39 Manh Mối (Tập 2: Bí Mật Của Mozart)

Chương 07 - 08


Bạn đang đọc 39 Manh Mối (Tập 2: Bí Mật Của Mozart): Chương 07 – 08

Chương 7
NHẬT KÝ KHÔNG PHẢI THỨ DAN QUAN TÂM – thậm chí cả khi vit bằng tiếng Anh và viết bởi những người mà nó có quan tâm đến. Nó tránh xa quyển nhật ký, cố gắng dụ con Saladin chén một lon cá ngừ, trong lúc Nellie và Amy cặm cụi bên quyển nhật ký bọc bằng da. Nellie đang dịch những từ ngữ cầu kỳ và cũ kỹ của Maria Anna Mozart.
“Có gì hay không mấy chị?” Nó gọi với về phía hai người.
“Thật là một tấn bi kịch,” Amy trả lời Dan. “Nannerl là một trong số những nhạc công xuất chúng nhất vào thời bấy giờ. Nhưng lại có quá ít người từng nghe bà trình diễn. Bà là một thiên tài – tài năng không kém cạnh người anh Mozart là mấy. Nhưng vào thời đó, các cô gái trẻ chỉ có việc lấy chồng, rồi thì nấu nướng và quét dọn, rồi có em bé.”
Dan trông thật hờ hững. “Em cũng chưa nghe gì về anh trai của bà ta mà – cho tới trước khi cuộc thi này bắt đầu. Ý em là, em đã nghe Baby Mozart[1] – chị biết mà, cái video…”
[1] Bộ đĩa nhạc Mozart với các giai điệu dành cho trẻ em, được cho là để tăng cường trí thông minh.
Nellie nhíu mày lại và nhìn về hướng thằng bé. “Em sẽ còn nhận ra rất nhiều nhạc của ông. Chúng ta đang nói về nhiều trong số những giai điệu nổi tiếng nhất mọi thời đại. Thậm chí là Twinkle, Twinkle, Little Star[2] – phần nhạc cũng do Mozart sáng tác đó.”
[2] Một bài đồng dao nổi tiếng của Tây phương có tên Ah Vous dirai-je, Maman mà dựa vào đó Mozart đã sáng tác bộ 12 biến tấu trên đàn piano vào khoảng năm 1781-1782, khi ông 25 tuổi.
“Em có thể đoán được những gì mà Nannerl có thể cống hiến cho xã hội nếu như bà được phép phát triển tài năng của mình,” Amy thêm vào.
“Em không quan tâm nhạc nhách gì hết” Dan phản pháo, “Bà ta có cho thêm manh mối gì không nào?”
Amy lắc đầu. “Không có các chú thích ở bìa sách hay cái gì đại loại như vậy cả.”
“Có một lá thư của anh trai bà dán ở đây,” Nellie cung cấp tiếp thông tin, “Nhưng dường như Mozart nói về lúc ông ngừng làm việc. Ông nói chỉ muốn dùng bản hợp đồng của mình làm giấy đi vệ sinh.”
“Thật vậy sao?” Dan bất chợt quan tâm đến chuyện này. “Mozart nói thế á? Đưa em xem!”
“Nó là tiếng Đức, đồ ngốc,” Chị nó bảo. “Họ cũng có từ ‘giấy vệ sinh’ chớ bộ.”
“Vâng, nhưng em không nghĩ một nhân vật cừ khôi như Mozart biết từ này.”
“Khoan đã!” Giọng Amy cất lên vẻ dè chừng. Nó lật sang trang kế tiếp, giữ gáy sách hết sức cẩn thận. “Ở đây thiếu vài trang này! Ít nhất là hai trang. Hai người nhìn đây!”
Cả ba quan sát quyển nhật ký thật cẩn thận. Amy nói đúng. Tên trộm đã hơi quá thận trọng khi phi tang chứng cứ của mình – phần bị lấy đi mất được cắt bằng một con dao rất bén. Phần cắt xén gần như không thể nhận thấy được.
“Chị có nghĩ Jonah làm chuyện này không?” Dan hỏi.
“Chị cũng nghi là vậy,” Amy trả lời nó. “Nhưng vậy thì cần gì gã ta phải giấu quyển nhật ký trên cái đèn chùm nếu gã đã lấy đi hết những phần quan trọng rồi?”
“Để đánh lạc hướng chúng ta hay sao?” Dan nêu ý kiến.
“Có lẽ, nhưng mà hãy nhớ là – quyển sách này ngót nghét cũng hơn hai trăm năm tuổi. Từ lúc đó cho đến nay những trang giấy này hoàn toàn có thể bị lấy đi bất kỳ lúc nào. Theo những gì chúng ta được biết, chính Nannerl đã xé ra vì bà đã làm vấy mực lên đó.”
“Không phải nói xấu đâu, hai nhóc.” Nellie chen vào, “nhưng chị đã ở chung với nhà tụi em đủ lâu để thấy chuyện này đầy ắp những gì của nhà Cahill. Chưa khi nào chị thấy một tập hợp đâm sau lưng chiến sĩ nhiều như vậy hết.”
“Chị nói đúng,” Dan rầu rĩ thừa nhận. “Cứ hễ lúc nào chúng ta nghĩ mình đang tiến triển với các đầu mối của cuộc thi thì hóa ra đã có một ai đó nhanh chân hơn.”
“Bình tĩnh nào,” Amy bảo nó. “Manh mối đâu có nằm trong quyển nhật ký; đó là âm nhạc. Và chúng ta lại là những kẻ duy nhất có món đó trong tay. Hãy xuống dưới nhà, chỗ sảnh khách sạn. Chị thấy đó có một cây piano.”
***

Hai đứa làm thành một bức tranh thật đáng yêu – một cô bé Mỹ bên chiếc dương cầm, còn đứa em trai đứng bên cạnh. Nếu chỉ ra chi tiết tấm nhạc phổ thực chất là mặt sau một tờ giấy ăn của đường sắt châu Âu còn Amy chơi đàn cũng ngượng ngập thì quả là hơi bị khắt khe.
“Ôi bà trẻ Beatrice đáng yêu của chúng ta,” Amy nói nhỏ với Dan. “Chính Beatrice đã cắt bớt thời gian học piano của chị để lấy thêm ít tiền lẻ đó.”
Beatrice là em gái của bà ngoại chúng, và cũng là giám hộ của chúng trên danh nghĩa. Cũng chính nhờ bà trẻ đáng yêu này mà giờ đây Amy và Dan đang bị dịch vụ công ích của Khối thịnh vượng chung tiểu bang Massachusetts truy lùng.
“Hãy chơi bản mới đi,” Dan đề nghị. “Cái phần không nằm trong bài hát thật đó. Lỡ đâu một cánh cửa bí mật sẽ mở ra, hay chúng ta gọi được thần đèn của nhà Cahill đến giúp, hay gì đó đại loại như vậy thì sao.”
Amy chơi thử, một giai điệu thanh thoát, nhẹ nhàng, rất khác với phần nhạc cổ điển nặng nề được viết xung quanh nó. Bất thình lình, có một phụ nữ đang đứng cạnh cây dương cầm cất tiếng hát theo bài hát đang được Amy đánh. Ca từ của nó là tiếng Đức, nhưng rõ ràng giai điệu của nó giống hệt nhau và nó khiến cho người phụ nữ thấy sảng khoái.
“Bà biết bài hát này sao!” Amy thốt lên ngạc nhiên. “Có phải là của Mozart không ạ?”
“Nein[3] – không phải của Mozart. Đó là một ca khúc nhạc dân gian Áo có tên là “Der Ort, wo ich geboren war”. Trong tiếng Anh có nghĩa là “Nơi tôi được sinh ra”. Cám ơn hai cháu thật nhiều. Đã nhiều năm nay bà không còn nghe bản nhạc này.”
[3] Không phải, tiếng Đức.
Amy tóm lấy tay Dan và kéo nó đến bên chỗ khu của hốc tường nơi có một cái lò sưởi. “Chính nó! Chính là đầu mối đó!”
“Cái gì chớ? Một bài hát cũ sao?”
“Đó là một thông điệp giữa Mozart và Ben Franklin!”
Dan ngạc nhiên quá đỗi đến nỗi mắt nó lồi hẳn ra. “Được được, nhưng trên đó viết cái gì?”
“Viết là ‘hãy đến nơi mà ta đã được sinh ra.’ Mozart sinh ra tại thị trấn Salzburg, ở vùng núi Alps thuộc địa phận nước Áo. Và đó chính là nơi chúng ta sẽ phải đến.”
***
Chiếc xe cả bọn thuê là một con Fiat cũ rích cứ kẽo cà kẽo kẹt từng khớp một và không thích thú gì việc trèo lên dãy Alps, nhưng lại sẵn sàng lăn khí thế xuống phía dưới. Một phần cũng hẳn là tại Nellie. Trước đây cô nàng chưa khi nào chạy xe sang số bằng tay hết.
“Thật là bá cháy hết sức ột chuyến leo núi,” Dan càu nhàu.
“Nè – có muốn chạy thử không, ông tướng?” Nellie bực dọc xỉa lại ngay. Và Dan trả lời là “có”, hăm hở đến độ cô nàng thấy tiếc vì đã hỏi nó như vậy.
Saladin lãnh trọn ba giờ đồng hồ say xe. Nhưng may mắn ở chỗ, con mèo đâu có gì trong bụng, thành thử cũng chẳng oẹ ra cái gì.
Chuyến đi đã có thể tiện nghi và thoải mái hơn nhiều nếu đi bằng xe lửa. Thế nhưng cuộc đụng độ với nhà Holt từ lần rời khỏi Paris đã buộc cả bọn phải chọn cách di chuyển khác. Trên một chuyến xe lửa công cộng thật dễ khiến cả đám bị phát hiện. Với đầu mối mới nhất và cũng là duy nhất trong tay, chắc chắn tất cả những đội kia cũng đang lăm lăm đuổi theo chúng.
Bất chấp chuyến đi khá ư là khó chịu, cảnh vật xung quanh thật hùng vĩ. Xa lộ uốn lượn qua suốt dãy Alps tại Áo như một dải ruy băng xoắn xuýt dưới bàn chân của những gã khổng lồ. Chẳng mấy chốc cổ chúng đã mỏi nhừ vì cứ thò miết ra cửa sổ để chiêm ngưỡng những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa.
“Giờ thì nó đã giống hơn rồi đây,” Nellie đồng tình. “Chị tham gia vào cuộc hành trình này để được quan sát thế giới, chứ không phải chết dí trong một cái bót cảnh sát ở Vienna.”
Chính nhóc Dan cũng rất ấn tượng trước những ngọn núi nhấp nhô hùng vĩ. “Em cá là nếu mình cuộn lại giống như một quả bóng tuyết ở trên đỉnh thì đến khi lăn xuống tới phía dưới nó cũng đủ hạ nốc ao cả một thị trấn chứ chẳng chơi!”
Vừa quá hai giờ, cả bọn đã đến Salzburg – một thành phố nhỏ bé của những tòa tháp óng ánh, của kiến trúc baroque, của những khu vườn rực rỡ e ấp giữa những ngọn đồi xanh ngát.
“Thật tuyệt vời!” Nellie thốt lên.
“Nơi đây rộng lớn hơn em tưởng,” Amy nói một cách thất vọng. “Chúng ta không biết mình đang tìm cái gì, thậm chí cũng không biết nên bắt đầu từ đâu nữa.”

Nellie nhún vai. “Khá rõ ràng mà. Tên bài hát là ‘Nơi tôi được sinh ra’.” Ta sẽ tìm một quyển sách hướng dẫn rồi tìm ngay căn nhà mà Mozart đã lớn lên ở đó.”
Tiếng rên rỉ của Dan thậm chí còn lớn hơn và thảm thiết hơn những tiếng meo meo cau có của con Saladin. “Ôi trời đất ơi, làm ơn đừng vậy nữa chớ. Hai người đừng có dắt em tới một căn nhà Mozart nữa đi. Giờ em còn chưa hết ngán cái căn hồi trước đây!”
“Đừng nhõng nhẽo,” Amy dứt khoát. “Mình không phải khách du lịch. Mình đến nơi có các đầu mối.”
“Tại sao mấy đầu mối không bao giờ ở trong một nơi chính xác trên bản đồ vậy?” Dan lại cằn nhằn. Bỗng dưng nó bật dậy. “Coi chừng!”
Một khách bộ hành hối hả trên đường ngay trước mũi chiếc Fiat. Nellie dồn hết sức bình sinh để đạp thắng xe. Bánh xe ngừng quay, và chiếc xe phanh kít lại cách vị khách qua đường luống tuổi chỉ vài centimet.
Nellie xém chút nữa đã lên cơn lôi đình. “Đồ ngu!” Cô nàng vươn tay tọng một cú thật mạnh vào còi xe.
Amy chộp ngay lấy khuỷu tay của Nellie. “Đừng!” Nó rít lên, cố gắng thụt đầu xuống phía dưới. “Hãy nhìn xem đó là ai kia!”
Chương 8
BA CẶP MẮT ĐỔ DỒN VỀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG châu Á cao dỏng, lưng thẳng đơ đang hối hả băng qua đường, lọc cọc khua cây gậy đi bộ đầu nạm kim cương.
Alistair Oh, họ hàng Hàn Quốc của bọn nhỏ và cũng là một đối thủ khác trong cuộc tranh tài.
“Quá nhiều khó khăn với chúng ta khi làm một đội dẫn đầu.” Dan bình luận.
“Lão ở đây chắc đâu chỉ để hít thở không khí miền núi,” Nellie đồng tình.
Cả bọn nhìn Alistair băng nhanh qua đường và trèo lên một chiếc xe buýt đang đậu phía bên kia.
“Bám theo ngay,” Amy chợt có ý kiến. “Hãy xem cha này đang làm gì.”
Nellie làm một cú rẽ phải trái luật từ làn đường bên trái và lọt thỏm ngay giữa dòng xe ngay phía sau chiếc xe buýt. Cô nàng vẫy tay chào hồn nhiên với những gã tài xế Salzburg đang chửi um lên và bấm còi inh ỏi.
“Chị biết đó,” Dan trầm ngâm, “Nếu muốn tìm xem lão này đang đi đâu, tại sao chúng ta lại không hỏi trực tiếp? Ta vẫn có một liên minh với nhau hồi ở Paris kia m
“Em còn nhớ những gì ông McIntyre đã nói không?” Amy phản đối. “Đừng tin một ai.”
“Có lẽ vậy. Nhưng mà chính Alistair đã cứu chúng ta trong Hầm mộ.”
Amy vẫn không suy chuyển. “Chỉ vì ông ấy phải giúp ta chặn nhà Kabra lại mà thôi. Có một điều mà đến giờ chúng ta cần phải hiểu đó là nhà Cahill đã chiến đấu với nhau hàng nhiều thế kỷ qua. Ông ấy sẽ chẳng từ thứ gì nhằm ngăn không cho chúng ta đoạt được 39 manh mối đâu.”
Cả bọn đi theo chiếc xe buýt khi nó băng qua cầu Staatsbrucke – chiếc cầu nằm ngay trung tâm thị trấn. Có thêm khách lên xe, nhưng chẳng ai bước xuống. Các con đường đầy ắp xe hơi và taxi, lại còn vô số các đám đông khách ngoạn cảnh có mặt ở khắp nơi. Một nhóm học sinh trung học bước ra ngay trước đầu chiếc Fiat, chiếc xe buýt bo theo một khúc quanh và biến khỏi tầm mắt.
“Đừng để mất dấu họ,” Dan cuống cuồng hối thúc.
Cuối cùng con đường đã quang, và chiếc Fiat lắc lư chao đảo, khiến Nellie điều khiển hết sức khó khăn. Ba người xóc nảy lên khi xe đi vào mấy con phố hẹp và hoàn toàn không thấy bóng dáng chiếc xe buýt ở đâu cả.
Amy chỉ tay. “Ở đằng kia!”

Chiếc xe buýt đã thoát ra khỏi mạng lưới chằng chịt các con đường trung tâm và đang bon bon quanh một sườn đồi. Trong tiếng đinh tai của động cơ, cả bọn lại nhanh chóng đuổi theo, Nellie tăng tốc khi chiếc Fiat vừa quành qua một khúc cua. Cả bọn quá tập trung vào tốc độ đến nỗi chạy vượt qua luôn chiếc xe buýt trong lúc nó đang thả hành khách xuống một cánh cổng đá cổ xưa.
Amy quan sát thật kỹ một dãy căn nhà rất cổ phía trên có những tháp chuông và thánh giá. “Một nhà thờ ư?”
Vẻ khổ sở hiện rõ trên khuôn mặt Dan. “Bộ giống Mozart chưa đủ chán hay sao.”
“Nhà thờ gần đây nhất mà ta đã vào không chán em trai à,” Amy nhắc nó nhớ. “Suýt nữa là bị giết thôi.”
Nellie làm một cú quay đầu chữ U và tấp xe vào điểm cách chiếc buýt một khoảng an toàn. “Tổng viện Thánh Peter,” cô dịch lại khi liếc mắt nhìn vào một tấm biển bằng sắt uốn.
Cả bọn có thể thấy dáng người dong dỏng của Alistair hiện ra tại con đường dốc băng xuyên qua cánh cổng.
Nellie chau mày. “Hai đứa nghĩ đầu mối của tụi em có thể nằm ở đây sao?”
“Alistair cho là như vậy,” Amy quả quyết. “Tụi em không thể bỏ cuộc cho đến khi tìm ra một cách nào khác. Sao chị không thử tìm một khách sạn và cho con Saladin nghỉ ngơi một chút sau chuyến đi?”
Cô nàng au pair lưỡng lự. Dan lên tiếng. “Nơi này có đầy khách du lịch. Nguy hiểm chỗ nào chứ?”
“Được rồi,” Nellie quyết. “Một giờ nữa chị sẽ quay lại đây. Đừng có để mình bị giết đó.” Rồi cô lái xe đi.
Hai đứa đi qua cánh cổng, và Amy chọn một tài liệu mỏng bằng tiếng Anh trong kệ. “Woaa”, Nó mừng rỡ. “Nơi đây đã có lịch sử hơn 1.300 năm. Tu viện được thành lập vào năm 686, nhưng họ cho rằng người La Mã thậm chí còn có mặt ở đây trước cả lúc đó.”
“Người La Mã?” Dan cho thấy nó đang có chút hứng thú về đề tài. “Những đạo quân La Mã có vài kỹ năng đánh nhau rất bá cháy đó nha.”
“Đó là lý do vì sao em thấy các món vũ khí La Mã ở khắp châu Âu,” Amy lý giải. “Quân đội của họ mạnh đến nỗi họ đã chinh phục gần hết thế giới vào thời điểm đó.”
“Đúng là không sao ngăn lại được,” Dan đồng tình. Nó lại nhăn nhó. “Vậy cái nhà thờ này thì sao đây?”
“Nó được xây sau một chút, vào thế kỷ 12 – rất lâu sau khi người La Mã bỏ đi. Những ngôi mộ lâu đời nhất trong nghĩa trang có niên đại trong khoảng thời gian này.”
“Nghĩa trang sao?” Dan rạng rỡ hẳn lên. “Nơi này bắt đầu làm em thích rồi đây!”
Cả hai khom người xuống thấp cho đến khi nhóm du khách của Alistair tràn vào chánh điện, đoạn lần qua cánh cổng vòm dẫn ra nghĩa trang. Nơi đây không giống với bất kỳ nghĩa trang nào mà Dan từng được thấy – các bụi cỏ mọc um tùm, những cột mốc đánh dấu gần như bị che khuất bởi các vòm lá. Thay vì những bia mộ, những nấm đất chôn người chết được thể hiện bởi những biển tên bằng sắt uốn với những dòng chữ kiểu cổ thật bắt mắt.
“Chúng làm em nhớ đến bộ sưu tập muỗng của bà Beatrice,” Dan làu bàu với Amy.
Amy vẫn gí mũi vào cuốn tài liệu. Ngay lập tức, nó chộp lấy cổ tay em mình và ấn thật mạnh vào xương mác. “Dan ơi – trong đây ghi chỗ này chính là nơi an táng Nannerl Mozart!”
Cặp mắt Dan mở to kinh ngạc. “Chúng ta sẽ đào một cái xác lên hay sao? Tiệt zời!”
“Suỵt! Tất nhiên là không rồi!”
“Nhưng nếu như Mozart đã đặt một đầu mối vào xác bà chị mình thì sao?”
Amy lắc đầu. “Mozart qua đời trước Nannerl. Lúc này đây ta đang đi tìm một ngôi mộ tập thể. Quyển sách này nói đó là nơi bà được an táng.”
“Là gì?” Dan hỏi. “Giống như một nhà chung cư cho người chết hở?”
“Hãy tỏ ra tôn trọng một chút đi cưng. Một trong những người khác nằm trong nghĩa trang này chính là Michael Haydn, cũng là một nhà soạn nhạc lừng danh, là một trong những người nhiệt tình ủng hộ Mozart nhất.”
Dan vẫn chưa thể chịu ngừng lại. “Vậy giờ này ông ấy đang làm gì – tối tác…”
[1] Chơi chữ, pose là sáng tác nhưng d pose là phân hủy (của xác chết).
“Đừng có nói những điều kinh tởm như vậy chứ. Đi nào.”

Hai đứa mất một vài phút đi rảo quanh trước khi tìm ra ngôi mộ. So với những ngôi mộ được trang hoàng lộng lẫy và cầu kỳ ở nhà thờ thánh Peter, nó chỉ là một kiến trúc bằng đá giản đơn trên đó khắc tên người chết với vài dòng trích dẫn từ kinh thánh được khắc lên tường. Không có tí dấu hiệu nào của một đầu mối ở đây.
“Nannerl ạ, không ai quên bà đâu,” Amy khẽ nói, lòng buồn buồn. “Người ta đã bắt đầu xem bà là một thiên tài đích thực rồi.”
“Điều gì thật sự là thu hút ở bà Nannerl Mozart này chứ?” Dan hỏi. “Ừ thì bà ta cũng giỏi như em mình. Rồi sao nữa?”
“Bộ em không thấy như vậy quá bất công sao?” Amy vặn lại. “Bà ta không được người khác biết đến và tôn trọng chỉ vì bà là một thiếu nữ.”
“Em đồng ý,” Dan đáp. “Bà ta rất là bảnh đó chứ. Nhưng giờ thì bà ấy cũng đã ở trong nấm mồ này vài trăm năm rồi, tôn trọng gì đi nữa thì có làm được gì khác hơn đâu?”
“Khác với chị,” Amy cãi lại. “Nếu hai đứa mình là con cháu của Mozart thì sao? Em nghĩ sao nếu mình được xem là một thiên tài bẩm sinh còn chị không là ai cả trong khi thực tế hai đứa chúng ta tài giỏi ngang nhau?”
Dan vẫn khăng khăng. “Điều này không thể nào xảy ra với chúng ta được. Chúng ta có giỏi ở bất kỳ cái gì giống nhau đâu. Chị Amy, xem cái gì kia?”
Dan nhìn lom lom lối vào Hầm mộ vẻ tò mò. Tu viện tựa lưng vào một bề mặt đá phẳng. Nằm cách mặt đất chừng hai mươi mét, toàn bộ đường nét chính của tu viện như khắc vào trong ngọn núi. “Ai lại đặt một tòa nhà giữa lưng chừng vách núi như vậy chớ”
Khi quan sát kỹ hơn, hai đứa tìm thấy một cầu thang thô sơ đẽo thẳng vào đá, dẫn lên một cổng vào tựa như lối vào hang động.
Amy thử dò trên cuốn tài liệu. “Đây rồi. Đây là lối đi vào hầm mộ Salzburg.”
“Hầm mộ á?” Dan nhắc lại vẻ lo lắng. Hai đứa từng suýt chút nữa là lạc vĩnh viễn trong hầm mộ Paris. Nó không lấy gì ngạc nhiên nếu màn biểu diễn đó lại được tái hiện ở đây.
“Ừm, đây không phải là kiểu hầm mộ rải đầy xương người đâu,” Amy lý giải. “Nhưng trong đây ghi là có các đường hầm ở trong ngọn đồi. Nếu có đầu mối tại nhà thờ thánh Peter, chị cá là nó sẽ nằm đâu đó quanh đây.”
Một nhóm khách du lịch xuất hiện trước mắt chúng, đang tìm đường đi lên lối vào ở trên vách núi. Ngay giữa đoàn khách nổi bật lên cái dáng cao kều của Alistair Oh.
“Và đấu thủ lại vừa vượt lên trước chúng ta,” Dan bổ sung.
Ngay khi đoàn khách trong đó có Alistair biến mất đằng sau bề mặt đá, hai đứa trẻ nhà Cahill đi thật nhanh đến những bậc thang bằng đá gồ ghề lởm chởm. Amy cảm nhận được một sự bất an đang rình rập mỗi khi nó bước vào bên trong ngọn núi – như thể chúng đang bị một sinh vật nào đó vừa già cỗi như quả đất, lại bất di bất dịch, có kích thước khổng lồ và luôn im lìm nuốt chửng vào trong. Amy và Dan nhìn nhau trong sợ hãi. Hầm mộ Paris vốn đã chồng chất toàn xương là xương, những hộp sọ ghê rợn túa ra từ mọi hướng. Nơi đây có thể còn thấp hơn trong thang “sợ”. Song cảm giác xa rời những gì thân quen để đối mặt với những thứ rùng rợn và quái gở thậm chí còn lớn hơn khi có mặt ở đây.
Con đường hầm ẩm ướt cảm giác giống như một cái họng hút khí vào bên trong. Đây chắc chắn là nơi tệ hại nhất trên trái đất này để cho cơn suyễn của Dan bộc phát.
Bình tĩnh nào, nó tự nhủ với chính mình. Cơn suyễn chỉ xuất hiện khi có bụi bẩn và phấn hoa, không phải từ sự sợ hãi.
Về phía tay trái của chúng là một nhà nguyện rất nhỏ trong hang đá như trong bộ phim hoạt hình nhà Flintstone. Đoàn của Alistair đã có mặt tại đó khi hai đứa trẻ nhà Cahill đi ngang qua, thế là họ che khuất luôn mặt của cả hai.
Càng tiến sâu vào bên trong mọi thứ càng tối hơn. Lối đi chỉ được thắp sáng bằng một dãy vài ba bóng điện yếu ớt mắc xa nhau đến nỗi ngay khoảng cách giữa hai bóng, mọi thứ đã nhanh chóng nhòa vào bóng tối hoàn toàn.
Tiếp tục tiến lên phía trước, lại có một nhóm khách du lịch khác đang hướng về phía hai đứa trẻ. Những khuôn mặt nhợt nhạt, chỉ sáng được phía bên trên, biến mất vào bóng tối để rồi thình lình lại xuất hiện cách đó mươi thước. Cảm giác giống như đang ở một thế giới khác – như thể các quy luật của tự nhiên không còn áp dụng được cho cái chốn xa xăm này vậy.
“Mọi người hãy đi về phía bên phải,” hướng dẫn viên điều khiển đám đông du khách bước ngang qua hai đứa trẻ nhà Cahill đang ở gần đó.
Hai đứa bị thúc vào khuỷu tay và vào vai khi đám đông chen lấn đi ngang. Có ai đó đã giẫm vào móng chân của Amy, và nó thở thật mạnh – hay có thể hơi thở chính là phản ứng của nó trước một người nó vừa thấy trong ánh điện lờ mờ.
Gã này lớn tuổi, có lẽ còn lớn hơn Alistair, có thể đã gần bảy mươi, với làn da lỗ rỗ đầy dấu vết thời gian. Trang phục của gã hoàn toàn màu đen, nên đầu của gã nom như thể đang treo lửng lơ trên không.
Tim của Amy đập thình thịch đến nỗi nó sợ rằng biết đâu quả tim sẽ bật thẳng ra khỏi lồng ngực. Con bé nắm chặt tay em mình và bắt đầu dắt nó chạy dọc theo lối đi.
“Chậm lại đi nào!” Dan cằn nhằn.
Amy vẫn không dừng bước cho đến lúc nó cảm thấy tai mình không còn nghe được âm thanh của đám du khách nữa. “Dan này… ng… người đàn…” Thậm chí khi đã thì thầm được rồi, nó cũng không thể kiểm soát nổi cơn lắp bắp vì sợ hãi.
“ình tĩnh lại đi nào,” Dan trấn an.
“Người đàn ông áo đen đang có mặt tại đây!”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.