Bạn đang đọc Tôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ: Chương 02 Part 1
CHƯƠNG 2 – MẸO TRỞ THÀNH TIỂU THUYẾT GIA CHẠY BỘ
NGÀY 14 THÁNG TÁM NĂM 2005 – KAUAI, HAWAII
Hôm nay là ngày Chủ nhật, ngày 14 tháng Tám. Sáng nay tôi chạy một giờ mười lăm phút, nghe Carla Thomas và Otis Redding trong máy nhạc MD. Buổi chiều tôi bơi gần 1.400 mét trong hồ bơi và buổi chiều tối thì bơi ngoài biển. Rồi sau đó tôi ăn tối – bia và cá – tại nhà hang Hanalea Dolphin ngay bên ngoài thị trấn Hanalea. Món cá tôi ăn là walu, một loại cá thịt trắng. Họ nướng cá cho tôi trên lò than, và tôi ăn cá nấu với xốt đậu nành. Món phụ là kebab rau, cộng với một đĩa xa lát lớn.
Đến tháng Tám này tôi đã tích lũy được chin mươi ba dặm. Từ lần đầu tiên tôi bắt đầu chạy đều đặn hàng ngày đến nay đã lâu lắm rồi. Cụ thể, đó là vào mùa thu năm 1982. Hồi ấy tôi ba mươi ba tuổi.
o O o
Không lâu trước đó tôi vẫn đang trông nom một kiểu câu lạc bộ nhạc jazz gần ga Sendagaya. Chẳng bao lâu sau khi học đại học – thực ra thì tôi quá bận bịu nghề tay trái đến nỗi vẫn còn thiếu một ít tín chỉ tốt nghiệp nên chính thức mà nói thì vẫn còn là một sinh viên – tôi mở một câu lạc bộ nho nhỏ tại lối vào phía Nam ga Kokubuniji và trông coi câu lạc bộ trong khoảng ba năm; khi người ta bắt đầu xây lại tòa nhà nơi tôi ở, tôi chuyển đến một địa điểm mới gần trung tâm Tokyo hơn. Chỗ mới này không lớn lắm, nhưng cũng không nhỏ. Chúng tôi có một cây đàn piano cánh và chỉ vừa đủ chỗ để chen thêm một bộ năm. Ban ngày chúng tôi phục vụ cà phê, ban đêm thì nơi đây là quán rượu. Chúng tôi cũng phục vụ thức ăn khá tươm tất, cuối tuần thì có trình diễn nhạc sống với tiết mục chủ đạo. Kiểu câu lạc bộ nhạc jazz sống này vẫn còn khá hiếm vào thời đó, vậy nên chúng tôi có một lượng khách đều đặn và doanh thu khá ổn.
Hầu hếtnhững người tôi quen biết đều tiên đoán là quán rượu sẽ không ăn nên làm ra. Họ cho là một việc kinh doanh mà lại làm kiểu như sở thích thì sẽ chẳng đi tới đâu, rằng người như tôi, khá ngây thơ và rất có thể là không có chút khả năng kinh doanh nào, sẽ không thể thành công được. Ấy thế mà, tiên đoán của họ trật lất. Nói thật, ngay cả tôi cũng không nghĩ mình có mấy khả năng kinh doanh. Tôi chỉ tính rằng, dù sao, vì thất bại không phải là cái mình muốn chọn, nên tôi phải làm hết sức mình. Ưu điểm duy nhất của tôi luôn là ở chỗ tôi chịu khó làm lụng và giỏi chịu đựng về mặt thể chất. Tôi giống ngựa làm việc hơn là ngựa đua. Tôi được nuôi dạy trong một gia đình trí thức, nên tôi không biết gì nhiều về kinh doanh, nhưng may thay gia đình bên vợ tôi có kinh doanh nên trực giác thiên phú của nàng giúp ích rất nhiều. Dù có là một con ngựa làm việc giỏi thế nào chăng nữa tôi cũng không thể tự mình thành công được.
Bản thân công việc ấy rất nhọc nhằn. Tôi làm việc từ sáng đến tận khuya, cho đến khi kiệt sức. Tôi đã kinh qua mọi kiểu vất vả, những thứ tôi phải vắt óc mình ra mà nghĩ, và rất nhiều nỗi thất vọng. Nhưng tôi làm việc như điên, và cuối cùng thì tôi cũng bắt đầu kiếm đủ tiền lời để thuê người khác giúp sức. Đến gần cuối độ tuổi hai mươi, rốt cuộc tôi đã có thể xả hơi. Để mở quán rượu tôi đã vay mượn hết mức có thể từ tất cả mọi nơi có thể cho tôi mượn, và tôi đã gần như trả hết. Mọi thứ đi vào ổn định. Mãi đến lúc ấy, kiếm vừa đủ tiền để trụ được vẫn là một vấn đề sống còn đơn thuần, và tôi không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến bất cứ gì khác nữa. Tôi cảm thấy như mình đã lên đến trên cùng một cái thang dốc đứng nào đó và ló ra một nơi khá thoáng đãng, lòng tự tin vì mình đã lên được đấy bình an vô sự, mình có thể xử lý bất kỳ vấn đề nào có thể nảy sinh trong tương lai và mình sẽ sống sót. Tôi hít một hơi thật sâu, từ từ quan sát quanh mình, ngoái xuống liếc nhìn những bậc thang mình đã bước lên, và bắt đầu suy ngẫm về giai đoạn kế tiếp. Sắp sang tuổi ba mươi rồi. Tôi đang đến cái tuổi không thể nào được xem là còn trẻ nữa. Và gần như bất ngờ, tôi bỗng có cái ý nghĩ hay mình viết một cuốn tiểu thuyết.
Tôi có thể chỉ ra chính xác cái khoảnh khắc khi lần đầu tiên tôi nghĩ mình có thể viết một cuốn tiểu thuyết. Lúc đó là khoảng một giờ rưỡi chiều ngày 1 tháng Tư năm 1978. Hôm đó tôi đang ở Sân vận động Jingu, ngồi một mình ở sân ngoài uống bia và xem trận đấu. Lúc đó Sân vận động Jingu chỉ cách căn hộ của tôi một tầm đi bộ, và tôi là một fan khá cuồng nhiệt của đội Yakult Swallows. Hôm ấy là một ngày xuân tuyệt đẹp, không gợn mây trên bầu trời, ngọn gió ấm áp thổi. Hồi đó ở đấy không có băng ghế nào ở chỗ ngồi nơi sân ngoài cả, chỉ là một dốc cỏ.
Tôi đang nằm trên cỏ, nhấm nháp bia lạnh, thỉnh thoảng ngước nhìn bầu trời, và ung dung thưởng thức trận đấu. Như thường lệ mỗi khi có đội Swallows, sân vận động không đông lắm. Đó là trận mở đầu giải, và họ đang đấu với đội Hiroshima Carp trên sân nhà. Tôi còn nhớ là Yasuda đang ném bóng cho đội Swallows. Anh là kiểu cầu thủ ném bóng thấp người, chắc khỏe với một cú xoáy ác hiểm. Anh dễ dàng bị loại ngay đầu lượt một, và ở cuối lượt đấu cầu thủ đập bóng số một của đội Swallows là Dave Hilton, một cầu thủ trẻ người Mỹ mới tham gia đội bóng. Hilton được đón bóng xuống cánh trái. Cú đập bất ngờ gặp bóng ngay điểm giữa của gậy vang vọng khắp sân vận động. Hilton dễ dàng bất ngờ tấn công lại lượt đầu và vượt lên trước đến lượt hai. Và đúng vào khoảnh khắc ấy, tôi chợt nảy ra một ý nghĩ: Biết gì không? Mình có thể thử viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi vẫn còn nhớ được bầu trời bao la, cảm giác cỏ non cọ dưới thân mình, cú đánh bất ngờ mạnh khiến thỏa lòng. Có gì ấy từ trên trời bay xuống vào giây phút đó, và bất luận nó là gì, tôi cũng đã đón nhận.
Tôi chưa từng có tham vọng trở thành tiểu thuyết gia. Tôi chỉ có cái mong muốn mãnh liệt viết một cuốn tiểu thuyết. Không có ý niệm cụ thể nào về cái tôi muốn viết, chỉ là cái xác tín rằng giờ đây nếu viết nó ra thì tôi có thể có được cái gì ấy mà tôi thấy có sức thuyết phục. Khi nghĩ đến chuyện ngồi vào bàn làm việc của mình ở nhà và bắt tay vào viết thì tôi mới nhận ra là mình thậm chí còn chưa có lấy một cây bút máy cho ra hồn nữa. Vậy là tôi đến cửa hiệu Kinokuniya ở Shinjuku mua một thếp giấy kẻ và một cây bút máy Sailor giá năm đô la. Một đầu tư vốn liếng nho nhỏ về phần tôi.
Chuyện đó là vào mùa xuân năm 1978, và đến mùa thu thì tôi đã viết được một tác phẩm dày hai trăm trang viết tay trên giấy kẻ của Nhật. Sau khi viết xong tôi cảm thấy rất tuyệt vời. Tôi chẳng biết làm gì với cuốn tiểu thuyết khi viết xong, tôi chỉ gần như cứ để cho cái đà ấy cuốn mình đi, bèn nộp nó để dự thi một giải thưởng của một tạp chí văn học dành cho nhà văn mới. Tôi gửi nó đi mà chẳng sao lại một bản, vậy nên dường như tôi cũng không bận tâm lắm nếu nó không được chọn và mất tăm mãi mãi. Đây là tác phẩm đã được xuất bản với nhan đề Nghe gió hát (Hear the Wind Sing). Tôi quan tâm đến chuyện hoàn tất nó hơn là chuyện nó có bao giờ được biết đến hay không.
Mùa thu năm đó, đội thua triền miên Yakult Swallows giành được cờ đuôi nheo và tiến lên đánh bại đội Hankyu Braves ở Japan Series. Tôi thực sự phấn chấn và đi xem vài trận ở Sân vận động Korakuen. (Không ai lại nghĩ là Yakult thắng, nên họ đã thu xếp sân nhà của mình. Sân vận động Jingu, cho đội bóng chày của trường đại học sử dụng). Vì vậy mà tôi nhớ lúc đó rất rõ. Đó là một mùa thu rực rỡ lạ thường, thời tiết nắng ấm tuyệt vời. Bầu trời trong vắt, và mấy cây bạch quả trước Vườn lưu niệm Minh Trị vàng rực đến mức tôi chưa từng thấy bao giờ. Đó là mùa thu cuối cùng của những năm tuổi hai mươi của tôi.
Đến mùa xuân năm sau, khi tôi nhận được một cú điện thoại từ một biên tập viên của nhà Gunzo cho biết cuốn tiểu thuyết của tôi đã được vào danh sách sơ tuyển, tôi đã quên bẵng chuyện mình vừa tham gia cuộc thi. Tôi quá bận bịu với mấy thứ khác. Thoạt tiên tôi không biết ông ta đang nói gì. Nhưng cuốn tiểu thuyết đã đoạt giải và được xuất bản vào mùa hè. Nó được chào đón khá nồng nhiệt. Tôi ba mươi tuổi, và chưa rõ chuyện gì đang xảy ra thì bỗng thấy mình được dán cho cái nhãn một nhà văn mới nổi đầy triển vọng. Tôi cảm thấy khá bất ngờ, nhưng những người quen biết tôi còn ngạc nhiên hơn.
Sau chuyện này, trong khi vẫn trông coi việc kinh doanh, tôi viết một cuốn thứ hai là truyện vừa Pinball, 1973, và trong khi đang viết cuốn này tôi cũng viết một vài truyện ngắn và dịch một số truyện ngắn của F.Scott Fitzgerald. Cả hai cuốn Nghe gió hát và Pinball, 1973 được đề cử giải thưởng Akutagawa danh giá, người ta nói cả hai đều là những ứng viên mạnh, nhưng cuối cùng chẳng cuốn nào đoạt giải cả. Dù sao thì, nói thật ra, dù thế này hay thế khác tôi cũng không quan tâm. Nếu đoạt giải thì tôi sẽ đâm ra bận bịu nào người ra phỏng vấn, nào bài nọ bài kia phải viết, và tôi e ngại điều này sẽ gây trở ngại cho việc trông coi câu lạc bộ.
Suốt ba năm trời, ngày nào tôi cũng điều hành câu lạc bộ jazz của mình – quản lý sổ sách kế toán, kiểm hàng tồn kho, sắp lịch cho nhân viên, tự mình đứng sau quầy pha cocktail và nấu nướng, đóng cửa lúc mờ sáng – và chỉ khi đó mới ngồi xuống cái bàn bếp ở nhà mà viết cho đến khi buồn ngủ. Tôi cảm thấy như mình đang sống đủ cho hai đời người. Về mặt thể chất mà nói, mỗi ngày đều đã vất vả, thế rồi viết tiểu thuyết và kinh doanh cùng một lúc còn sinh ra đủ kiểu vấn đề khác nữa. Làm kinh doanh thiên về dịch vụ, nghĩa là ta phải chấp nhận bất kỳ ai bước qua cửa. Bất kể là ai đến, trừ phi họ thật sự khủng khiếp, bằng không ta phải chào đón họ với nụ cười thân thiện trên môi. Tuy nhiên, nhờ vậy mà tôi đã được gặp mọi hạng người khác thường và có những cuộc gặp gỡ lạ thường. Trước khi khởi nghiệp viết, tôi đã tiếp nhận một cách nghiêm túc, thậm chí là hồ hởi, nhiều loại kinh nghiệm. Nói chung thì tôi nghĩ tôi thích thú những trải nghiệm này và tất cả những kích bẩy mà chúng đem lại cho tôi.
Dù sao, dần dà tôi thấy mình muốn viết một loại tiểu thuyết lớn lao hơn. Với hai cuốn đầu tiên, Nghe gió hát và Pinball, 1973, về cơ bản thì tôi đã thích thú quá trình viết, nhưng có những phần tôi không hài lòng lắm. Hai cuốn tiểu thuyết đầu này thì tôi chỉ có thể viết rời rạc, tranh thủ từng tí thời gian chỗ nọ chỗ kia – nửa giờ ở đây, một giờ ở kia – và do tôi luôn mệt mỏi và cảm thấy như mình đang chạy đua với thời gian khi viết, nên chưa từng tập trung được. Với cái kiểu làm việc rời rạc này tôi cũng viết được dăm ba thứ thú vị, mới mẻ, nhưng kết quả thì còn lâu mới được là một tiểu thuyết phức tạp hay sâu sắc. Tôi cảm thấy như mình đã được trao cho cơ hội đặc biệt để trở thành tiểu thuyết gia – một cơ hội không phải ngày nào ta cũng có được – và một mong muốn tự nhiên trỗi dậy là hãy đẩy nó đi xa hết sức mình, viết kiểu tiểu thuyết mà mình cảm thấy hài lòng. Tôi biết mình có thể viết một cái gì tầm vóc hơn. Và sau khi suy nghĩ rất lung về điều đó, tôi quyết định ngừng kinh doanh một thời gian để chỉ tập trung viết. Vào thời điểm đó thu nhập tôi có được từ câu lạc bộ jazz nhiều hơn thu nhập nhờ viết tiểu thuyết, một thực tế mà tôi phải đành chấp nhận.
Hầu hết những người tôi quen đều kịch liệt phản đối quyết định của tôi, không thì cũng hết sức hoài nghi về điều đó. “Công việc kinh doanh của anh đang tốt đẹp.” họ nói. “Sao không để ai khác trông coi một thời gian trong khi anh bỏ đi viết tiểu thuyết?” Theo cách nhìn của mọi người thì điều này có lý hoàn toàn. Và có lẽ hầu hết mọi người không cho là tôi sẽ thành công như một nhà văn chuyên nghiệp. Nhưng tôi không thể theo lời khuyên của họ được. Tôi là kiểu người phải tận tâm tận lực với bất cứ cái gì mình làm. Tôi không thể làm một việc khôn ngoan như kiểu mình thì viết tiểu thuyết trong khi ai khác lo việc kinh doanh. Tôi phàm đã làm gì là cống hiến hết mình. Nếu thất bại, tôi có thể chấp nhận. Nhưng tôi biết rằng nếu mình làm mọi việc nửa vời và rồi chẳng đi tới đâu, tôi sẽ luôn luôn hối tiếc.
Bất chấp mọi người phản đối, tôi bán cơ sở kinh doanh đi và, dù có chút ngượng nghịu, treo biển rằng mình là tiểu thuyết gia và bắt tay kiếm sống bằng nghề viết. “Anh chỉ muốn được tự do trong hai năm để viết,” tôi phân trần với vợ. “Nếu chẳng tới đâu thì lúc nào tụi mình cũng có thể mở một quán rượu khác nho nhỏ ở đâu đó. Anh vẫn còn trẻ và tụi mình luôn có thể làm lại từ đầu.” “Được thôi,” nàng nói. Lúc đó là năm 1981 và chúng tôi vẫn còn một khoản nợ đáng kể, nhưng tôi nghĩ mình cứ làm hết sức đi, rồi xem mọi chuyện sẽ ra sao.
Tôi bắt tay viết cuốn tiểu thuyết của mình và mùa thu năm đó đến Hokkaido một tuần để tìm hiểu. Đến tháng Tư năm sau tôi viết xong Cuộc săn cừu hoang (A Wild Sheep Chase). Tôi hình dung vụ này là một ăn hai thua đây, nên tôi làm hết sức mình. Cuốn tiểu thuyết này dài hơn cả hai cuốn tôi viết trước đó nhiều, lớn hơn về tầm vóc, và được dẫn dắt theo mạch truyện hơn nhiều.
Khi viết xong cuốn tiểu thuyết, tôi cảm thấy hài lòng là mình đã tạo ra được phong cách viết riêng. Toàn thân tôi rung động khi nghĩ thật tuyệt vời – và thật khó khăn – khi có thể ngồi tại bàn làm việc của mình, không lo nghĩ về thời gian, tập trung vào viết. Có những nguồn cảm hứng nguyên vẹn còn tiềm tàng trong tôi, tôi cảm thấy vậy, và giờ tôi có thể thực sự hình dung mình kiếm sống với tư cách một tiểu thuyết gia. Vậy là rốt cuộc cái ý nghĩ thối lui là mở lại một quán rượu nhỏ đã không bao giờ thành hiện thực. Dù vậy, có đôi lúc, ngay cả giờ đây, tôi vẫn nghĩ nếu mở một quán rượu nhỏ đâu đó thì thật là hay.
Các biên tập viên nhà Gunzo, vốn đang tìm kiếm gì đó theo dòng chính thống hơn, không thích cuốn Cuộc săn cừu hoang chút nào, và tôi vẫn nhớ sự đón nhận của họ mới lạnh nhạt ra sao. Dường như hồi đó (thể bây giờ thì sao, tôi tự hỏi) quan niệm của tôi về tiểu thuyết khá là không chính thống. Tuy nhiên, độc giả lại có vẻ thích cuốn sách mới này, đó là điều khiến tôi hạnh phúc nhất. Đây là một xuất phát điểm đích thực cho tôi với tư cách tiểu thuyết gia. Tôi nghĩ nếu mình cứ tiếp tục viết kiểu tiểu thuyết gia. Tôi nghĩ nếu mình cứ tiếp tục viết kiểu tiểu thuyết do bản năng mà có như từng viết hồi còn trông coi quán rượu – Nghe gió hát và Pinball, 1973 – thì có lẽ chẳng mấy chốc tôi đã đâm đầu vào ngõ cụt.
Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh khi tôi quyết định trở thành nhà văn chuyên nghiệp : làm sao để giữ ình khỏe mạnh. Tôi có cái tạng nếu không làm việc gì thì dễ tăng cân. Trông coi quán rượu đòi hỏi lao động chân tay nặng nhọc mỗi ngày, và tôi có thể giảm cân, nhưng một khi đã ngồi vào bàn suốt ngày để viết, mức sinh lực của tôi dần giảm sút và tôi bắt đầu tăng cân. Tôi cũng hút thuốc quá nhiều mỗi khi tập trung vào công việc. Hồi đó tôi hút sau mươi điếu một ngày. Mấy ngón tay tôi vàng khè cả, toàn thân tôi nồng nặc mùi thuốc lá. Chuyện này không thể nào tốt ình được, tôi nghĩ. Nếu muốn sống cuộc đời tiểu thuyết gia lâu dài, tôi cần phải tìm cách giữ cho khỏe mạnh và duy trì số cân nặng lành mạnh.
Chạy bộ có rất nhiều ưu điểm. Trước hết, ta không cần có thêm ai mới được, và không cần thiết bị đặc biệt. Ta không phải đến một nơi đặc biệt nào để chạy cả. Chỉ cần có giày chạy bộ và một con đường tốt là ta có thể chạy tùy thích. Quần vợt thì không như thế. Ta phải đến sân quần vợt, và ta cần ai đó chơi cùng. Bơi thì có thể thực hiện một mình, nhưng ta vẫn phải đến hồ bơi.
Sau khi đóng cửa quán rượu, tôi nghĩ mình sẽ thay đổi hoàn toàn lối sống, vậy nên chúng tôi dọn ra Narashino, quận Chiba. Lúc đó nó còn khá thôn dã, gần đó chẳng có cơ ngơi thể thao đàng hoàng nào cả. Nhưng lại có đường sá. Gần đó có một căn cứ Lực lượng Phòng vệ, cho nên họ bảo trì những con đường khá tốt cho xe cộ của mình. Và may mắn là trong vùng phụ cận còn có một sân tập của Đại học Nihon, nếu đi từ sáng sớm thì tôi có thể tùy nghi sử dụng – hay có lẽ phải nói là mượn không xin phép – đường đua của họ. Thành thử tôi không phải nghĩ ngợi quá nhiều nên chọn môn thể thao nào – thực ra tôi cũng có nhiều lựa chọn cho cam – khi quyết định sẽ chạy bộ.
Không lâu sau đó tôi cũng bỏ hút thuốc lá. Bỏ hút thuốc lá một kiểu kết quả tự nhiên có được nhờ chạy bộ mỗi ngày. Chẳng dễ mà bỏ được, nhưng tôi không thể cứ vừa hút thuốc vừa chạy. Cái mong muốn tự nhiên được chạy còn nhiều hơn nữa ấy trở thành động cơ mạnh mẽ giúp tôi không hút thuốc trở lại, và rất hữu ích để vượt qua các triệu chứng khi cai nghiện. Bỏ hút giống như một cử chỉ tượng trưng giã từ cuộc sống trước kia.
Tôi chưa hề ghét chạy cự ly dài. Hồi còn đi học tôi chưa hề quan tâm gì nhiều đến giờ thể dục, và luôn ghét Ngày Thể thao. Đó là vì những thứ này được áp đặt cho tôi từ bên trên. Tôi không hề chịu nổi nếu bị buộc phải làm điều gì tôi không muốn làm, và theo cách tôi muốn làm vào lúc tôi không muốn làm. Thế nhưng, mỗi khi tôi có thể làm gì đấy theo cách tôi muốn làm, thì tôi sẽ làm hết sức mình. Vốn không vạm vỡ hay có khả năng phối hợp cho lắm nên tôi không giỏi những loại thể thao nơi mọi thứ được quyết định chớp nhoáng. Chạy cự ly dài và bơi lội hợp với cá tính của tôi hơn. Gần như tôi luôn ý thức được điều đó, điều này có thể lý giải vì sao tôi có thể kết hợp nhuần nhuyễn việc chạy bộ vào đời sống thường nhật của mình.
Nếu bạn cho phép tôi lạc khỏi đề tài chạy bộ một chút, tôi nghĩ mình có thể nói đúng như thế về bản thân và chuyện học hành. Từ tiểu học lên đến đại học tôi chưa hề hứng thú với những thứ tôi buộc phải học. Tôi tự nhủ đó là một thứ phải làm cho xong, nên dù tôi không chểnh mảng hoàn toàn và vẫn có thể đi tiếp lên đại học, nhưng tôi chưa một lần nào thấy học hành hấp dẫn. Kết quả là, dù điểm số của tôi chẳng phải là thứ gì phải giấu giếm, song tôi không có một ký ức nào về chuyện được khen vì đạt điểm cao hay đứng đầu lớp trong môn này môn nọ. Tôi chỉ bắt đầu hứng thú học tập sau khi qua được hệ thống giáo dục và trở thành cái gọi là thành viên xã hội. Nếu có gì làm tôi quan tâm, và nếu tôi có thể nghiên cứu nó theo nhịp độ của riêng mình và tiếp cận nó theo cách tôi thích, tôi khá là có năng lực trong việc đạt được kiến thức và kỹ năng. Nghệ thuật dịch là một ví dụ hay. Tôi tự học dịch một mình, phương pháp vừa làm vừa học. Phải mất rất nhiều thời gian mới đạt được một kỹ năng theo cách này, và phải trải qua rất nhiều lần thử và sai, nhưng cái gì đã học được sẽ ở lại với ta mãi.