Thanh Triều Ngoại Sử

Chương 3: Độc Kinh Phủ


Đọc truyện Thanh Triều Ngoại Sử – Chương 3: Độc Kinh Phủ

Trăng vằng vặc treo nơi nẻo vắng

Rét căm căm đối ẩm vùng cao

Chí hùng anh cạn chén cùng nhau

Luận thế sự ba đào dậy sóng!

Tình thủ túc đệ huynh tỏ rõ

Cắt máu thề sướng khổ chẳng phai

Không sinh chung tháng chung ngày

Thác nguyện đúng đồng năm tương – đắc

Quyết phục Minh bày Thanh dựng quốc

Nhỏ máu hồng chan tửu cạn ly

Trở lại Quan Âm Tự, nơi Cửu Nạn sư thái và bảy đương gia Đại Minh Hội bất ngờ tập kích vua tôi Khang Hi.

Bấy giờ sư thái hét lên một tiếng thật to trợ oai, quét ngang phất trần hướng tới Sách Ngạch Đồ. Bất quá Sách thị lang đã sớm đề phòng, trước thế công nặng tựa núi bèn thối lui về phía sau. Cửu Nạn sư thái thuận thế quay người vài vòng, bất thần buông tay, quăng phất trần thẳng vào nhóm người Khang Hi.

Phất trần xoay tròn lao đi, xé gió vù vù tựa cơn gió lốc. Song Sách Ngạch Đồ cũng cực nhanh lao tới, kiếm lập tức rời vỏ, nhằm chuẩn túm lông đuôi phất trần mà chém một nhát.

Bùng! 

Một âm thanh trầm đục vang lên. Cây phất trần được quán chú đầy nội lực của sư thái va chạm với trường kiếm của họ Sách nổ tung thành đám tơ vụn, bay mù mịt.

Đương lúc khí huyết Sách Ngạch Đồ còn chưa hết nhộn nhạo, Cửu Nạn sư thái thét lên tiếng nữa, tung mình bay lên cao xuất chiêu Càn khôn tập trảo, năm ngón tay như móc câu chộp vào cổ họ Sách. Sách Ngạch Đồ cũng chẳng phải tay mơ, vận công cố nén khí huyết đang sôi trào, tả thủ nắm thành quyền đánh trả.

Binh! Binh!…

Hai bóng người đan xen qua lại, chớp mắt đã trao đổi mười mấy chiêu.

Trong lúc đó, bảy người đương gia cũng dợm bước tới, định vây Khang Hi và thái hoàng thái hậu Hiếu Trang vào giữa. Song họ còn chưa kịp hành động, đột nhiên từ trên cao một đám thị vệ đu dây đáp xuống che chắn cho Tiểu hoàng đế. Đồng thời một bọn khác từ ngoài cửa cũng ùn ùn kéo vào. Bảy người đưa mắt nhìn nhau hội ý, lập tức chia ra một nửa tiếp tục thích sát Khang Hi, nửa còn lại chống đỡ tập kích đằng sau lưng.

Đại điện Quan Âm Tự theo thiết kế có năm tầng lầu, cho nên tận dụng lúc bọn thị vệ cản bước đám thích khách, ngự lâm quân thống lĩnh Mã Tề liền dẫn Khang Hi và thái hoàng thái hậu Hiếu Trang chạy lên tầng hai. 

– Đại ca, đừng để cẩu hoàng đế tẩu thoát!

Trong đám thích khách có kẻ hô lớn. Liền đó một gã bịt mặt thân hình cao lớn đến mười thước là ít, liều mạng mở một con đường máu, lật đật đuổi theo. Chợt thấy từ trên lầu lại ùa xuống một toán binh lính, gã thét lớn vung tay, tiếng loảng xoảng vừa vang lên, một tên lính gần nhất đã bay đầu.

Trên tay gã xuất hiện một sợi xích sắt, một đầu gắn một thứ có hình dạng như lồng chim, được nung bằng sắt, trong lồng có nhiều cạnh bén nhọn. Chính vật này vừa rồi đã lấy đầu kẻ nọ. Toán lính trông thảm trạng của đồng bạn không khỏi hoảng hốt chùn cả lại, sợ hãi nhìn gã thích khách cầm sợi xích điều khiển lồng sắt quay vù vù.

Mã Tề cũng giật mình, cả kinh kêu lớn:

– Thiết Đầu Lôi!

Thích khách nọ đôi mắt lấp lánh thần quang, lom lom nhìn họ Mã, cười khùng khục:

– Nhãn quan không tệ, nhận ra lai lịch của đại gia ta!

Dù mặt che một lớp vải đen, giọng y vẫn sang sảng như tiếng chuông đồng.

Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang sau cơn hốt hoảng, giờ phần nào đã lấy lại bình tĩnh, tò mò hỏi:

– Mã ái khanh, kẻ này nguy hiểm lắm sao?

Mã Tề cung kính đáp:

– Bẩm Thái hậu, tên này mới xuất hiện thời gian gần đây. Song vô số quan binh triều đình đã mất mạng trong tay hắn. Chúng thần vẫn chưa biết hắn là ai bởi mỗi lần ra tay đều che kín mặt mũi như vậy. Nhưng hắn luôn tự xưng là sát thủ Thiết Đầu Lôi, thứ vũ khí hiểm ác độc địa kia chính là vật để nhận ra hắn.

– Đúng là hình dáng rất kỳ lạ!

– Cứ như một món đồ chơi vậy! – Khang Hi reo lên ngạc nhiên.

Mã Tề cười khổ:

– Thái hậu và Hoàng thượng không biết đó thôi. Vật này như chính cái tên Thiết Đầu Lôi, nhanh và chuẩn, lấy đầu người ta trong nháy mắt, có thể nói giết người như chớp. Thực không ngờ kẻ này lại liên quan với Giang Nam thất hiệp!

Họ Mã chỉ nói đúng một nửa, thích khách Thiết Đầu Lôi này không chỉ liên quan mà chính là một trong bảy người xưng Giang Nam thất hiệp. Cũng là bảy người giỏi võ công nhất trong hội Đại Minh Triều, được những thành viên của hội tôn làm đương gia, thứ bậc lần lượt xếp theo tuổi tác. 

Song có một bí mật mà Mã Tề cũng như ít người giang hồ biết. Không chỉ y, cả bọn bảy đương gia đều xuất thân từ lò võ Thiếu Lâm, mà nói đến sư phụ bọn họ, lai lịch lại càng kinh người.

Trong mấy đời trụ trì Thiếu Lâm Tự gần đây, nổi danh nhất có một vị đại sư pháp danh Giác Viễn. Dù viên tịch đã lâu song nhắc đến ông người giang hồ không ai không biết tiếng. Vào những năm Hoàng Thái Cực – vị vua thứ hai của triều đình nhà Thanh, khi ấy còn đang rong ruổi trên lưng ngựa nơi biên cương tái ngoại, đánh chiếm giang sơn Đại Minh thì Giác Viễn đại sư, nhờ sáng lập ra bộ Thất thập nhị huyền công mà thanh danh vang dội võ lâm Trung nguyên, được thiên hạ tôn xưng Võ Thánh.

Khéo thay, khi đó vùng Tây Bắc cũng nổi lên một người là Long Thiên Hổ, tự xưng là Võ Ma. Thực ra Long Thiên Hổ là một chuyên gia ám khí, nổi danh bất khả chiến bại. Loại ám khí họ Long thành thạo có rất nhiều nhưng tinh thông nhất là phi đao. Kẻ Nam người Bắc, vô hình chung hai vị cao thủ được khách giang hồ đem ra so sánh những lúc trà dư tửu hậu. Từ đó truyền lưu vô số câu chuyện li kỳ, bay khắp các vùng đại giang nam bắc. Dù vậy bọn họ không hề có ý định gặp nhau tranh cao thấp, mặc kệ thiên hạ bàn tán.

Nhưng đến một ngày, Long Thiên Hổ quyết định vượt đường xa vạn dặm từ Mông Cổ đến tận chùa Thiếu Lâm tìm Giác Viễn yêu cầu tỉ thí thì mới hay đại sư đã qua đời trước đó hai ngày rồi. Trận tỷ thí cả võ lâm mong đợi vì vậy không thành, để lại vô vàn tiếc nuối. Quyển Binh Khí phổ nổi tiếng của Lộ Thần tiên sinh đành xếp hạng Võ Thánh – Võ Ma ngang nhau.

Sau này có người thắc mắc, tại sao Long Thiên Hổ không tìm đến Thiếu Lâm thách đấu sớm hơn, mà phải chờ đến tận lúc đó?  Quanh chuyện này có nhiều giả thiết, song đáng tin nhất, nghe nói sau khi triều Minh bị thôn tính vào tay những người thắt bím tóc thuộc tộc Mãn Châu, Giác Viễn đại sư nản lòng thoái chí lui khỏi chốn võ lâm. Nhưng thực ra ông bí mật cùng một số nghĩa sỹ nổi tiếng như Lâm Vĩ, Tần Nhị và Mã Lương phu tử theo phò một vị công chúa triều Minh khi đó vừa xuống tóc làm ni cô. Năm người âm thầm lập ra một hội kín tụ tập anh hùng thiên hạ chống đối triều đình nhà Thanh. Mà Long Thiên Hổ khi ấy lại là đại diện tiêu biểu cho giới cao thủ vùng tái ngoại, quê hương của người Mãn Châu. Chỉ cần họ Long đả bại Giác Viễn, chẳng khác nào phá sập biểu tượng Thiếu Lâm Tự, đánh tan niềm kiêu hãnh của người Trung nguyên. Có điều người tính không bằng trời tính, họ Long chỉ chậm có hai ngày, toan tính của người Mãn Châu đã thất bại.

Thực hư không rõ ra sao, có điều từ hôm đó người trong giang hồ không thấy Long Thiên Hổ đâu nữa. Tuyệt kỹ phi đao Ngũ Hành Thần Đao vì vậy mà mai một dần. Phải mãi tới năm Thuận Trị thứ mười hai, người ta mới lại thấy một thiếu niên mười ba tuổi sử Ngũ Hành Đao pháp một cách thần kỳ ở trận đánh Giang Hoa. Thế là một lần nữa, chủ đề về Võ Thánh – Võ Ma lại bùng lên, trở thành tâm điểm bàn tán sôi nổi hằng ngày trong các tửu lâu. Khách giang hồ háo hức tự hỏi, không biết đến khi nào thì truyền nhân của Võ Ma lại tìm tới truyền nhân của Võ Thánh để thách đấu nữa đây? 

Bất quá tạm gác câu chuyện võ lâm bí sử này lại. Trở lại Quan Âm Tự, khi ấy Khang Hi nghe Mã Tề kể xong liền tò mò ghé đầu ra nhòm một cái thì bắt gặp thích khách trợn mắt, trừng trừng nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống. Tiểu hoàng đế sợ hãi, rụt đầu núp sau lưng Mã Tề lắp bắp:

– Ta với bọn họ chẳng quen biết gì, cớ sao lại muốn hại trẫm?

Mã Tề khom lưng, nghiêm giọng đáp:

– Hoàng thượng là tương lai giang sơn và muôn dân trăm họ. Bọn chúng lại là dư nghiệt Minh triều, chính là muốn phá hủy cơ nghiệp Đại Thanh ta đó ạ!

Gương mặt thơ ngây của tiểu hoàng đế lộ vẻ bàng hoàng, bên tai văng vẳng tiếng vũ khí va loảng xoảng, tiếng hò hét, tiếng rú thảm đau đớn của lũ thị vệ dưới lầu. Trong đầu vị hoàng đế mười tuổi bất giác nảy sinh trăm mối suy tư: “Hôm nay bao người vì bảo vệ ta mà táng mạng dưới tay bọn thích khách, nhưng càng nhiều hơn nữa, là bao tướng sĩ đã đánh đổi mạng sống để giành lấy giang sơn Đại Thanh này. Lẽ nào ta mang họ Ái Tân Giác La lại hèn nhát trốn đằng sau. Tổ phụ trên trời mà biết hẳn tức giận lắm thay.”

Nghĩ tới đó nỗi sợ hãi bỗng chốc tan biến, một cơn phẫn nộ dâng trào khiến tiểu hoàng đế kích động nghiến răng nghiến lợi:

– Một đám giặc cỏ mà dám mưu đồ hủy cơ nghiệp của chúng ta sao? Giết hết bọn chúng cho trẫm!

Dù giọng trẻ con còn non nớt song đã phảng phất thần thái của đấng cửu ngũ chí tôn. Mã Tề thầm cảm thán “Thực đúng là thiên tử, dù là hổ con thì hổ vẫn là hổ.”

Thái hậu Hiếu Trang không khỏi vui mừng trước sự trưởng thành của cháu nội, gật đầu cao giọng:

– Tất cả xông lên cho Ai gia! Ai giết được thích khách, gia phong Tứ phẩm đối đao thị vệ, thưởng ngàn vàng.

Họ Mã dù kinh ngạc song cũng hùa theo quát:

– Đã nghe Thái hậu ban chỉ hay chưa, kẻ nào còn do dự không lên lập tức khép tội khi quân!

Người ta nói “Thưởng to ắt có dũng sĩ” quả không sai, đám thị vệ rục rịch giây lát rồi hò reo ùa cả lên. Sát thủ Thiết Đầu Lôi thấy thế nhếch môi cười gằn:

– Chỉ một nhúm người mà đòi cản bước đại gia ta, nằm mơ đi!

Nhất thời tiếng la tiếng hét vang dội, máu bắn tứ tung nhuộm đỏ cả một góc cầu thang, bốc lên mùi tanh tưởi rợn người. Dù đám thị vệ đông người, vẫn bị y quay Thiết Đầu Lôi mòng mòng khiến cả bọn phải chạy tới chạy lui, vừa lo hộ giá đẩy lui kẻ địch xuống cầu thang, vừa nơm nớp sợ hãi thứ vũ khí chết chóc kia nhắm vào mình. Thế là tên sát thủ phản khách vi chủ, chiếm được thượng phong. Bọn thị vệ rối loạn cả lên, bị y đả thương tám tên, phút chốc lại thêm sáu kẻ xấu số bay đầu. Nhân cơ hội đó, y tiến lên được bảy bậc thang, ý định tấn công Mã Tề. Vì ai cũng biết chỉ cần hạ được họ Mã thì Khang Hi chẳng khác nào cá nằm trên thớt.

Phía dưới lầu, sáu người đương gia còn lại đang phải chống cự kịch liệt với quân Thanh. Họ hạ được rất nhiều kẻ địch, nhưng cứ giết hết lớp này lại thấy một lớp khác xông tới, liên miên không dứt như sóng xô bờ.

Đúng lúc đó, từ ngoài cổng Quan Âm Tự một toán nhân mã ùn ùn kéo tới. Nhìn cờ hiệu xem ra đó là đạo quân của phụ chính đại thần Sách Ni – cha của Sách Ngạch Đồ đến trợ giúp cho hoàng đế. Nhưng tuyệt nhiên không thấy cờ của ba vị đại thần còn lại, nhất là Ngao Bái đâu. Cả Át Tất Long và Tô Khắc Táp Cáp cũng vắng mặt. Cứ như thể tam mệnh đại thần này bốc hơi đi đâu mất vậy.

– Không xong, bọn chúng lại có viện binh! – Một người trong bọn la lớn.

– Phải tốc chiến tốc thắng thôi. Tam ca, huynh mau tới giúp đại ca một tay, chỗ này để bọn đệ chống đỡ! – Kẻ khác giục.

Người được gọi Tam ca vừa đâm chết một tên thị vệ xong, ngừng tay kéo khăn che mặt xuống thở hổn hển. Chỉ thấy y sở hữu ngũ quan cân xứng, khuôn mặt phương phi nhưng không thể gọi là sáng sủa, hai bên cằm đầy đặn, trông thấp hơn sát thủ Thiết Đầu Lôi nửa cái đầu.

Nghe đồng bọn kêu, y nhìn ra cổng, còn đang quan sát thì bên tai bỗng vang tiếng gió. Quay sang liền thấy hai tên thị vệ hùa nhau cầm đao tấn công hai bên tả hữu, khiến y phải liên tục đánh trả. Trường đao của tên lính Thanh thứ nhất vừa đâm ra, y thấy thế đao lợi hại bèn né sang trái, nhưng đao của tên lính Thanh thứ hai đã sớm chờ sẵn. Y biết nếu quay lại chống đỡ thì tên lính thứ nhất sẽ thừa thế đánh tiếp, cứ như vậy nhiều người đánh một, kéo dài mãi không thôi. Dù y võ công lợi hại đến mấy, nhưng bị vây công mãi thế này, không chết vào tay quân triều đình thì cũng chết vì kiệt sức.

Nói thì dông dài nhưng xảy ra chỉ trong chớp mắt mà thôi. Y không do dự nữa, liền hú lên một tiếng phi luôn thanh kiếm trên tay vô ngực tên lính gần nhất. Tay kia rút xoẹt từ thắt lưng ra cây nhuyễn kiếm, đảo trái đỡ phải quyết đả phá vòng vây tới trợ giúp Khẩu Tâm. Dưới tay y cây kiếm mềm mại, uốn lượn khác thường, thoắt ẩn thoắt hiện như độc xà, lóe một cái là lấy mạng một người. Phút chốc đã mở con đường máu tới gần cầu thang.

Người trong nghề nhìn cái biết hành gia, vốn cùng sử kiếm Mã Tề đã sớm chú ý tới tên thích khách này rồi. Gã nhíu mày lẩm bẩm:

– Kiếm pháp độc đáo bực này, ở Giang Nam e chỉ có một người thôi. Quả nhiên là hắn, Nghĩa Đảm kiếm khách Trương Quốc Khải!

Quả thực Mã Tề đoán không sai. Y chính là Trương Quốc Khải, ngồi ghế thứ ba trong hội Đại Minh Triều, được các hội viên gọi là tam đương gia.  Họ Trương thành danh nhờ vũ khí là một cây kiếm rất đặc biệt, được đúc bằng một loại thép mỏng, nhẹ mà vô cùng dẻo dai. Bình thường y đeo nó vòng quanh thắt lưng, nhìn vào chẳng ai nghĩ đấy là binh khí, mà cho rằng đó là sợi đai lưng tiệp màu với bộ quần áo đang mặc trên người. Bởi vậy mấy vị đương gia bèn đặt luôn cho cái tên Phục Y Kiếm.  


Dù tự thị vào bản lãnh của mình, Thống lĩnh Ngự lâm quân Mã Tề cũng không dám chắc có thể phân cao thấp trong vòng trăm chiêu với họ Trương, chưa nói tới đối đầu với tên sát thủ kia gã càng không đủ tự tin. Thấy nguy đến nơi, gã bèn quỳ xuống thỉnh cầu:

– Bẩm Thái hậu và hoàng thượng, tình hình vô cùng bất lợi. Vì an nguy xin thứ cho chúng thần tội phạm thượng bất kính!

Thái hậu Hiếu Trang vội xua tay:

– Mã thống lĩnh mau đứng lên! Các vị xả thân hộ giá, Ai gia đâu nỡ trách tội! Có gì đứng lên hẵng nói.

– Tạ ơn Thái hậu. Thần định sai người cõng Thái hậu đi trước, hạ thần cõng hoàng thượng theo sau. Chúng ta nên chia ra hai đường, rồi sẽ hội họp lại sau.

Thái hậu Hiếu Trang thoáng nhíu mày suy xét, rất nhanh liền gật đầu:

– Được, cứ theo an bài của thống lĩnh!

Họ Mã bèn quay sang một tên thị vệ thân tín:

– Ngươi! Cõng hoàng thái hậu cho ta, phải nhớ rằng sẵn sàng dùng tính mạng bảo vệ Người!

Tên thị vệ dạ một tiếng, lập tức khom lưng xuống chờ Thái hậu căn dặn vài lời với tiểu hoàng đế xong mới leo lên lưng y. Hai người nhảy từ lầu hai xuống đất, phút chốc mất dạng sau tán cây.

Liền đó, Mã Tề rút ra một cây chủy thủ hét lớn:

– Tặc tử xem đao!

Một luồng sáng chớp lên, bay vèo về phía tên sát thủ. Y vung Thiết Đầu Lôi, “xoảng” một tiếng gạt bay ám khí, cười khẩy:

– Trò trẻ con…

Lời còn chưa dứt, đột nhiên y biến sắc rú lên đau đớn. Thì ra họ Mã hô lớn rồi phóng đao chỉ là hư trương thanh thế, cùng lúc đó gã cũng khởi động tụ tiễn bí mật giấu trong ống tay áo. Mũi tên thép được bắn ra bằng lực nén lò xo, lại ở cự ly gần lập tức cắm vào vai tên sát thủ, xuyên ra sau lưng, ghim chặt luôn y vào vách gỗ phía sau.

Sát thủ Thiết Đầu Lôi đau thấu tâm can, tới độ hai mắt tối sầm, tai lại nghe Mã Tề hô:

– Xông vào giết hắn cho ta!

Y mở mắt ra vừa may đúng lúc hai tên lính thừa cơ áp sát. Một tên dùng kiếm chém nhằm cổ tay, tên khác cũng cầm gươm đâm vô mặt. Dù khoảng cách gần, lại xuất thủ rất nhanh, song y nén đau nghiêng người né được trong gang tấc. Vừa sợ vừa giận, y rống lên một tiếng, tả thủ thu lại thành quyền, đấm hai tên lính hộc máu bay ra đằng sau, nằm im không động cựa. Mã Tề thầm hô đáng tiếc, không chút dây dưa đích thân cõng Khang Hi phi thân ra khỏi cửa sổ lầu hai Đại điện.

Tên sát thủ chỉ biết nhìn theo bất lực, một bên vai y đã bị thương, giữa vòng vây của kẻ địch tự lo cho mình còn khó, sức đâu đuổi theo. Song may cho y, vừa lúc Trương Quốc Khải đến cứu viện kịp thời. Y bèn hét lên:

– Mau đuổi theo, không cần lo cho ta!

Trương Quốc Khải trước tiên xem xét qua thương thế của y, thấy không đến mức nghiêm trọng liền tức tốc đuổi theo Mã Tề vô rừng thông. 

—oo0oo—

Khu rừng thông bạt ngàn này có chu vi kéo dài vài chục dặm. Trên là những cây thông cao chót vót, bên dưới là thảm cỏ xanh rờn phủ đầy mặt đất, khiến bốn mùa khu rừng như khoác lên mình chiếc áo màu xanh biếc. Xuyên qua rừng lại có một dòng suối quanh năm thủ thỉ tâm tình, hòa cùng tiếng thông reo vi vu, dệt nên một điệu đàn tuyệt diệu.  

Bấy giờ mới qua buổi sáng, mặt trời chỉ le lói xuyên qua rặng thông dày nên sương vẫn đọng trên các nhánh cây long lanh như những hạt ngọc.

Có điều Trương Quốc Khải chẳng lòng dạ nào mà ngắm cảnh, y tập trung ngó nghiêng bốn phía, rất nhanh liền phát hiện dấu vết đám cỏ đổ rạp dẫn tới một rặng đá xám đằng xa. Vừa dợm bước chạy theo, bất thần có tiếng rít lạnh người đập vào tai buộc y phải cấp tốc đảo người né tránh.

“Phụp!”

Một ánh thép lướt qua, xé toạc mảnh áo trước ngực. Y quay đầu nhìn cây chủy thủ cắm ngập vào gốc thông phía sau mà tim đập thình thịch. Vận sức rút con dao kéo theo cả mảng gỗ, Trương Quốc Khải không khỏi toát mồ hôi lạnh. Chỉ thấy mũi dao bén ngót lại có móc ngược, ghim vào thịt khác nào bắt rễ bên trong. Nếu khinh suất dùng sức rút ra đảm bảo mất một miếng thịt lớn, chưa nói mũi đao còn thấp thoáng ánh xanh, hiển nhiên còn được tẩm độc. Hít một hơi nhằm trấn tĩnh, y liền tung mình thi triển tuyệt kỹ khinh công Thiểm Dực Thuật đuổi theo bóng người thấp thoáng xa xa, tinh thần càng thêm cảnh giác cao độ.

Trong lúc đó Mã Tề cõng Khang Hi triển khai khinh công chạy như bay, lòng hết sức bực dọc. Gã không bỏ chạy ngay mà mạo hiểm nán lại tập kích, hòng bất ngờ cho kẻ địch một cú tất sát. Vậy mà hắn ta vẫn thoát được trong đường tơ kẽ tóc. Không biết bữa nay ngày gì, mấy lần ra tay đều thất ý.

Phải cõng thêm một người dẫn đến động tác thiếu linh hoạt, tốc độ Mã Tề chậm hẳn. Chẳng mấy chốc đã có tiếng loạt xoạt đằng sau. Gã liền xoay người phóng luôn hai cây chủy thủ. Chỉ nghe hai tiếng leng keng lảnh lót, đối phương hẳn vẫy kiếm gạt được rồi. Gã càng lúc càng lo lắng, chạy đến chỗ này đáng ra phải có bọn lính Bát kỳ mai phục, song quanh đây lặng như tờ, rõ ràng chẳng có một ai.

“Lẽ nào tam mệnh đại thần… có ý soán nghịch?” – Một ý nghĩ lóe lên trong đầu khiến Mã Tề sợ run.

Thình lình gã nghe tiếng ám khí xé gió đằng sau, mục tiêu chính là Khang Hi trên lưng. Hoảng hốt, Mã Tề đành xoay người để né tránh khiến hai chủ tớ mất đà loạng choạng. Liền đó lại nghe tiếng gió trên đầu, ngẩng lên đã thấy Trương Quốc Khải tay lăm lăm kiếm chặn trước mặt rồi.

– Chạy đâu cho thoát, nạp mạng đi thôi!

– Hoàng thượng mau tránh đi một lát!

Bất đắc dĩ, Mã Tề đành phải đẩy Khang Hi trốn ra sau gốc cây gần đó, còn mình rút kiếm đối đầu với Trương Quốc Khải. Hai người qua lại chưa được chục chiêu, Mã Tề nhanh chóng nhận ra bản lãnh thua kém đối phương không chỉ một bậc.

Kiếm pháp họ Trương nổi tiếng Giang Nam dĩ nhiên chẳng phải hư danh, lại được y thi triển hết tuyệt kỹ bình sinh. Chẳng mấy chốc thanh Phục Y Kiếm trong tay y như kết thành tấm lưới bủa vây Mã Tề trong màn mưa kiếm. Qua được vài chiêu nữa, họ Mã chỉ còn biết công ít thủ nhiều, càng thêm chật vật.

Tình cảnh ấy khiến Khang Hi trốn đằng sau thân cây bách tùng gần đó không khỏi lo sợ. Trái tim non nớt của Tiểu hoàng đế đập thình thình trong lòng ngực, như chực nhảy bổ ra ngoài. Lúc này Mã Tề không khác gì vị thần hộ mệnh của Khang Hi. Nếu gã cũng thất bại, hôm nay chắc chắn là ngày giỗ của tiểu hoàng đế rồi.

Quả nhiên sợ cái gì thì cái đó tới, chỉ thấy Mã Tề la lên đau đớn, hạ bàn đã trúng một kiếm ngã vật ra đất. Trương Quốc Khải cũng chẳng thèm nhìn xem đối phương sống chết ra sao, lập tức phóng tới trước mặt Khang Hi, định một kiếm lấy cho xong thủ cấp của tân hoàng.

Họ Trương lừ lừ bước tới đối diện tiểu hoàng đế, đôi mắt sáng quắc như mắt loài chim ưng. Song trước mắt y, hiện ra là đứa trẻ hình dung tiều tụy đang rúm ró vì sợ hãi, gương mặt non nớt lấm tấm những chấm đen lem luốc như bệnh đậu mùa. Nào thấy bóng dáng của bậc chân mệnh thiên tử, đấng cửu ngũ chí tôn đứng đầu thiên hạ như người đời thường ca tụng. Đôi mắt đương sợ hãi kia, rành rành chẳng khác chi lũ trẻ vạ vật ngoài phố. Thế là ánh mắt Trương Quốc Khải dịu lại như xót thương như trìu mến, hiền hòa như con hổ dữ đã thuần hóa, bỗng dưng thấy người chủ nhân của nó.

Lại thấy “đứa trẻ tội nghiệp” ấy mếu máo thút thít:

– Đại thúc… thúc sao lại muốn giết cháu?

Nghe vậy lòng họ Trương mềm nhũn, kiếm vung lên mà không sao hạ xuống được, không biết làm sao đành ngửa mặt nhìn trời thở dài:

– Than ôi, Trương Quốc Khải ta một đời hành hiệp, quang minh lỗi lạc chẳng thẹn với đời. Không ngờ hôm nay vì đại nghiệp, chẳng những vung kiếm lạm sát kẻ vô tội, còn phải xuống tay với đứa bé yếu ớt tay không tấc sắt!

Còn đang do dự bất quyết thì nghe phịch một tiếng, tiểu hoàng đế chừng như sợ quá đã ngất đi rồi. Nhìn thân thể ốm o nằm rúm ró trên mặt đất, Trương Quốc Khải chán nản nghĩ thầm: “Một đứa trẻ bệnh tật như vậy cũng có thể làm hoàng đế. Giết nó rồi thì sao chứ, người Mãn lại lập nên hoàng đế mới. Nhưng từ hôm nay không chỉ huynh đệ chúng ta mà còn vô số người phải bồi táng cùng đứa trẻ yểu mệnh này rồi.”

Trương Quốc Khải không nỡ nhẫn tâm xuống tay, do dự suy tính một hồi đột nhiên nảy ra một ý: “Nếu ta bắt sống tiểu hoàng đế thì sao? Tin rằng quan binh vì “sợ ném chuột vỡ đồ” hẳn không dám quyết tuyệt, lại vừa hay đem nó đi cứu mọi người. Quả là vẹn cả đôi đường!”

Nghĩ là làm, Trương Quốc Khải liền cắp lấy Khang Hy định lộn trở lại đại điện Quan Âm Tự. Bất thần ánh kiếm chợt lóe khiến y phải giật mình thoái lui, nhìn lại hóa ra là Mã Tề toàn thân nhuộm máu, lảo đảo đứng trước mặt.

– Mã Tề ta chưa chết, phản tặc đừng hòng…

Còn chưa nói hết câu, đập vào mắt gã là Khang Hi mềm rũ kẹp dưới nách thích khách. Mã Tề kinh hồn táng đởm cả người lạnh buốt, cảm thấy trời đất như quay cuồng chao đảo. Gã rú lên căm hờn:

– Hoàng thượng…! Phản tặc, ta liều mạng với ngươi!

Đúng lúc đó, một toán binh lính nghe tiếng vừa hay chạy đến. Thấy Thống lãnh thị vệ toàn thân đầy máu, tiểu hoàng đế rũ rượi trong tay thích khách thì sợ tái mặt rầm rập ùa tới. Trương Quốc Khải lập tức quát lớn:

– Hoàng đế trong tay ta, kẻ nào dám…!

Bất quá trông tiểu hoàng đế mềm oặt thế kia, ai biết còn sống hay đã chết. Khang Hi có làm sao, hộ giá thất trách là bọn chúng cũng không thoát khỏi tội tru di. Thế là cả đám mặc kệ Trương Quốc Khải hăm dọa, cứ hò hét lao tới như không cần mạng, hòng lập công chuộc tội để khỏi liên lụy người nhà.

Võ công Trương Quốc Khải nào phải tầm thường, kiếm pháp của gã càng không ngại quần đấu. Ánh kiếm cứ lóe lên là loại một kẻ ra khỏi cuộc chiến. Song y phải xách theo một người, giữa vòng vây thân pháp phần nào mất đi sự linh hoạt. Nhất thời rơi vào khổ chiến không tài nào thoát ra được.

Có điều may mà bọn thị vệ vẫn vô cùng e ngại, chỉ cần họ Trương xoay tiểu hoàng đế sang bên nào, đao kiếm mé ấy lập tức tránh đi không dám mạo phạm. Thế là Khang Hy không khác nào tấm lá chắn sống cho y mặc sức xoay trái quay phải, tả xung hữu đột giữa trùng vây.

Bất thình lình y thét lên một tiếng chói trời chói đất, ngực phải đau thấu tâm can, cánh tay tê dại nhất thời tuột mất Khang Hy. Tiểu hoàng đế rớt cái bịch, lăn vài vòng trên mặt đất rồi nhỏm dậy la lớn:

– Mau mau cứu trẫm!

Biến cố đột ngột khiến tất cả sững sờ. Song có một bóng người nhanh như chớp lao tới, ôm lấy tiểu hoàng đế lăn đi một vòng, vừa hay tránh kịp một chưởng cách không vỡ đá tan bia của thích khách. Không ngoài ai khác chính là Mã thống lĩnh.

Họ Mã ôm chặt tiểu hoàng đế trong lòng mà mừng phát khóc, gã run run hỏi:

– Hoàng thượng, người… người không sao chứ?

Gương mặt non nớt tuy tái nhợt, lấm lem bụi đất vô cùng thảm hại song đôi mắt Khang Hi sáng quắc đáp:

– Trẫm không sao, mau bắt lấy thích khách. Y không cầm cự được lâu đâu!

Chỉ thấy khí thế bừng bừng nào còn vẻ yếu ớt trước đó. Hóa ra khi hai bên đối mặt, phát hiện ánh mắt kỳ lạ của họ Trương, Khang Hi đã nhạy bén nhận ra đối phương là kẻ dễ mềm lòng. Tiểu hoàng đế nhanh trí liền tỏ ra yếu ớt đáng thương, quả nhiên khiến thích khách do dự không nỡ xuống tay. Bất quá trẻ con vẫn là trẻ con, tình cảnh cái chết cận kề khiến tiểu hoàng đế hồi hộp lo sợ đến thắt tim, bệnh cũ bỗng tái phát liền ngất đi. Khéo thay lại giúp vở diễn càng thêm hoàn hảo. Đến lúc tỉnh lại đã thấy bị thích khách kẹp trong tay quay trái quay phải chóng hết cả mặt, xung quanh cả đống quan binh mà không làm gì được. Dù sốt ruột lắm song cơ hội chưa đến tiểu hoàng đế nào dám hành động khinh suất.

Chịu đựng mãi rốt cuộc cũng có được tư thế thuận lợi, Khang Hi liền rút con dao vẫn nắm chặt trong ống tay áo ra, đâm cho Trương Quốc Khải một nhát chí mạng. Dẫu còn trẻ con nhưng từ nhỏ đã rèn luyện võ nghệ, lại dùng hết sức cộng thêm họ Trương mất cảnh giác không vận khí hộ thân nên con dao vẫn cắm gần lút cán.

Uất ức thay Trương Quốc Khải chỉ vì lòng nhân từ mà lãnh họa vào thân. Mắt y tối sầm lại, hai chân loạng choạng một cái, ngực đau buốt xộc lên tận óc, hơi thở liền thấy khó khăn. Thế nên dù y gắng vận sức đánh ra một chưởng hòng vớt vát thì vẫn chậm hơn Mã Tề một bước rồi.

Rốt cuộc Mã Tề thành công cứu thoát Khang Hi, tránh được cái tội hộ giá thất trách, nào dám dây dưa ở đây nữa bèn tẩu như phi, để mặc cho binh lính giải quyết tên thích khách. Lính Thanh thấy Trương Quốc Khải loạng choạng thì biết rằng y sắp xong đời bèn cả mừng hò hét nhào tới giết. Trương Quốc Khải phải liên tục vung kiếm ngăn đỡ. Thế là cả trăm người khỏe mạnh cùng một người đang bị thương đánh nhầu một trận.

(còn tiếp) 

Mỗi khi dùng sức bên tay thuận, Trương Quốc Khải thấy lồng ngực đau nhói bèn chuyển thanh kiếm sang tay nghịch đâm bọn quan binh. Nhưng sử kiếm bằng tay nghịch hiển nhiên chiêu thức không còn quen lề lối thông thường nữa, nên Thanh binh đỡ được đường gươm của y khá dễ dàng. Thế là Trương Quốc Khải vừa đánh vừa phải lui, thoáng chốc đã bị lính Thanh ép sát vô hàng thông. Bỗng nghe tiếng gió sau lưng, y kịp thời nghiêng người né tránh.

Thì ra ở phía sau, một toán lính chẳng biết phục kích  từ bao giờ, chỉ chờ có thế lập tức ra tay. Tuy đã tránh được một hai mũi, nhưng nhìn trường mâu tua tủa đang đâm tới y không khỏi ngậm ngùi than thở:


– “Rốt cuộc ta cũng phải phơi thây chốn rừng hoang này…” Nhưng trước lúc chết, y tính chịu mấy nhát rồi liều chút hơi tàn hòng kéo theo một hai mạng.

Đúng lúc tưởng chừng Trương Quốc Khải chấp nhận số phận rồi, đột nhiên một thứ xoay tít như bánh xe gió vù vù liệng qua khiến bọn lính rú lên, đồng loạt buông trường mâu ôm tay đau đớn. Chỉ thấy một người cũng mặc trang phục dạ hành che kín mặt mũi, chân đạp cây nhẹ tựa chim én lao vút tới, ung dung đón lấy vật màu trắng đang xoay một vòng lượn trở lại. Hóa ra lại là một cây quạt xếp. Đáp xuống bên cạnh Trương Quốc Khải, dạ hành nhân kêu lên áy náy:

– Xin lỗi Tam ca, đệ tới muộn!

Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, Trương Quốc Khải lắc đầu, vỗ vai đồng bạn cảm khái đáp:

– Không muộn. Dù có chết nhưng được gặp Thất đệ lần cuối là ta mừng lắm rồi!

– Huynh nói vớ vẩn gì thế, từng này chẳng đủ nhét kẽ răng bọn ta.

Cả hai cười lên ha hả. Chợt nhớ ra, Trương Quốc Khải lo lắng hỏi:

– Mọi người bên kia thế nào rồi?

– Không tốt lắm nhưng vẫn cầm cự được. Đệ không yên tâm về huynh nên mở đường máu đuổi theo, may mà vừa tới kịp. Phù…

Nghe vậy Trương Quốc Khải không khỏi hổ thẹn nói:

– Thất đệ. Xin lỗi… huynh…

– Tam ca đừng tự trách nữa, trước mắt phá vòng vây rồi nói – Dạ hành nhân khoát tay.

Trương Quốc Khải gật đầu. Hai huynh đệ liền áp lưng sát vào nhau cùng tử chiến với quân Thanh. Quân Thanh bao vây họ càng lúc càng đông, tưởng như không thể nào đếm hết được, thực như đàn ruồi bu chén mật. Nhìn đâu cũng không thấy kẽ hở nào để tẩu thoát. Nhưng võ nghệ của dạ hành nhân vô cùng cao cường, lâm nguy vẫn không loạn. Chỉ thấy cây quạt trắng trong tay y thiên biến vạn hóa, đầy trời bóng quạt trập trùng biến ảo khôn lường, kín kẽ tưởng như không gì có thể chui lọt. Khi xòe ra thì sắc bén tựa đao, lấy mạng người trong chớp mắt. Lúc xếp lại có thể đỡ, gạt, đâm, thậm chí bất thần kẹp lấy lưỡi gươm, mũi giáo của đối phương rồi xoay người một cái, dùng chính những vũ khí đó phi thẳng tới kẻ đối diện. Thế nên giữa vòng vây mà chẳng khác nào hổ lạc bầy dê, thoáng chốc đã giết được vài chục tên.

Quân Thanh không khỏi hốt hoảng, hàng trước vội vã thoái lùi. Dạ hành nhân thoáng thấy cơ hội, liền hú lên một tiếng, người quạt hợp nhất xoay tít như một cơn lốc xoáy xộc thẳng vào hàng ngũ kẻ địch. Người tới đâu, lính Thanh rú lên thảm thiết tới đó, lũ lượt đổ gục như thân chuối gặp phải cưa máy.

Phía bên phải vì vậy mà hở ra một lỗ lớn. Trương Quốc Khải luôn bám sát theo sau, hai huynh đệ lập tức tẩu thoát. Hai người tháo chạy một hồi, nhưng vẫn chỉ loanh quanh trong khu rừng thông rất rộng này. Chạy thêm một quãng, Trương Quốc Khải vì bị mất quá nhiều máu nên không đi nổi nữa, dạ hành nhân bèn dìu Trương Quốc Khải nấp ở đằng sau một thân cây. Đó là một cây tùng đại thụ rất to, đường kính phải năm người dang tay ra đứng xung quanh cũng chưa chắc ôm trọn được.

Sau khi xem xét vết thương, dạ hành nhân nhíu mày nói:

– Phải lập tức rút cây đao mới cầm máu được, huynh chịu đau chút nhé!

– Được, đệ cứ làm đi!

Dạ hành nhân liền cẩn thận rút con dao ghim trong ngực Trương Quốc Khải ra. Trông vậy mà lưỡi dao cắm khá sâu, khiến họ Trương phải nghiến răng nhăn mặt. Đắp tạm thuốc cầm máu, giây lát sau Trương Quốc Khải thở ra một hơi nhẹ nhõm. Nhưng sư đệ y lòng nặng trĩu, nhìn máu ứ ra từ vết thương có màu đen là biết Trương Quốc Khải đã trúng độc rồi. Hơn nữa, trông gương mặt sư huynh xanh xao, đôi môi tím ngắt, hiển nhiên khí lực đang dần tàn suy. Dạ hành nhân khẽ thở dài một hơi, đoạn dìu Trương Quốc Khải tựa vào gốc cây nghỉ ngơi. 

Trong lòng gã lại nghĩ tới chuyện hôm bữa, có biên thư nhờ học trò trao cho một người, khuyên nàng ta đi Hồi cương lánh nạn, đừng trở về Hàng Châu nữa. Càng nghĩ gã lại thầm rủa bản thân tơi bời, vì dù cho thoát khỏi trùng vây lần này, thì khi đưa được Trương Quốc Khải trở về tổng đà, lấy ai mà giải độc được đây?

– “Ôi, ông trời thực khéo trêu ngươi!” – Dạ hành nhân ảo não nhủ thầm.

Bấy giờ Trương Quốc Khải khí sắc càng lúc càng kém, y cũng biết tình hình của mình bất lợi, nặng nhọc nhìn sư đệ nói:

– Thất đệ à, ta không ổn rồi. Đệ cứ đi đi… bỏ mặc tam ca, chạy trước đi!

– Tam ca, huynh coi đệ là hạng người gì chứ? Nếu đi thì cùng đi, còn không chúng ta cùng liều chết! – Dạ hành nhân la lên.

Trương Quốc Khải không nói nên lời, đấm mạnh lên thân cây một cái, phẫn hận thốt:

– Chỉ vì ta vô dụng, còn làm liên lụy đệ!

Dạ hành nhân đang định an ủi sư huynh vài câu, đúng lúc đó có tiếng chân người rầm rập từ đằng xa vọng đến. Gã nấp đằng sau thân cây ló đầu ra nhìn, liền thấy một đội quân thiết giáp đông đảo hùng hậu đang ùn ùn kéo tới. Dẫn đầu lại có một người mặc giáp bạc, gương mặt xương xẩu thiếu biểu cảm, hai mắt sâu hun hút như hai cái hố tăm tối. Tay y cầm một thanh trảm mã đao, mũi đao chênh chếch hướng xuống đất, toát ra sát khí lạnh người. Sau vài nhịp thở, cả quân lẫn tướng chỉ còn cách chỗ hai huynh đệ ẩn nấp khoảng chừng vài chục bước chân. Nhưng gã tướng quân đó bỗng giơ tay làm hiệu, toàn quân lập tức dừng lại, hàng ngũ tề chỉnh không chút xao động.

“Kẻ này không tầm thường!” – Dạ hành nhân lẩm bẩm, tâm trạng càng thêm trầm trọng. Gã không ngại quần chiến, nhưng một đội quân kỷ luật có sự chỉ huy của tướng tài rõ ràng khó chơi hơn đám quân ô hợp lúc nãy rất nhiều.

Quả vậy, gã nhận xét không sai. Vì người mặc giáp bạc đó tên Tô Khất, là kẻ khá có danh tiếng trong hàng ngũ tướng lĩnh Kinh thành. Hiện y đang giữ chức phó tướng Mai Lặc Chương Kinh, trực thuộc Phủ Viễn phủ Đại tướng quân.

Mà nhắc đến vị Đại tướng quân này, cũng phải nói qua một chút. Lúc này triều đình Mãn Thanh vẫn khá coi trọng quân công, cho nên Ngao Bái – đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu, người có danh vọng rất cao trong đám tướng lĩnh mới xếp đầu trong Tứ mệnh đại thần. Bất quá y cũng là người tỏ ra bất mãn khi tiểu hoàng đế lên ngôi, dẫn đến không ít kẻ a dua hùa theo, đối với tân hoàng bằng mặt mà không bằng lòng.

Dưới áp lực ấy, còn may Khang Hi vẫn được một số người trung thành như cha con Sách Ni, Sách Ngạch Đồ hay Mã Tề hết lòng phò tá. Song đáng kể nhất phải kể đến sự ủng hộ của vị Phủ Viễn Đại tướng quân này. Tuy còn khá trẻ nhưng Phủ Viễn tướng quân nổi tiếng văn võ song toàn tài năng trác tuyệt, bắt đầu cầm quân đã lập vô số chiến công, là người duy nhất có thể đối trọng với Ngao Bái trong quân đội. Và Tô Khất cũng chính là cánh tay phải đắc lực của Phủ Viễn Tướng quân.

Lần này y mang quân phục kích ở bìa rừng là theo kế hoạch của thượng cấp. Ngay khi Khang Hi định đi Sơn Tây, qua mật báo Phủ Viễn tướng quân đã biết sẽ có đám người giang hồ tự xưng Giang Nam thất hiệp, một đám dư nghiệt tiền triều tìm đến hành thích, bèn tương kế tựu kế lệnh cho Mã Tề có nhiệm vụ hộ giá Khang Hi vờ tháo chạy vào khu rừng thông, cuối cùng mới bủa lưới xua quân phục kích bắt gọn phản tặc.

Có điều, cần Tô Khất ra tay bởi y có một nhiệm vụ quan trọng được giao phó. Nhớ lại mấy ngày trước, đích thân Đại tướng quân đã gặp y bảo rằng: 

– “Chuyến đi này với ngươi vừa dễ lại vừa khó. Vì xét cho cùng, đám đương gia của Đại Minh Triều cũng chỉ là bọn võ phu giang hồ, võ công có cao cường đến mấy cũng chẳng thể bằng sức vài người chống lại thiên quân vạn mã. Song có một kẻ trong bọn lại không thể coi thường. So với võ công, tài trí của hắn càng thập phần lợi hại. Theo tin tức mà ta biết, đứng sau mấy vụ tập kích quân triều đình ở Giang Nam đều có bàn tay kẻ này vận trù sắp xếp kế hoạch. Không những thế hắn thông thuộc nhiều nơi, quen biết rộng nên còn giữ nhiệm vụ liên lạc bốn phương và thám thính tin tức trong hội. Thực xứng danh là kẻ túc trí đa mưu, ứng biến linh hoạt. 

– Đại tướng quân, nói vậy đây là một nhân vật quan trọng rồi.

– Đúng vậy, đáng tiếc hắn lại lầm đường lạc lối. Nếu chiêu mộ được kẻ này, nói không ngoa rằng đó là người thích hợp để giúp hoàng thượng bày mưu lập kế tiêu trừ đám gian thần tặc tử, củng cố vững chắc ngai vàng, kiến lập đại nghiệp thiên thu vạn đại.  

Tô Khất có phần không phục:

– Đại tướng quân đề cao hắn quá chăng, dẫu sao cũng chỉ là kẻ giang hồ thảo mãng. Mạt tướng thấy có ngài phò tá là đủ lắm rồi.

– Ha ha, ngươi chớ khinh thường người trong chốn dân gian. Chẳng phải Gia Cát Lượng trước lúc vang danh thiên hạ cũng chỉ là kẻ làm ruộng ở Long Trung đó sao? Hơn nữa luận hành quân đánh trận, Tế Nhĩ Ha Lãng Dương Cát Nỗ ta tự hào không thua kém ai, song về âm mưu quỷ kế, đó lại không phải sở trường của ta.

– Hắn sao có thể sánh với Khổng Minh?- Tô Khất còn chưa phục.

Đại tướng quân nhếch môi cười:

– Ngươi không biết đám Đại Minh Triều ca tụng hắn là Gia Cát Lượng tái thế hay sao? Cho nên một việc nữa là chúng ta cần thuyết phục, khuyên răn hắn ta trở giáo quy hàng triều đình, phò trợ đương kim hoàng thượng. Đây chính là nhiệm vụ khó khăn mà ta muốn nói. Nhưng nếu làm được, Tô Khất ngươi đã ghi đại công rồi đó!”

Bởi vậy khi đứng từ xa quan sát, nhìn thấy binh khí của một kẻ trong bọn, Tô Khất nhớ tới lời mô tả “kẻ này hay dùng binh khí là một chiếc quạt màu trắng, nan làm bằng sắt, khi đánh phát ra tiếng leng keng chói tai khiến đối phương nhiễu loạn tâm thần.”  Y liền biết đó là mục tiêu Đại tướng quân nhà mình tìm kiếm bấy lâu nay. Không chút chần chờ, Tô Khất lập tức xua quân ào tới khép chặt vòng vây.

– Xin hỏi Cửu Dương tiên sinh, Thất đương gia của bang phái Đại Minh Triều có ở đó hay chăng? – Tô Khất hắng giọng hô to.

Nghe vậy dạ hành nhân thầm ngạc nhiên, song vẫn ung dung bước ra đáp:

– Có thì thế nào?

– Nghe danh tiên sinh đã lâu!

Thì ra người này chính là Cửu Dương, đứng hàng thứ bảy trong Giang Nam thất hiệp. Song chàng ta không khẳng định cũng chẳng phủ định, chỉ dửng dưng nhìn đối phương.

Đã chắp tay chào hỏi song nhận lại chỉ là vẻ thờ ơ lạnh nhạt, Tô Khất không vì thế mà tức giận, lại hỏi:

– Tiên sinh thấy binh sĩ của ta thế nào?

“Tên này định giở trò chi đây?” Thầm lấy làm lạ nhưng ánh mắt Cửu Dương chẳng thèm ngó lấy một cái, đáp gọn lỏn:

– Tinh nhuệ thiện chiến, kỷ luật nghiêm minh lắm!

Được đối phương khen ngợi, Tô Khất không khỏi tự đắc gật gù:

– Ta từng nghe người giang hồ ca tụng cây quạt trong tay Thất đương gia rất lợi hại. Vừa nãy đã được chứng kiến, quả nhiên danh bất hư truyền…

Đột nhiên y cao giọng:

– Vậy tiên sinh nắm chắc mấy phần phá được vòng vây của bọn ta?

– Không đến nửa phần! – Cửu Dương thản nhiên đáp.

Tô Khất bật cười, mỉa mai nói:

– Hừ, e là tiên sinh quá tự mãn rồi. Ta thấy một chút hy vọng cũng chẳng có đâu!

– Vậy thì thế nào? – Cửu Dương tỉnh bơ hỏi.

– Thì Tô Khất ta khẳng định hôm nay sẽ là ngày giỗ của tiên sinh đó!

Im lặng vài giây như để đối phương có thời gian cân nhắc, y bỗng dịu giọng nói tiếp:

– Có điều nếu theo chúng tôi về kinh thành, thì không những tính mạng tiên sinh được bảo toàn mà…

– Ha ha! Vị tướng quân này, ngươi coi ta là trẻ lên ba chắc? –  Chẳng chờ đối phương dứt lời ngon ngọt, Cửu Dương đã cười lớn cắt ngang.


Tô Khất nhíu mày tắt tiếng, trong lòng không khỏi bực bội, hóa ra nãy giờ mình đã phí lời. Song rất nhanh y trấn tĩnh lại, nhẩm lại một lượt sách lược của Đại tướng quân, rằng “trước nên khích bác, sau nói lời ngon ngọt. Nếu không thuyết phục được ngay thì hãy ra tay bắt sống, nhất định không được để thoát…”

Ngẫm nghĩ lựa lời một chốc xong, y lắc đầu thở dài:

– Đáng tiếc, đáng tiếc, thật là đáng tiếc…

Lúc này Cửu Dương đã mơ hồ nhìn ra dụng ý của đối phương rồi. Nhưng phần vì để khẳng định phán đoán này, phần khác muốn kéo dài thời gian giúp Trương Quốc Khải phục hồi phần nào chút sức lực, chàng ta bèn nhàn nhã hỏi:

– Đáng tiếc cái gì?

– Là bản tướng tiếc cho tiên sinh đó. Một người lòng mang chí lớn, tâm hoài đại nghiệp không đi làm việc đại chí đại nghĩa lại hòa cùng đám thất phu tặc tử làm điều phản nghịch!

Không để đối phương kịp đáp trả, Tô Khất vội bồi thêm:

– Hơn nữa một thân nam nhi đại trượng phu hùng tài vĩ lược lại đi bám váy phò trợ cho con mụ già!

– Ha ha ha!

Tuy bị chửi bới khích bác Cửu Dương vẫn cười lớn, thầm nghĩ “Rốt cuộc đã lòi ra bản chất của kẻ mãng phu!”  Đoạn thong thả đáp trả:

– Từ xưa tới nay, phàm là người trung nghĩa hiểu biết tất sẽ tìm tới kẻ thừa mệnh trời, tự nguyện dốc hết tài năng phò tá đấng minh quân ấy kiến công lập đại nghiệp! Còn hoàng đế người Mãn các ngươi thì sao? Vốn đời đời ở nơi quan ngoại, lại đem quân xâm chiếm Trung nguyên chúng ta. Cứ cho là qui luật tự nhiên, triều đại này suy ắt có triều khác thay thế. Nhưng nếu là một đấng minh quân, việc đầu tiên nên làm là phải lấy đức thu phục chúng sinh, chứ ta chưa từng nghe có ai lại đi uy hiếp bá tánh, dùng máu và đầu người đặng xây nền móng cả!

Biết rằng đối phương ám chỉ chuyện triều đình bắt người Trung nguyên để tóc đuôi sam, song không tiện tranh luận việc này, Tô Khất bèn theo lời dặn của tướng quân, cười khẩy nói lảng đi:

– Lòng dạ mềm yếu sao có thể làm chuyện đại sự. Tiên sinh nghĩ xem sẽ thế nào, nếu năm xưa Đường Cao Tổ ở Thái Nguyên khởi sự, cũng do dự bất quyết như ngài? Nếu không phải nhờ con trai thứ hai của ngài là Lý Thế Dân năm lần bảy lượt thúc ép thì Thái Tổ đâu có thể khoác lên vai áo vàng. Và cũng chính Đường Thái Tổ nếu e sợ miệng lưỡi thế gian, không dám xách động chính biến Huyền Vũ Môn thì đâu có một thịnh thế Đại Đường độc nhất vô nhị ngày sau!

Thấy Cửu Dương ngẩn người câm lặng, nghĩ đối phương đã thông suốt rồi, Tô Khất hăng hái nói văng bọt mép:

– Hai vị này bất đắc dĩ vì mưu đồ đại sự cho nên mới phải làm vậy. Nhưng khi lên làm quân chủ đều là bậc minh quân hiền đức. Thử hỏi hậu thế sau này, có ai là không kính ngưỡng họ!

Tô Khất cứ thao thao bất tuyệt mà không biết rằng, ngoài những buổi Cửu Dương cùng Giác Viễn đại sư luyện tập võ nghệ sau chùa Thiếu Lâm, chàng ta còn theo Mã Lương phu tử dùi mài kinh sử, ôn luyện văn thơ. Mã phu tử lúc trước vốn là thầy giáo dạy cho các trường học ở miền nam. Sau này mới cùng một số bạn bè đứng ra tự mở trường dạy miễn phí cho đám trẻ nghèo khó nhưng ham học, đặt tên là Hắc Viện. Trong trường có rất nhiều học sinh, nhưng Cửu Dương chính là học trò tâm đắc nhất của phu tử, thậm chí được phu tử yêu mến nhận làm nghĩa tử. Mã Lương phu tử là viện trưởng đầu tiên của Hắc Viện. Sau khi ông mất thì Cửu Dương trở thành viện trưởng đời hai của trường học này.

Cho nên trái với những gì Tô Khất lầm tưởng. Một người thuộc làu kinh sử như Cửu Dương khi nghe Tô Khất múa may mồm mép chỉ cảm  thấy buồn cười, nhủ bụng không ngờ tên võ tướng trông thô lỗ này lại chịu khó học thuộc sử Đường đến thế.

Bất quá chàng ta chẳng buồn tranh cãi, chỉ nhếch môi cười nhạt, nói cứng như đinh đóng cột:

– Nay bọn ta lọt vào tay các người, muốn chém muốn giết cứ việc tùy ý, cần chi nói nhiều!

Không khỏi thất vọng, song Tô Khất chưa chịu từ bỏ nhiệm vụ khuyên địch quy hàng, tiếp tục tặc lưỡi nói:

– Tiên sinh ơi là tiên sinh, với tài nghệ và kiến thức của ngài, quan trường mới là nơi để ngài dung thân, phát triển sự nghiệp tạo phúc cho muôn dân. Chuyện này đối với Cửu Dương ngài và trăm họ bá tánh mà nói, đều lợi cả đôi đường. Không phải hay sao? Hoàng thượng thánh minh, sau này nhất định sẽ không bạc đãi người.   Hà cớ gì cứ ngoan cố không chịu nghe? Sao hả? Ta nói như vậy, ngài nghĩ thế nào?

Cửu Dương bỗng lấy làm lạ, chỉ bằng mấy lời tầm thường thế này mà đòi thuyết phục chàng quy hàng thì kẻ địch quá ngây thơ rồi. Nhưng cớ sao gã này cứ nhì nhèo mãi không buông? Cho nên chàng liền tập trung suy nghĩ, thầm phán đoán về dụng ý thật sự của đối phương. Bất giác quay sang bắt gặp Tam ca liếc nhìn mình, ánh mắt là lạ như thấp thoáng nỗi băn khoăn, Cửu Dương giật mình bừng tỉnh.

Thử nghĩ mà xem, Giang Nam thất hiệp bọn họ, trong khi sáu người bị coi là phản tặc cần phải tru diệt. Riêng mình chàng lại được đối xử đặc biệt, trước đích danh gọi ra nói chuyện, sau lấy lễ đối đãi rồi dùng lời thiết tha khuyên bảo. Chuyện này nếu truyền ra, thì dù có chạy thoát được hôm nay cũng không tránh khỏi người trong hội xì xào bàn tán. Đến lúc đó dẫu bảy người tình như thủ túc nhưng ai dám chắc qua sự kiện này quan hệ giữa chàng và cả bọn không có vết gợn. Quả nhiên chia rẽ ly gián mới là dụng ý sâu xa của kẻ địch.

Cửu Dương cười khổ, bèn nói nhỏ:

– Tam ca, cẩn thận kế ly gián!

Nhưng ngẫm lại, một kẻ nom lỗ mãng như tên tướng quân này khó có khả năng dùng tâm kế. Vậy hẳn là do cao nhân nào đó đứng sau bày ra rồi. Thế là chàng càng thêm cảnh giác.

Về phần Tô Khất, nói hết nước hết cái song đối phương chỉ một mực im lặng, y bực tức kêu:

– Ngài không nghe theo lời ta khuyên, mai này thiên hạ phỉ nhổ đừng có hối hận. Sao một kẻ có tài năng, tự cho mình là hiểu biết lễ nghĩa lại đi làm chuyện hành thích hoàng đế, làm việc đại nghịch bất đạo, thiên tru địa diệt như vậy chứ?

Trương Quốc Khải được sư đệ nhắc nhở, bấy giờ mới vỡ lẽ, lòng có chút ngượng ngùng. Tai lại nghe tên tướng giặc khốn kiếp chửi sư đệ như vậy, máu nóng dồn thẳng lên trên đỉnh đầu. Lửa giận nổi phừng phừng, Trương Quốc Khải mới thò đầu ra khỏi thân cây lớn tiếng mắng:

– Mẹ kiếp, con bà nhà ngươi, cái tên cẩu quan kia, nói mà không biết ngượng à? Bọn ta còn chưa chửi nhà ngươi bất trung bất nghĩa đấy? Còn dám nói sư đệ ta khụ khụ…

Vì vận sức lấy hơi đột ngột động tới vết thương nơi ngực, thành ra chưa hết câu y đã ho sặc sụa. Cửu Dương đặt tay lên vai Trương Quốc Khải, ý như muốn bảo sư huynh bình tĩnh lại, sau đó nghiêm mặt đáp:

– Tên võ quan vô lại kia, ta nghe giọng của ngươi, rõ ràng cũng xuất thân người Hán, cớ sao lại đi phò trợ cho đám người dị tộc? Ngươi nghĩ ngươi như vậy, là anh hùng, là hảo hán lắm sao? Giang sơn gấm vóc người Hán chúng ta hôm nay lọt vào tay lũ mọi rợ Mãn Châu, để chúng tự ý phân chia, cai trị bằng đòn roi hà khắc. Hằng ngày đâu đâu cũng có chuyện bất bình, hà hiếp bá tánh, ngươi có thể nhắm mắt làm ngơ hay sao?

Tô Khất trợn mắt chưa biết đối đáp thế nào, Cửu Dương lại nói tiếp:

– Ta nghĩ thay vì nhận giặc làm cha trợ Trụ vi ngược, bị người sau ngàn đời nguyền rủa. Bây giờ còn chưa muộn đâu, hãy quay giáo theo ta phò trợ Tổng đà chủ, đưa người trở thành một Võ hoàng đế thứ hai, một quân chủ nhân nghĩa trị quốc anh minh, giúp người Hán ta đem đám người Mãn đuổi ra ngoài quan ngoại…

Cửu Dương còn nói nhiều nữa nhưng Tô Khất chẳng muốn nghe. Thầm nghĩ tên này ngoan cố không chịu quy hàng rồi, y thô lỗ cắt ngang, cách thức xưng hô cũng thay đổi:

– Chim khôn biết lựa cành lành mà đậu, kẻ biết thời cơ mới là trang tuấn kiệt. Chẳng lẽ ngươi chưa nghe qua câu đó à?

Xem chừng cũng quá ngán ngẩm rồi, y cáu tiết xua tay nói tiếp:

– Mà thôi đi! Bản tướng chẳng thèm nhiều lời với nhà ngươi nữa. Bây giờ ta đếm ba tiếng, nếu như ngươi còn không chịu vác mặt ra quy hàng, thì chỉ có con đường… Chết….

Dứt lời bèn hô to:

– Một!

Đoạn y giơ tay làm hiệu, đoàn quân thiết giáp phía sau đồng thanh thét lớn.

– Haiiii!

Cửu Dương trầm mặc nhìn Trương Quốc Khải rồi ngoảnh đầu về phía ngôi chùa Quan Âm. Chàng ta nghe văng vẳng trong gió tiếng hò reo chém giết dữ dội, tiếng vũ khí chạm nhau loảng xoảng xen lẫn tiếng súng đạn nổ đùng đùng. Quân Thanh đã dùng tới thứ vũ khí lợi hại này, chỉ sợ sư thái và mấy vị đương gia kia lành ít dữ nhiều rồi.

– Đằng nào huynh cũng khó thoát kiếp nạn này, để ta cầm chân bọn chúng, đệ mau chạy đi! – Trương Quốc Khải giục.

Nhưng Cửu Dương chỉ lắc đầu bởi chàng ta đã có quyết định của riêng mình. Quay sang Trương Quốc Khải, giọng Cửu Dương nhẹ tênh như chẳng để ý sinh tử đang kề bên:

– Tam ca, còn nhớ lúc bảy người huynh đệ bọn ta cắt máu ăn thề có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu không? Phúc thì chưa thấy song ít nhất cũng được như tâm nguyện, chúng ta không sinh cùng năm nhưng lại được chết cùng ngày cùng tháng!

Nghe vậy Trương Quốc Khải không khỏi nghẹn ngào, bao lời khuyên nhủ định thốt ra lại nuốt ngược trở lại. Thất đệ đã quyết ý như vậy y còn biết nói gì đây. Trong lòng cảm động vô cùng, y đặt tay lên vai sư đệ, xiết thật chặt:

– Thất đệ, nếu có kiếp sau chúng ta lại là huynh đệ tốt!

Hai người thoải mái hàn huyên chẳng cần biết bọn quân thiết giáp đã hô đến tiếng thứ ba. Dứt ba tiếng mà không thấy Cửu Dương vác mặt ra hàng, Tô Khất bực mình sẵng giọng:

– Đúng là thân lừa ưa nặng, nói nhẹ không nghe cứ thích phải nặng tay!

Đoạn y vung cây trảm mã đao chém vào không khí, quát lớn:

–  Lên! 

Chỉ chờ có vậy, đoàn quân thiết giáp hò hét xông lên như sóng vỡ bờ, ùa tới vây lấy hai người. Do bọn chúng ai cũng trang bị giáp bọc sắt nên hai huynh đệ vô cùng chật vật, chỉ còn biết vừa đánh vừa lùi. Hơn nữa Trương Quốc Khải trong mình thương thế không nhẹ, chống trả một hồi cũng đành vùng vẫy trong tuyệt vọng. Trước khi gục xuống, y định vung kiếm tự sát còn hơn chết nhục trong tay Thanh binh thì Cửu Dương đã cản lại:

– Tam ca! Chưa đến đường cùng, tội gì phải thế!

Dứt lời chàng quát lên một tiếng, mượn lực từ thân cây kế bên, xoay người thi triển liên hoàn cước khiến hai ba tên lính trước mặt ngã dúi dụi vào đồng bọn phía sau. Tranh thủ lúc đội hình đối phương rối loạn, Cửu Dương lập tức dìu Trương Quốc Khải xoay người bỏ chạy.

– Còn muốn trốn sao? Đuổi theo cho ta! Tô Khất liền ra lệnh.

Đúng lúc ấy bỗng có tên thân binh bước lên thưa:

– Bẩm tướng quân…

– Chuyện gì?

– Nhìn hướng bọn chúng chạy, thuộc hạ e là…

Thấy tên này ấp a ấp úng, Tô Khất không khỏi bực mình gắt:

– Làm sao cứ lúng búng như trẻ con tập nói thế!

– Dạ, hướng bọn chúng tẩu thoát đó là tới hẻm núi Đá Ma!

– Hẻm Đá Ma! Đó là cái gì? – Tô Khất nhíu mày.

– Mấy ngày trước thuộc hạ theo lệnh đi trinh sát khu vực này, có nghe dân địa phương kể, nơi đó không ít thợ săn khi đuổi theo con mồi vô tình chạy vào bỗng dưng biến mất tăm tích. Một số người gan dạ đi vào tìm kiếm cũng cùng chung số phận. Kẻ may mắn sống sót trở ra được thì điên điên khùng khùng, sống dở chết dở, lay lắt thêm mấy ngày cũng chết. Đặc biệt khi gặng hỏi chuyện xảy ra trong khe núi họ tỏ ra vô cùng hoảng loạn. Từ đó dân địa phương sợ hãi chẳng dám bén mảng lại gần…

Nghe vậy Tô Khất nhăn mặt, trầm giọng hừ lạnh:

– Giả thần giả quỷ, hồ đồ nhảm nhí!

Tên thân binh vội nói tiếp:

– Thoạt đầu thuộc hạ cũng không tin bèn đích thân đi vào dò xét. Hóa ra đó là một khu phế tích bỏ hoang, tứ bề núi đá bao quanh. Trên mặt đất rải rác rất nhiều hố sâu như lỗ giếng không rõ để làm gì, thuộc hạ trộm đoán nhiều khả năng đám thợ săn do bất cẩn rơi xuống đó. Có điều…

– Có điều thế nào? – Tô Khất sốt ruột quát.

Tên thân binh lại ấp úng:

– Dạ… có điều thuộc hạ cảm nhận, đúng là trong đó có gì đó rất bất thường, ngột ngạt khó thở cứ như… cứ như, như ai đó đè lên ngực vậy…

– Hừ, nói linh tinh. Tô Khất ta trước nay chỉ tin thanh đao trong tay mình, há lại đi sợ chuyện ma quỷ vớ vẩn này!- Gã nạt nộ thủ hạ, đoạn hô lớn:

– Truyền lệnh bản tướng tất cả lên hết truy bắt phản tặc cho ta, sống thấy người chết phải thấy xác. Kẻ nào còn nói năng xằng bậy làm dao động lòng quân liền xử theo quân pháp!

Chúng tướng dạ ran, lập tức đốc thúc binh lính rầm rập đuổi theo. Chạy không bao xa quả nhiên đến một khe núi cây cối rậm rạp xơ xác, đi vào chừng vài chục bước lại là một khoảng trống rộng rãi, xung quanh ngổn ngang những thanh gỗ mục nát, nhìn hình dáng hẳn lúc trước dùng làm trụ chống và giá đỡ. Mặt trời vừa hay bị rặng núi che khuất một phần, chỉ hắt được xuống thứ ánh sáng mờ mờ. Trong không khí vẩn lên một thứ mùi khó chịu khiến người ta tức thở. Binh lính gặp khung cảnh kỳ dị này liền không tránh khỏi thấp thỏm lo âu.

– Cẩn thận nhìn hố dưới chân! Tên thân binh nọ đang dẫn đầu hô to nhắc nhở.

Tô Khất nhíu mày quan sát xung quanh, không khó để thấy Cửu Dương đứng cách đó không xa. Bên cạnh, Trương Quốc Khải đang ngồi tựa lưng vào một bức tường đổ, xem chửng đã sức cùng lực kiệt. Thế là y đắc ý cười gằn:

– Cửu Dương, xem ngươi còn chạy đi đâu được nữa? Chịu chết đi thôi!


Đáp lại Cửu Dương chỉ cười cười:

– Muốn giết được huynh đệ ta, các ngươi cũng phải trả cái giá không nhỏ đâu!

– Hừ, chết đến nơi còn khoác lác. Bắt chúng cho ta!

Tô Khất quát một tiếng, toán quân đi đầu lập tức dàn thành hình vòng cung chậm rãi tiến lên. Nhưng vòng vây càng siết chặt mục tiêu, tâm trạng Tô Khất trái lại càng bất an. Nhìn đối phương tỏ vẻ thong dong, trực giác của một người cầm quân dày dạn sa trường mách bảo y có điều gì đó không bình thường.

Quả nhiên đang chắp tay sau lưng, tả thủ Cửu Dương bỗng vươn ra, trên tay lập lòe một mồi lửa. Mắt liếc vòng vây trùng trùng đang khép chặt, chàng ta mỉm cười nhẹ nhàng buông tay. Ánh lửa lóe lên, chầm chậm rơi xuống phút chốc biến mất dưới một hố sâu bên cạnh.

Khoảnh khắc thấy Cửu Dương ném xong mồi lửa, liền đó kéo Trương Quốc Khải trốn sau bức tường đổ, trái tim Tô Khất nảy lên một cái, y không rõ chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo song trong lòng cồn cào bất an. Một sự tĩnh lặng bao trùm cả khe núi. Thậm chí Tô Khất nghe rõ tiếng đập thình thịch trong lồng ngực mình.

Y còn chưa kịp hô to cảnh báo, thình lình một tiếng nổ kinh thiên động địa đập vào tai. Mặt đất rung lên rần rần sụt lở từng mảng, vô số cột lửa đỏ rực phun ra từ những hố sâu trên mặt đất, cả khe núi chớp mắt như một Hỏa diệm sơn bốc cháy ngùn ngụt.

Ngay khi đó có người xô một cái thật mạnh khiến Tô Khất ngã nhào. Được thân binh che chở, y nằm rạp trên mặt đất mà mặt mũi tái mét, thất kinh hồn vía nhìn toán quân đi đầu đã biến thành những bó đuốc sống đang gào thét đau đớn rồi từ từ gục xuống quằn quại trong biển lửa.

– Tướng quân, phải mau thoát khỏi đây thôi – Một tên thân binh cuống quít giục.

Cũng may vị trí của y ở giữa đoàn, tương đối gần với lối vào. Bọn thân binh bèn ném khiên xuống đất dập lửa làm thành một con đường, quát tháo binh lính nhường đường rồi liều chết che chắn cho chủ tướng, chật vật một hồi cũng thoát khỏi chảo lửa địa ngục trần gian.

Nhưng phần đông thì không được may mắn thế. Gần lối vào khe núi, quân Thanh hoảng loạn chà đạp, xô đẩy nhau để giành một con đường sống. Song chỉ càng làm bọn chúng níu chân lẫn nhau, chạy tới đâu lửa tràn theo tới đó khiến vô số người chết vì bỏng.

Bởi thế lửa quá mãnh liệt, phụt lên hừng hực từ những lỗ giếng, mà quân của Tô Khất trang bị thiết giáp, vô tình chẳng khác nào những miếng sắt bị nung đỏ nóng rẫy áp lên da thịt, đau đớn không sao tả xiết. Thế là bọn chúng cuống cuồng lột bỏ giáp trụ, vừa đạp lên nhau vừa la khóc ầm trời.

Phải một lúc sau sức lửa mới giảm bớt, vẫn còn cháy chỉ còn cây cối và gỗ mục quanh đó. Chỉ chờ có thế, Cửu Dương kéo Trương Quốc Khải chui ra khỏi hầm trú ẩn. Hai huynh đệ dìu nhau lom khom tìm đường thoát.

Khói lửa mịt mù rất khó thấy đường đi song như đã có chuẩn bị, Cửu Dương trùm lên cả hai một tấm vải sũng nước. Sau khi xác định đúng phương hướng, hai huynh đệ nín thở để khỏi chết ngạt rồi chạy thật nhanh theo lối đã dự tính trước. Trong cảnh hỗn loạn, binh Thanh kẻ nào kẻ nấy chỉ lo thoát thân đâu còn lòng dạ nào để ý ai với ai nữa. Vì thế bọn họ dễ dàng trà trộn thoát ra ngoài.

Vừa dừng chân tạm nghỉ, Trương Quốc Khải liền ho sặc sụa, dù thở không ra hơi vẫn không quên tán dương huynh đệ:

– Thất đệ… đệ thực lợi hại! Một mồi lửa đã nướng trọn cả đội quân tinh nhuệ!

Nhưng Cửu Dương chỉ lắc đầu, đoạn nặng nề đáp:

– Vạn bất đắc dĩ mà thôi. Nếu không buộc phải “tìm đường sống trong chỗ chết,” đệ thật không muốn tạo sát nghiệp kiểu này!

Thoáng trầm ngâm, Trương Quốc Khải thở dài:

– Ta hiểu nỗi khổ tâm của đệ nhưng đã đi con đường vì đại nghiệp phục quốc này, chúng ta đâu có nhiều lựa chọn…

Chưa hết câu y đã ôm ngực ho khù khụ, gương mặt tím tái đỏ bừng. Cửu Dương lo lắng hỏi:

– Hay trước mắt cứ tìm một nơi an toàn để Tam ca ẩn náu đã?

– Không… không sao! Lửa lớn còn không thiêu chết được bọn ta, thế này ăn nhằm gì. Đệ đừng lo, ta vẫn cầm cự được! Mau tới đại điện hội họp với mọi người thôi!

Xem ra Trương Quốc Khải vẫn canh cánh trong lòng sự sống chết của đồng bạn. Thế là Cửu Dương xúc động gật mạnh đầu:

– Đi!

Hai người tiếp tục dìu nhau hướng tới bìa rừng. Bất quá vừa dợm bước ra khỏi rừng thông liền thấy hàng hàng cung thủ đang giương cung lắp tên cùng vô số trường mâu tua tủa, chĩa lên trời rậm rạp như rừng. Ba quân nghìn nghịt, thật không rõ là đông tới bao nhiêu.

Trước trận, Tô Khất dù đã chỉnh trang giáp trụ song râu tóc tán loạn, đen nhẻm tro than đang bầm gan tím ruột gào thét:

– Cửu Dương! Bản tướng phải băm vằm ngươi ra mới hả giận!

Quả thực chỉ cần một hiệu lệnh của Tô Khất là hàng ngàn hàng vạn mũi tên cùng lớp lớp trường mâu sẽ nhằm vào hai người họ phóng tới, dù bản lĩnh bằng trời cũng không thoát khỏi tình cảnh như con nhím.

Cửu Dương bèn dìu Trương Quốc Khải dứt khoát lộn trở lại vào rừng. Trong lúc vội vã, cả hai đều không biết một cuộn trúc nhỏ cỡ bó đũa đã rớt ra từ trong người chàng…

Một tên lính cung kính dâng lên cho Tô Khất:

– Bẩm tướng quân, trong lúc truy đuổi nghịch tặc đã nhặt được vật này!

Y không do dự cầm lấy mở ra xem. Chỉ thấy sau khi trải rộng hai ống trúc liền hiện ra bức tranh vẽ một người con gái. Vừa nhìn thoáng qua, cặp mắt hổ của vị phó tướng bỗng dưng trợn lên như bị trúng tà. Tô Khất ngơ ngác hồi lâu, ngẩn người chăm chú nhìn hình vẽ đến xuất thần.

Đó là chân dung một người con gái với nét đẹp vô cùng diễm lệ. Nàng không những xinh đẹp vô song mà từng nét vẽ còn làm nổi bật lên vẻ thuỳ mị đoan trang, sống động tuyệt vời. Nói không ngoa rằng, người họa sỹ vẽ bức họa này quả thật đôi tay như thần, đã thành công thổi vào hình hài trên giấy một linh hồn. Hoặc giả, biết đâu tâm sự của người nghệ sĩ hoàn toàn ký thác vào đó thì tác phẩm mới có thể có thần đến như vậy…

Lại nói tiếp về Cửu Nạn sư thái. Sau mấy mươi hiệp bất phân thắng bại bà biến chiêu từ trảo thành chưởng vỗ vào mặt Sách Ngạch Đồ. Y đưa kiếm lên cản, lại thấy bàn tay sư thái không kịp rút về để hở một khoảng trống trước ngực. Nhân cơ hội đó, Sách Ngạch Đồ bèn hoành ngang đầu kiếm biến thành thế chém thẳng qua.  Nhưng hóa ra, sư thái chỉ giả vờ để dụ kẻ địch lỡ đà ra chiêu mà thôi. Chờ họ Sách xuất chiêu rồi bà lập tức nghiêng mình ra sau tránh né, xuất cước đá trúng vào vùng hạ bộ của Sách Ngạch Đồ.

Lãnh trọn một cước Liêu Âm Thoái của Cửu Nạn sư thái, Sách Ngạch Đồ la thảm, đổ gập người xuống đau đớn. Sư thái thừa thế xông tới, định bồi thêm liên hoàn cước nữa kết liễu sinh mạng họ Sách, song lại bị mấy tên lính Thanh gần đó vung trường đao, liều chết xông qua cứu viện.

Sách Ngạch Đồ thoát nạn, thở ra một hơi gượng đứng thẳng dậy, nghiến răng cố nén cơn đau. Y căm tức mắng:

– Con mụ già thủ đoạn thực ti tiện!

Cửu Nạn sư thái lạnh lùng đáp lại:

– Hừ, giết được đám cẩu quan Mãn Thanh các ngươi, ti tiện đến mấy lão ni ta cũng sẵn sàng làm!

Vừa may lúc này một viên quan khác của triều đình Mãn Châu là Long Khoa Đa kéo một đội quân trang bị súng ống đến trợ giúp.  Sách Ngạch Đồ chẳng thèm do dự bèn nhảy ra khỏi vòng chiến mặc lời mắng chửi của Cửu Nạn sư thái. Chỉ chờ có thế, Long Khoa Đa hô khẩu lệnh, một loạt đạn đùng đùng bắn ra.

Lập tức Cửu Nạn sư thái rơi vào cảnh lưỡng nan thọ địch, vừa phải đối phó với Thanh binh vung kiếm chém tới tấp phía trước vừa phải lo tránh né những viên đạn bắn tới mạn sườn phía sau. Tâm cơ máy động, bà bèn cong tay thi triển Kim Cang Trảo chộp lấy kẻ đứng gần nhất hòng đem y làm tấm khiên thịt chắn đạn cho mình. Dè đâu trảo vừa chạm đỉnh đầu địch thủ, lồng ngực sư thái bỗng đau điếng khiến cả người loạng choạng, mới hay đã trúng đạn rồi.

– Tổng đà chủ…!

Mắt vẫn bao quát toàn trường, Tứ đương gia Đoàn Khiết Tường và Lục đương gia Cung Từ Ân thấy vậy không hẹn cùng kêu lên thất thanh, bèn thi triển khinh công lao tới cứu viện. Nhưng sư thái miễn cưỡng còn cử động linh hoạt, bà vừa xoay người né đao của một tên lính Thanh nhân cơ hội đánh lén, ống tay áo quét ngang quật thẳng vào ngực khiến hắn tuyệt khí bỏ mình, đoạn trấn an hai người:

– Không sao, còn chưa trúng chỗ yếu hại. Mau tiêu diệt bọn lính hỏa thương!

Binh khí mà Đoàn Khiết Tường và Cung Từ Ân sử dụng đều là trường cung, quả thực rất phù hợp đối phó với hỏa lực quân Thanh. Hai vị cao thủ xạ tiễn vừa đứng chắn cho sư thái vừa liên tay kéo cung không ngừng. Tiếng cung bật veo véo liên hồi, một trận mưa tên khiến quân Thanh ngã đổ nháo nhào, phút chốc giết được hàng chục tên. Bất quá cuối cùng họ cũng không chống lại được súng ống phương tây. Khi hàng xạ thủ thứ hai của quân Thanh nổ súng, hai người bị đạn bắn trúng đầu gối ngã quỵ xuống đất. Còn đang đau đớn, gắng gượng đứng dậy thì trước ngực lại trúng một loạt đạn nữa, liền gục tại chỗ.

– Không… Khiết Tường… Từ Ân!!!

Chứng kiến hai vị đương gia vì thế mà chết thảm, Cửu Nạn sư thái kêu lên thảng thốt, quát một tiếng nén đau dợm xông lên nhưng đội hỏa thương đã nạp xong đạn, lại tiếp tục nã đùng đùng. Bất đắc dĩ sư thái phải liên tục xoay người nhảy tránh.

Nhị đương gia Tần Thiên Nhân đang bị vây công gần đó, thấy vậy nghiến răng chịu vài đao, đột phá vòng vây xông ra. Mắt liếc thấy một chiếc Lư hương đúc bằng đồng bày trước sân Đại điện, cao chừng hơn trượng, vừa dày vừa to. Tần Thiên Nhân thét lớn, lấy hết sức bình sinh xuất Hoàng Xà Địa cước, đá một cú mạnh như sấm sét khiến chiếc lư đồng xoay ngang rồi đổ ầm lăn đi, vừa may chắn trước người sư thái. Một loạt tiếng keng keng vang lên liên hồi, song đạn bắn vào lư đồng chỉ để lại vài vết xước nhỏ. Hơn nữa khi nó đổ xuống đất làm tro bụi rơi vãi bay mù mịt, khoảng sân chùa bỗng chốc như chìm trong tấm lưới xám xịt. Đội hỏa thương không thấy được thích khách, nhất thời chẳng dám nổ súng bừa bãi. Nhân cơ hội đó Tần Thiên Nhân đỡ lấy sư thái giục:

– Tổng đà chủ, chúng ta tạm thời rút lui thôi!

– Không được, còn chưa giết được cẩu hoàng đế… – Sư thái mím môi đáp.

– Đây là một cái bẫy. Bọn chúng đã sớm chuẩn bị huy động cả quân hỏa thương, có nhanh cách mấy chúng ta cũng không xông qua nổi đâu!

Thực ra Cửu Nạn sư thái cũng hiểu điều này, bà uất hận thốt lên nghẹn ngào:

– Nhưng… ta không cam lòng. Lẽ nào để Khiết Tường và Từ Ân chết vô ích vậy sao?

Tần Thiên Nhân đau đớn nhìn hai huynh đệ nằm đó, đoạn cắn răng tiếp tục khuyên nhủ:

– Chỉ cần Tổng đà chủ còn, Đại Minh Triều chúng ta còn có thể báo thù rửa hận. Nếu bây giờ xông bừa vào, chết oan uổng dưới tay quân Thanh mới phụ sự hy sinh của họ đó!

Sau một thoáng trầm ngâm, sư thái đành nặng nề gật đầu. Vừa may lúc đó lại có Ngũ đương gia Tàu Chánh Khê tiếp ứng. Thế là người lăn lư đồng, người dìu sư thái, cả ba nấp phía sau cùng bỏ chạy. Chiếc lư đồng nặng vạn cân như hòn núi nhỏ lăn ầm ầm, lăn tới đâu bọn lính Thanh kinh hồn táng đởm chạy tán loạn đến đó, nhờ thế ba người họ thuận lợi xuống núi. Song tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, bất ngờ lại đụng độ một toán quân phục sẵn, mà người chỉ huy chính là Cửu Môn đề đốc thành Bắc Kinh Nhạc Chung Kỳ.

– Để đệ cản bọn chúng, hai người mau chạy đi!

Dứt lời, Tàu Chánh Khê liều mình khua đao đánh át vào trận địch, quyết mở con đường máu cho Tần Thiên Nhân đưa tổng đà chủ thoát hiểm. Có điều Tần Thiên Nhân vừa phải dìu sư thái, vừa phải chống đỡ binh lính tập kích tứ bề, không làm sao thoát nhanh ra được, tức thì lại rơi vào thế hạ phong. Vừa lúc song đao của hai tên lính Thanh đồng thời công đến, Tần Thiên Nhân lừa thế cướp được một, tiện tay dùng làm binh khí chống trả kẻ địch.

Nhạc Chung Kỳ đứng ngoài đốc chiến, lúc này sát tâm máy động, quyết hạ cho bằng được Tần Thiên Nhân để giết sư thái. Chỉ cần thành công thì gã lập đại công rồi.

– Lũ giặc cướp, mau mau chịu chết!

Vì thế sau một tiếng quát, gã xách thương gia nhập vòng vây.

Tần Thiên Nhân vốn là quyền gia cao thủ, không quen dùng đao. Nhưng chiêu số quyền thuật tác dụng chỉ trong phạm vi gần, nếu không nhập nội thì không đả thương đối phương được. Thêm nữa dù võ công của Tần Thiên Nhân rất cao cường, song họ Nhạc cũng không hề kém, thương pháp lão luyện có thể tự thị là cao thủ chốn công môn.

Nhạc Chung Kỳ biết đối phương nôn nóng muốn đào tẩu nên y chẳng việc gì phải vội, trước tiên cứ thủ kín như bưng. Cây Huyết đương thương không ngừng múa tít trên tay khiến Tần Thiên Nhân không sao tiếp cận được. Hơn nữa Tần Thiên Nhân lại vướng một tay phải dìu sư thái đang bị thương, cho nên loay hoay mãi chưa biết đột phá thế nào.

Thêm một khắc nữa trôi qua, Cửu Nạn sư thái mất máu quá nhiều dường như sắp lả đi. Phát giác điều này, đường thương của Nhạc Chung Kỳ không đánh vào Tần Thiên Nhân nữa, mà đổi hướng công đến cổ sư thái.

– Khốn kiếp!

Tần Thiên Nhân thốt lên giận dữ, cả kinh vẫy đao gạt ra, song y vì lo bảo vệ sư thái mà bị mũi kiếm của tên lính phục đằng sau đâm cho một nhát vào lưng. Còn đang giật mình, thì tay cầm đao lại nhận thêm một vết chém nữa, cử động vì thế mà chậm hẳn lại. Nhạc Chung Kỳ đâu để lỡ cơ hội này, càng tấn công ráo riết.

Phía đằng kia cũng chẳng khá hơn là bao, Tàu Chánh Khê sau một hồi tả xung hữu đột, quân địch chẳng ít đi thì chớ mà càng lúc càng đông. Y đành lực bất tòng tâm, không tài nào phá vây được. 

Đúng lúc Tàu Chánh Khê tưởng đâu cả ba người bọn họ phải bỏ mạng ở Sơn Tây rồi, thình lình biến cố xuất hiện.

Chỉ thấy một bóng người toàn thân y phục đỏ rực như máu, lướt tới tựa vệt sao băng ngang trời. Song kiếm trong tay người đó nhoáng lên, chỉ với hai chiêu đã ép Nhạc Chung Kỳ thoái lui ba bốn bước. Từ dáng hình yểu điệu Tàu Chánh Khê dễ dàng nhận ra là một cô gái. Bất quá y không biết đó là ai vì trên mặt nàng cũng đeo một chiếc khăn lụa đỏ rực.

Kiếm pháp của nàng hoa mỹ, lại thêm y phục đỏ chói dưới ánh mặt trời ban trưa, trông lộng lẫy rực rỡ như một con phượng hoàng lửa. Nhạc Chung Kỳ vì thế không khỏi hoa mắt chóng mặt, luống cuống tay chân.

– Ngươi là ai? Có biết trợ giúp phản tặc là trọng tội tru di cửu tộc hay không?

Gã vừa sợ vừa bực mình, quát tháo om tỏi nhưng nàng ta chỉ lặng thinh. Nhờ có cô gái cầm chân họ Nhạc, Tàu Chánh Khê và Tần Thiên Nhân nhẹ nhàng hẳn, mới an tâm quay sang tấn công đám quân Thanh.

Nhạc Chung Kỳ lại khổ không nói nên lời. Dựa vào thân pháp như quỷ mị, Huyết y nữ tử luôn tránh lấy cứng đối cứng với gã. Cho nên dù thương pháp gã mạnh mẽ có thừa, lại như đánh vào không khí, hết sức khó chịu. Ngược lại song kiếm trong tay nàng bám sát gã không rời, phối hợp vô cùng lợi hại, liên miên bất tuyệt như sóng vỗ bờ khiến Nhạc Chung Kỳ không biết đâu mà lần.

Rõ ràng gã nhận thấy mũi kiếm lóe lên nhằm bên mé trái bèn dợm bước sang phải. Ngờ đâu một mũi kiếm khác như độc xà đã đợi sẵn từ khi nào, sẵn sàng đưa gã vào tử lộ. Nhạc Chung Kỳ kinh hãi không kịp né tránh, trong lúc gấp rút phải vứt thương rùn người nhào xuống đất, lăn mấy vòng ra ngoài, mới thoát được độc chiêu.

Vừa khiến Nhạc Chung Kỳ chạy bạt ra xa, cô gái liền vung kiếm, cách không chém liên tiếp mấy nhát nhanh gọn vô những cây cổ thụ mọc gần đó. 

Xoẹt xoẹt.

Từ khoảng cách gần trượng, làn kiếm khí nhoáng lên nhanh như chớp, vụn gỗ bắn tứ tung. Lập tức mấy cây đại thụ rầm rầm đổ xuống khiến đất đá nhất thời bốc lên mù mịt.  Đám quân Thanh hoảng sợ dạt cả ra, chỉ chờ có thế cô gái hô lớn “Chạy mau!” rồi cùng với Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê dìu sư thái thoát hiểm.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.