Thậm chí ta, Gandalf, cũng chỉ kịp thoát thân. Ta tìm cách cứu bố ngươi, nhưng đã quá muộn. Lão bị mất trí và lú lẫn, hầu như đã quên hết tất cả trừ tấm bản đồ và cái chìa khóa.”
“Bọn ta đã thanh toán xong lũ yêu tinh ở Moria từ lâu rồi,” Thorin nói; “giờ bọn ta phải lo liệu với lão Thầy Đồng đây.”
“Đừng có ngu xuẩn! Lão ta là một kẻ thù có quyền năng vượt xa tất cả những người lùn gộp lại, nếu như họ có thể tập hợp lại một lần nữa từ khắp bốn phương trên thế giới. Điều duy nhất mà bố ngươi mong muốn là con trai lão hãy đọc tấm bản đồ và sử dụng chiếc chìa khóa. Lão rồng và Quả Núi là những nhiệm vụ quá lớn đối với ngươi đấy!”
“Hay lắm, hay lắm!” Bilbo nói, và bỗng nhiên lại nói thật to.
“Hãy nghe[4] cái gì?” tất cả vừa hỏi vừa lập tức quay cả lại về phía anh chàng, còn anh chàng thì bối rối đến mức đã trả lời, “Nghe cái điều mà tôi sắp phải nói ra ấy!”
“Cái gì chứ?” họ hỏi lại.
“Ồ, tôi muốn nói là các vị nhất định phải đi về hướng Đông và quan sát xung quanh thật kỹ. Rốt cuộc là có một cái Cửa Hông, và lũ rồng đôi khi phải ngủ, tôi cho là như vậy. Nếu các vị ngồi trên bậc cửa đủ lâu, tôi dám chắc là các vị sẽ nghĩ ra một điều gì đó. Thôi được, các vị không thấy à, tôi nghĩ trong một đêm mà chúng ta bàn bạc thế là quá lâu rồi, chắc các vị hiểu ý tôi đấy. Các vị định ngủ nghê thế nào để còn lên đường sớm và còn bao nhiêu là việc nữa! Tôi sẽ đãi các vị một bữa điểm tâm ngon lành trước khi các vị ra đi.”
“Trước khi chúng ta ra đi, ta cho rằng ý cậu định nói thế,” Thorin nói. “Cậu chẳng phải là anh chàng kẻ trộm đó sao? Mà ngồi rình trên bậc cửa không phải là công việc của cậu à, đó là chưa kể đến việc vào bên trong cửa nữa chứ? Nhưng ta đồng ý về việc ngủ nghê và bữa điểm tâm đấy. Ta thích dùng sáu quả trứng cùng món giăm bông khi bắt đầu một chuyến đi: ốp la ấy chứ không phải chần nước sôi đâu đấy, mà cậu nhớ đừng làm rách miếng trứng nhé.”
Sau khi những chú lùn khác gọi các món điểm tâm mà chẳng có lấy một lời “xin vui lòng” (điều này khiến Bilbo rất bực mình), tất cả bọn họ đều đứng dậy. Anh chàng Hobbit phải dọn chỗ ngủ cho cả bọn, phải sử dụng tất cả phòng trống rồi kê ghế đẩu và sofa làm giường, cắt đặt tất cả bọn họ đâu vào đấy rồi sau đó mới trở về cái giường nhỏ bé của mình, rất mệt mỏi và chẳng vui vẻ chút nào. Duy có một điều anh chàng đã quyết tâm thực hiện, đó là chẳng cần bận tâm dậy thật sớm để nấu bữa điểm tâm chết tiệt cho những kẻ kia làm gì. Cái tính cách của dòng họ Took đang mòn dần, và lúc này anh chàng không thật dám chắc là mình có tham gia vào bất kỳ chuyến đi nào khi trời sáng hay không.
Trong lúc nằm trên giường anh chàng có thể nghe thấy Thorin vẫn còn đang tự nghêu ngao ình nghe trong gian phòng ngủ đẹp nhất ở bên cạnh:
Tít trên dãy núi mù sương lạnh lẽo
Tới những hầm sâu và những hang xưa
Chúng ta phải lên đường, trước rạng đông,
Để giành lại kho vàng của chúng ta đã từ lâu quên lãng.
Bilbo đi ngủ mà những câu hát đó cứ văng vẳng bên tai, nó khiến anh chàng mơ những giấc mơ rất khó chịu. Khi anh chàng thức giấc thì trời đã sáng bạch từ lâu.