Bạn đang đọc Anh chàng Hobbit: chương 13b
Mặc dù vậy, so với các chú lùn, anh chàng Baggins vẫn giữ được tâm trí mình thoát khỏi sự mê hoặc của cái kho báu ấy nhiều hơn. Rất lâu trước khi các chú lùn phát ngán cái việc ngắm nghía báu vật, anh chàng đã chán ngấy việc đó và ngồi bệt xuống sàn, bắt đầu lo lắng tự hỏi chẳng biết chuyện này rồi sẽ ra sao. “Mình sẵn lòng đánh đổi vô số những cái cốc có chân quý giá này,” anh chàng nghĩ bụng, “lấy một món đồ uống đầy khích lệ nào đó từ cái bát gỗ của ngài Beorn!”
“Thorin!” anh chàng hét to. “Còn gì nữa đây? Chúng ta đã được vũ trang rồi, nhưng từ trước tới nay có thứ áo giáp nào ăn thua khi chống lại lão rồng Smaug Khủng Khiếp đâu? Cái kho báu này vẫn chưa giành lại được. Bây giờ chúng ta chưa vội tìm vàng, mà phải tìm lối thoát; mà chúng ta đã đánh liều với vận may quá lâu rồi đấy!”
“Cậu nói đúng!” Thorin trả lời, trấn tĩnh trở lại. “Chúng ta đi thôi! Ta sẽ dẫn đường cho cậu. Dù đến một ngàn năm nữa ta cũng không thể quên lối đi trong cung điện này.” Sau đó chú gọi những người khác, và họ tụ tập cả lại, rồi vừa giơ đuốc trên đầu vừa bước qua những khuôn cửa mở toang mà không khỏi chốc chốc lại ngoái nhìn đầy vẻ thèm muốn.
Họ lại mặc chiếc áo cũ kỹ bên ngoài những bộ giáp lóng lánh và đội chiếc mũ trùm tả tơi bên ngoài những cái mũ trụ sáng ngời, rồi từng người một bước theo Thorin làm thành một hàng những ngọn lửa nhỏ trong bóng tối; chốc chốc họ lại dừng bước, e ngại lắng nghe thêm một lần xem có bất kỳ động tĩnh nào cho thấy lão rồng đã trở về không.
Dù rằng tất cả đồ trang trí ngày xưa đã đổ nát hoặc bị tàn phá từ lâu, và dù tất cả đã nhem nhuốc và tan hoang bởi những chuyến đi về của lão quái vật ấy, Thorin vẫn biết từng lối đi và từng quãng rẽ. Họ trèo lên những nhịp cầu thang dài, rồi rẽ và đi dọc những lối rộng đầy tiếng vọng, rồi lại rẽ và trèo lên những nhịp cầu thang khác, và nhiều cầu thang nữa. Những cầu thang này nhẵn nhụi, được cắt ra từ các phiến đá núi rộng và đẹp; và các chú lùn cứ trèo lên, lên mãi mà cũng không gặp một dấu hiệu nào của sự sống, chỉ thoáng thấy những bóng đen len lén trốn chạy khỏi ánh đuốc bập bùng trong những ngọn gió lùa.
Tuy vậy, các bậc đá ấy đâu phải được làm ra để dành cho đôi chân của giống người hobbit, và đúng lúc Bilbo bắt đầu cảm thấy mình không thể tiếp tục đi nữa thì trần phòng lớn bỗng cao vút lên vượt khỏi tầm sáng của ánh đuốc. Có thể nhìn thấy làn ánh sáng trắng yếu ớt rọi xuống qua một lỗ hổng nào đó ở tít trên cao, và không khí có mùi tươi mát hơn. Trước mắt họ ánh sáng lờ mờ rọi qua những cánh cửa lớn lem nhem cháy dở đang oằn mình trên các bản lề.
“Đây là đại sảnh của Thror,” Thorin nói, “là phòng yến tiệc và hội họp. Cách đây không xa là Cổng Trước rồi.”
Họ đi qua cái đại sảnh hoang tàn. Những cái bàn ở đó đã mục nát; ghế ngồi và tràng kỷ nằm ngổn ngang đã cháy đen và nát hỏng. Xương sọ và xương ống la liệt trên mặt sàn lẫn cùng hũ, bát, những chiếc sừng dùng để uống rượu đã vỡ và bụi đất. Lúc đi qua thêm vài cái cửa ở phía bên kia sảnh, họ nghe thấy tiếng nước chảy, và làn ánh sáng nhợt nhạt bỗng trở nên rõ ràng hơn.
“Kia là khởi nguồn của Sông Chảy,” Thorin nói. “Từ đây dòng sông hối hả chảy ra Cổng Trước. Chúng ta hãy lần theo nó!”
Từ một lỗ hổng mờ mịt trên vách đá, một dòng nước sôi sùng sục chảy ra, rồi cuồn cuộn chảy trong một con kênh hẹp được những bàn tay khéo léo thời cổ xưa đào sâu, xây đắp và nắn thẳng. Dọc kênh là một con đường lát đá đủ rộng cho nhiều người cùng sóng bước. Họ chạy thật nhanh dọc con đường này rồi chạy quanh một vòng cua rộng – và kìa! Trước mặt họ là ánh ngày sáng sủa. Phía trước là một cái cổng vòm vươn cao, vẫn còn để lộ những mảnh vỡ của công trình chạm khắc cổ ở bên trong, dù nó đã mòn vẹt, sứt sẹo và nhem nhuốc. Một mảnh mặt trời đầy sương phủ tỏa ánh sáng mờ nhạt giữa hai nhánh của Quả Núi và rót những tia nắng vàng xuống mặt lát tại lối vào cổng.
Một bầy dơi hoảng hốt thức giấc vì những bó đuốc bốc khói đang bay loạn trên đầu họ; bởi trong lúc lao mình về phía trước, họ đã trượt chân trên những hòn đá bị mài nhẵn và phủ đầy bùn dưới bàn chân qua lại của lão rồng. Lúc này trước mặt họ dòng nước ào ào chảy ra khỏi con kênh hẹp và tung bọt đổ xuống thung lũng. Họ ném những bó đuốc đã gần tàn xuống đất, và đứng nhìn đăm đăm ra ngoài bằng cặp mắt sững sờ. Họ đã tới Cổng Trước, và đang nhìn xuống Thung Lũng.
“Chà!” Bilbo nói, “trước kia tôi chẳng bao giờ mong được nhìn ra ngoài từ cái cửa này. Và tôi đã chẳng hề mong lại được vui mừng nhìn thấy mặt trời hay cảm nhận gió mơn man trên mặt mình nữa. Nhưng mà, ái dà! Gió lạnh đấy!”
Quả là gió lạnh thật. Một làn gió đông lạnh buốt thổi qua báo hiệu mùa đông sắp tới. Gió cuồn cuộn quanh hai nhánh Quả Núi rồi thổi vào thung lũng, vi vu giữa các tảng đá. Sau một thời gian dài ở dưới hang sâu ngột ngạt với nỗi ám ảnh về lão rồng, họ run rẩy trong ánh mặt trời.
Bỗng Bilbo nhận ra rằng mình không chỉ mỏi mệt mà còn thật sự đói nữa. “Hình như trời sáng đã lâu rồi,” anh chàng nói, “và tôi cho rằng tầm này là giờ ăn điểm tâm đấy – nếu có bữa điểm tâm nào để mà ăn. Song tôi cảm thấy ngưỡng cửa trước hang lão rồng Smaug không phải là nơi an toàn nhất để mà dùng bữa đâu. Hãy tới chỗ nào có thể ngồi yên trong chốc lát ấy!”
“Đúng quá rồi!” Balin nói. “Và tôi nghĩ tôi biết chúng ta phải đi lối nào: chúng ta phải tới cái trạm gác cũ ở góc Tây Nam của Quả Núi.”
“Cách đây bao xa?” anh chàng hobbit hỏi.
“Năm giờ đi bộ, tôi nghĩ thế. Đường sẽ khó đi. Con đường từ Cổng Trước dọc theo bờ trái dòng nước có vẻ đã hư hại hết rồi. Nhưng hãy nhìn dưới kia mà xem! Dòng sông bỗng nhiên lượn vòng về phía Đông ngang qua Thung Lũng trước mặt thị trấn đổ nát. Tại chỗ đó trước kia từng có một cây cầu dẫn đến những bậc thang dốc đứng trèo lên hữu ngạn, rồi tới một con đường chạy về phía Đồi Quạ. Có (hoặc đã có) một đường mòn tách khỏi con đường đó chạy ngược lên trạm gác. Cũng là một đoạn khó trèo, kể cả nếu những bậc đá vẫn còn ở đó.”
“Trời ơi!” anh chàng hobbit làu bàu. “Đã không được ăn điểm tâm mà lại còn phải đi bộ và trèo thêm nữa! Tôi tự hỏi không biết chúng ta đã lỡ bao nhiêu bữa điểm tâm và các bữa ăn khác trong cái hang kinh tởm chẳng biết ngày đêm kia rồi?”
Thực ra mới có hai đêm một ngày trôi qua (và không phải hoàn toàn không có thức ăn) kể từ khi lão rồng đập nát cánh cửa kỳ diệu kia, song Bilbo đã hoàn toàn mất đi ý niệm thời gian, và anh chàng chỉ có thể bảo rằng khoảng thời gian đó là một đêm hay cũng có thể là một tuần lễ toàn đêm.
“Nào, nào!” Thorin vừa cười to vừa nói – tinh thần của chú đã phấn chấn trở lại, và chú khua mấy viên đá quý trong túi kêu lách cách. “Đừng gọi cung điện của ta là một cái hang kinh tởm! Cậu cứ đợi cho đến khi nó được dọn dẹp sạch sẽ và trang hoàng lại mà xem!”
“Chỉ khi lão rồng Smaug chết rồi thôi,” Bilbo rầu rĩ nói. “Bây giờ lão ta ở đâu? Tôi sẵn sàng nhịn một bữa điểm tâm để biết điều đó. Tôi hy vọng lúc này lão ta không ở trên Quả Núi mà nhìn xuống chúng ta!”
Ý kiến đó khiến các chú lùn vô cùng lo lắng, và họ nhanh chóng thừa nhận rằng Bilbo và Balin đã nói đúng.
“Chúng ta phải rời khỏi nơi này,” Dori nói. “Tôi có cảm giác như thể đôi mắt lão đang nhìn vào gáy mình vậy.”
“Vùng này lạnh lẽo và vắng vẻ lắm,” Bombur nói. “Có thể có cái để uống, song tôi thấy chẳng có gì để ăn đâu. Một con rồng thường luôn bị đói ở những vùng như vậy.”
“Đi thôi! Đi thôi!” các chú khác kêu to. “Chúng ta hãy đi con đường mòn Balin vừa nói ấy.”
Phía dưới vách đá ở mé phải không có con đường mòn nào cả, vì vậy họ lê bước giữa đám sỏi đá trên tả ngạn dòng sông, và cảnh hoang vắng tiêu điều chẳng mấy chốc đã khiến ngay cả Thorin cũng phải thực tế hơn. Họ tìm thấy cây cầu mà Balin nói đến, nhưng nó đã sập từ lâu và hầu hết những phiến đá xây cầu giờ chỉ còn là những tảng đá mòn trên dòng suối nông rì rào chảy; song họ lội qua dòng nước không mấy khó khăn, rồi tìm thấy những bậc đá cổ xưa và trèo lên bờ cao. Đi được một quãng ngắn họ tới con đường cũ, và chẳng bao lâu sau thì tới một thung lũng nhỏ và sâu nằm khuất giữa những tảng đá; tại đó họ nghỉ một lát và còn thứ gì ăn được thì đem ra làm bữa điểm tâm, chủ yếu là món cram và nước lã. (Nếu các bạn muốn biết món cram là gì thì tôi chỉ có thể nói rằng tôi không biết công thức làm món đó; song nó giống như bánh bích quy, để được rất lâu, được xem là bổ dưỡng, và chắc chắn là không ngon miệng, trên thực tế món này chẳng có gì thú vị ngoài việc dùng để luyện quai hàm. Bánh này do người vùng Hồ làm dành cho những chuyến đi dài ngày.)
Sau đó họ lại đi tiếp; lúc này con đường ngoặt sang hướng Tây và rời khỏi dòng sông, còn bờ vai đồ sộ của cái mũi núi chĩa về phía Nam kia thì cứ mỗi lúc một gần hơn. Cuối cùng họ tới con đường mòn dẫn lên đồi. Con đường bò ngược lên, và họ lê bước nặng nhọc, người nọ nối tiếp người kia, cho tới tận chiều muộn thì họ cũng lên đến được đỉnh núi và nhìn thấy mặt trời ảm đạm đang ngả dần xuống phía Tây.
Tại đây họ tìm được một nơi bằng phẳng, ba phía không có tường, phía Bắc bị chắn bởi một mặt đá cómột cái lỗ trông như ô cửa. Từ ô cửa này mở ra một khung cảnh rộng lớn nhìn về phía Đông, Nam và Tây.
“Ở nơi này,” Balin nói, “hồi xưa chúng tôi thường cắt đặt người canh gác, và cái cửa phía sau kia dẫn vào một gian phòng dựng bằng đá đẽo dùng làm vọng gác. Có dăm nơi như thế quanh Quả Núi. Nhưng vào cái thời thịnh vượng của chúng tôi thì dường như việc canh gác ít được cần đến, vì thế mà đám lính canh sinh ra mất cảnh giác, có lẽ thế – nếu không thì hẳn chúng tôi đã được báo động sớm hơn về việc lão rồng xuất hiện, và tình hình có thể đã khác. Tuy vậy bây giờ chúng ta có thể nằm giấu mình an toàn ở đây một lát, và có thể tha hồ quan sát mà không bị ai nhìn thấy.”
“Chẳng ích lợi gì lắm đâu, nếu trong lúc đang tới đây chúng ta đã bị nhìn thấy rồi,” Dori nói, chú này lúc nào cũng ngước nhìn về phía đỉnh Quả Núi như thể chú tin là sẽ nhìn thấy lão rồng Smaug đang đậu ở đó như một con chim trên tháp chuông.
“Chúng ta phải tận dụng cơ hội này mà nghỉ,” Thorin nói. “Hôm nay chúng ta không thể đi thêm nữa.”
“Hoan hô, hoan hô!” Bilbo kêu to và nằm lăn ra đất.
Gian phòng bằng đá trước kia hẳn phải đủ chỗ cho cả trăm người, và còn một phòng nhỏ sâu hơn ở phíatrong, cách biệt hơn với cái lạnh bên ngoài. Giờ đây phòng đó bị bỏ hoang; dường như ngay cả đám dã thú cũng chưa hề bén mảng tới đó trong suốt thời kỳ thống trị của lão rồng Smaug. Họ đặt các món đồ mang theo xuống; rồi một vài chú nằm lăn ngay ra mà ngủ, còn các chú khác thì ngồi gần cửa ngoài và bàn bạc kế hoạch. Suốt trong cuộc trò chuyện của mình, họ luôn trở lại một vấn đề: lão rồng Smaug đang ở đâu? Họ nhìn sang hướng Tây và chẳng có gì hết, rồi hướng Đông cũng chẳng có gì, rồi ở hướng Nam cũng chẳng thấy tăm hơi nào của lão mà chỉ có rất nhiều chim chóc đang tụ tập. Họ chằm chằm nhìn quang cảnh đó và lấy làm kinh ngạc; song họ còn chưa hiểu thêm được gì về sự tụ họp của bầy chim thì những ngôi sao sớm lạnh lẽo đã xuất hiện.