Bạn đang đọc Hà Thần – Thủy quái dưới cầu: Chương 17
Một
Trước khi bắt đầu nói đến câu chuyện “Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương” này, phải nhắc đến khoảng thời gian từ tháng một Thiên Tân được giải phóng đến tháng mười nước Trung Quốc mới được thành lập của năm một chín bốn chín, người dân bắt buộc phải thay đổi phong tục, không được tiếp tục khiêng quan tài diễu khắp phố tổ chức tang lễ rầm rộ, cũng không cho hoá vàng mã hình nhân, sự việc liên quan đến “Thần sông” cũng không ai còn nhắc đến. Đến lúc bấy giờ, kể cả tên hòa thượng giả danh để ăn uống miễn phí Lý Đại Lăng lẫn ông thầy xem phong thủy kèm tướng số cho người Trương Bán Tiên, đều đã không còn đường kiếm ăn; Nếu không phải đi khiêng bưu kiện ở bưu cục thì cũng đi làm phu khuân vác ở nhà ga, mệt mỏi rã rời nai lưng ra mà kiếm sống.
Lúc bấy giờ, cửa hàng làm hàng mã của Quách sư phụ cũng bị đóng cửa, nghĩa trang miếu Hà Long với mái điện sụp đổ cũng bị dỡ bỏ. Phòng ở đã mất, ông ta đành phải chuyển đến cư trú ở một căn nhà cấp bốn bé tẹo ở bên trên Thiên Tân vệ, tại sao lại nói là bên trên? Xét về tổng thể, địa thế Hải Hà bắc cao nam thấp. Ngày xưa, ông cha ta có cách nói như thế này “Thượng Kinh hạ Vệ”, đó là muốn nói ở Bắc Kinh là ở trên cao, ở Thiên Tân là ở dưới thấp. Mọi người nên biết, thành Bắc Kinh bắc quý nam bần, theo bố cục bắc cao nam thấp. Nếu sống ở nam thành phố, chẳng khác gì ở ngay dưới chân Tử Cấm Thành, hoàng quyền chèn ép, thiên uy đè đầu, cả ngày thở cũng không dám thở mạnh. Trong thời kỳ trước kia, đa phần những người sống ở phía nam thành phố Bắc Kinh là người nghèo. Thiên Tân vệ thì trái ngược hẳn lại, ở nơi này thấp mới là quý, bởi vì toàn bộ khu phía nam đều là đất cho thuê. Những người sống ở vùng đó không ít kẻ không chỉ có có tiền, mà còn có cả thân thế. Nhưng nếu ở khu vực bên trên, tất cả cư dân của khu vực này đều có xuất thân từ tầng lớp lao động tay chân như cửu vạn hay ngư dân. Thời gian trước giải phóng, nhà nào khá khẩm lắm thì cũng chỉ đến mức hàng ngày kiếm được đồng nào là tiêu sạch đồng đó, còn đại đa số các gia đình khác thì ăn hết bữa nay lo bữa mai, rất hiếm có ngày nào không có người nghèo chết vì đói, đâm ra túng quá hóa liều, biến thành ổ gái điếm và trộm cắp. Phòng ở thì trống trên hở dưới, thấp bé đơn sơ. Vào thập niên năm mươi, chính phủ bắt đầu sửa đổi cách quản lý khu vực này, đã nâng cấp cơ sở hạ tầng lên dần từng chút một. Mặc dù vậy, vẫn không có ai tình nguyện định cư ở chỗ này, người nào cũng kêu phong thuỷ không tốt, bởi vì vào đời nhà Thanh, các gia đình ở đây nuôi tằm, trồng dâu bạt ngàn. Người dân Thiên Tân vệ ngày trước kiêng kị nhất việc này. Tục ngữ có câu “Tang lê đỗ du hòe, bất tiến âm dương trạch”, ý muốn nói, cây dâu cây lê cây đỗ du cây hòe, không nên có mặt trong khu vực nhà ở và nghĩa địa. Chữ dâu phát âm giống như chữ tang, chủ nhà sẽ có tang; Chữ lê phát âm giống như xa cách, chủ nhà tan đàn xẻ nghé; Đỗ mang ý nghĩa diệt tận gốc, chủ nhà sẽ không con nối dõi, dù nghe người khác nói hay mình tự nhắc đến đều vô cùng xui rủi. Cây hòe là nơi ma quỷ trú ngụ, nếu quỷ tiến vào chỗ ở, còn hơn cả chẳng lành. Về phần cây du, du đồng nghĩa với trộm cắp, đồ vật trong nhà dễ mất trộm. Hơn nữa, cây du lại có lắm côn trùng sinh sống, thực sự không nên trồng trong khu vực nhà cửa và mồ mả. Ở cửa ngõ thành phố bạt ngàn cây du và cây dâu, lại còn là một khu ổ chuột nghèo đói, là cái nôi của lưu manh vô lại, bởi vậy không một ai muốn ở. Ví dụ thế này, trong lần gặp mặt đầu tiên giữa hai người, nếu như biết được người này sống ở phía nam, người kia sẽ nhìn đối phương với con mắt khác, cảm thấy có thể kết giao bằng hữu. Nhưng nếu nghe nói đối phương sống ở vùng cửa ngõ thì mặc dù miệng nói thực sự khách khí, nhưng trong lòng lại thầm cảnh giác, khu ổ chuột cùng quẫn chỉ sinh ra những kẻ gian xảo, không dám nhiệt tình lôi kéo làm quen.
Nơi Quách sư phụ dọn đến được gọi là ngõ miếu Đẩu Mẫu, lúc bấy giờ ông ta đã lấy vợ. Cho dù là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, cũng không dám đảm bảo vợ mình không hiền thục con không hiếu thảo. Bất kể có cách đối nhân xử thế cao thượng đáng kính đến thế nào, một người đàn ông cũng không dám chắc sẽ dạy được vợ hiền con hiếu thuận, vô phúc vớ phải Mẫu Dạ Xoa ngày nào cũng náo loạn gia đình không yên. Những việc như thế này chỉ có thể dựa vào số mệnh, mệnh nào cũng có, cưỡng cầu cũng vô dụng. Quách sư phụ lấy được người vợ không tệ lắm, tự mình cảm thấy vô cùng vừa ý. Người vợ họ Lưu, tên là Phương Tỷ, tính tình rất hiền lành, nhưng sức khỏe không được tốt lắm, thường chỉ ngồi trong nhà dán hộp giấy. Hai vợ chồng sống trong một gian nhà cấp bốn bé tẹo. Sở dĩ được gọi là ngõ miếu Đẩu Mẫu, chỉ vì nơi đây đã từng có một ngôi miếu cổ.
Sau giải phóng, với vai trò là đơn vị trực thuộc cục công an, cảnh sát đường thủy năm sông vẫn tiếp tục đảm nhiệm công việc khổ sai vớt xác trôi sông như cũ. Bất kể là thời đại có biến đổi như thế nào, công việc của đội vớt xác cũng không thể nào không có người thực thi. Chỉ có một điều khác biệt duy nhất so với chế độ cũ, đó là đội tuần sông đã được nhận lương cố định. Không còn kiếm được phụ thu từ công việc dán giấy tường hay lo liệu tang lễ, lại còn đã có vợ, Quách sư phụ không thể nào thanh nhàn bằng lúc còn một mình như trước kia. Thời gian trôi đi rất nhanh, mặc dù tình trạng chung của cả đất nước từ nam chí bắc đều là nghèo, càng nghèo càng quang vinh, không thể đếm xuể có bao nhiêu khó khăn, nhưng cuộc sống của rất nhiều hàng xóm láng giềng còn không bằng nhà vợ chồng họ. Ít ra ông ta vẫn có công việc khổ sai kia, vẫn có thể kiếm đủ cơm cho cả nhà lấp đầy bụng, nhìn lên mình chẳng bằng ai, nhìn xuống thấy còn khối người không bằng mình.
Về phần vụ án đuổi bắt yêu sông Liên Hóa Thanh mấy năm trước, Quách sư phụ rất hiếm khi nhắc tới, đồng thời cũng không ấy người Đinh Mão đề cập tới, bởi ông ta sợ người của cục công an phán xét mình có tư tưởng mê tín, mang danh hiệu Thần sông là điều khó ai mà chấp nhận nổi. Trước giải phóng còn có thể bắt yêu, nếu như không phải công việc vớt xác trôi sông không có ai tình nguyện làm, vậy thì ngay cả bát cơm ông ta cũng không kiếm nổi mà ăn.
Nhưng vào năm 1953, ở Hải Hà đã liên tiếp xảy ra vài vụ án vô cùng ma quái, khiến cho điều tra viên của ngành công an cảm thấy bó tay hết cách, bắt buộc phải nhờ tới Quách sư phụ của đội vớt xác hỗ trợ.
Hai
Năm này qua năm khác, thời gian trôi qua rất nhanh, chớp mắt một cái đã đến tháng tám năm 1953.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o…c.o.m. Tiếng súng trên chiến trường kháng Mỹ viện Triều vẫn còn chưa ngừng hẳn, tất cả các tiết mục phát thanh trên radio đều liên quan đến vấn đề này. Đinh Mão vẫn còn trẻ nhưng lại khôn như chấy. Gã ở cách nhà Quách sư phụ không xa, ngày nào cũng ăn cùng mâm với nhà họ Quách, quần áo cũng do chị dâu giặt hộ. Vào một buổi tối, Quách sư phụ và Đinh Mão ngồi hóng mát trong ngõ hẻm. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn đường, hai người vừa nói chuyện vừa dán hộp giấy.
Đám trẻ con trong ngõ hẻm quấn lấy Quách sư phụ đòi kể chuyện ngày xưa. Đừng thấy Quách sư phụ không được học hành tử tế mà coi thường, trước kia ông ta lúc nào cũng thích xem kịch vui nghe Bình thư, mắt thấu càn khôn tường hận cũ, một bụng cổ kim man mác buồn, nhưng vào thời buổi xã hội mới lại đi kể lại chuyện xưa là không hợp thời. Suy đi tính lại, ông ta còn chưa tìm được chuyện gì hay để kể, Đinh Mão đã kể chuyện khoác lác cho bọn trẻ con nghe. Gã kể: “Hôm kia, chú đã ăn một cái bánh bao nhân thịt to ơi là to. Để làm ra cái bánh bao đó, người ta phải dùng một trăm cân bột mì, tám mươi cân thịt, hai mươi cân rau củ. Sau khi hấp chín, phải dùng tám cái bàn lớn mới tạm đủ diện tích để đặt nó. Hai mươi người bọn chú ngồi thành vòng tròn cùng nhau ăn, ăn cả một ngày một đêm mà chưa hết một nửa. Đang lúc ăn uống tưng bừng, bọn chú phát hiện ra có hai người biến đâu mất, tìm kiếm khắp nơi mà không thấy, chợt nghe thấy bên trong nhân bánh có người đang nói chuyện. Sau khi xé rách bánh ra xem sao thì thấy hai người kia đang đào nhân bánh ở bên trong để ăn. Mọi người thử nói xem, cái bánh bao thịt này có to hay không?”
Quách sư phụ nói, cái bánh bao nhân thịt đó của sư đệ cậu vẫn chưa được coi là to. Năm xưa vi huynh đã từng ăn một cái bánh bao, hơn mười người ăn ròng rã ba ngày ba đêm mà chưa tới nhân thịt ở bên trong, trong lúc đang cắm đầu cắm cổ vào ăn thì gặp một tấm bia đá, trên tấm bia đá đó có khắc một hàng chữ: “Nơi này còn cách nhân bánh ba dặm nữa.”
Bình thường, bọn trẻ con trong ngõ thích nghe Quách sư phụ kể những câu chuyện ngắn. Một sự việc rất bình thường, qua lời kể của ông ta lại hấp dẫn đến mức rớt cả quai hàm, khiến cho người nghe không bao giờ thấy chán, đó gọi là biết ăn biết nói thì dở cũng thành hay — dù là chuyện tự biên tự diễn, khoe khoang khoác lác cũng vẫn hay. Lần đó, họ tụ tập kể chuyện tới hơn chín giờ tối mới giải tán.
Trong ngõ hẻm chỉ còn lại Quách sư phụ và Đinh Mão. Vào ban đêm, nhiều mây làm mờ ánh trăng. Mặc dù vẫn còn le lói, nhưng ánh trăng vô cùng mờ mịt, thời tiết lại oi bức giống như đang ở trong lồng hấp. Nhìn thấy còn cả một đống hộp giấy chưa dán xong, Quách sư phụ bèn bảo Đinh Mão: “Không còn sớm nữa, cậu về ngủ trước đi. Anh sẽ nhanh tay thêm một chút, dán nốt chỗ hộp giấy này rồi cũng vào nhà ngủ. Đến mai đưa cho chị dâu cậu đi giao cho hàng xén, buổi tối chúng ta làm một bữa cải thiện. . .”
Trong lúc hai anh em đang nói chuyện, có một người đạp xe đi vào trong ngõ. Hai người họ vừa liếc mắt đã nhận ra, người này là lão Lương, trưởng phòng điều tra của cục công an, khoảng bốn mươi tuổi, người Sơn Đông, chuyên đi một chiếc xe đạp nam, đã từng là một quân nhân cầm súng đánh giặc thời chiến.
Quách sư phụ và Đinh Mão cùng lên tiếng chào hỏi: “Trưởng phòng Lương, ngọn gió nào đã thổi ông tới đây?” Lão Lương nói: “Buổi tối hôm nay tôi tới chỗ hai người là để tìm hiểu một chút tình hình.” Nói xong, ông dựng xe đạp gọn vào một chỗ, đi vào trong ngõ ngồi xuống, rồi nói tiếp: “Lão Quách, Đinh Mão, vừa may cả hai người các vị đều ở đây. Tôi có cái gì thì sẽ nói cái đó, năm tháng các vị phụ trách công việc ở đội cảnh sát đường thủy năm sông cũng không ít nhỉ?”
Quách sư phụ đáp: “Đồng chí Lương, anh đừng có lầm tưởng đội vớt xác chúng tôi là lũ nha dịch trong nha môn thời phong kiến, chỉ biết bóc lột dân chúng. Vớt xác trôi sông trên dòng Hải Hà chỉ đơn thuần là công việc khổ sai kiếm sống qua ngày, căn bản không có tí chất béo nào cả. Anh cũng đừng có thấy chúng tôi ở nội thành mà nhầm. Thật ra, ở đây còn không rộng rãi bằng những người ở nông thôn như các vị. Nhà ở nơi này của chúng tôi được gọi là hố sâu ba cấp. Ba cấp là những gì? Đường cái cao hơn sân, sân cao hơn nền phòng ở, chẳng phải là hố sâu ba cấp hay sao? Chỉ cần mưa nhỏ, nước mưa đã ngập lưng phòng ở, còn sân đã biến thành sông rồi. Tôi biết bơi lội hoàn toàn là nhờ vào quá trình luyện tập tại nhà. Ở nơi này, không biết bơi sẽ bị chết đuối ngay. Ngay trước khi giải phóng ba ngày, trời mưa to, người ở ngõ miếu Đẩu Mẫu đã bị chết đuối mất hơn trăm.”
Ba
Đinh Mão tiếp lời: “Ai dám nói không phải, nếu như trong nhà có chút của ăn của để, thì làm sao còn phải dựa vào công việc vớt ngưởi chết đuối dưới sông kiếm cơm ăn đây? Công việc khổ sai này của đội tuần sông thật sự giống như là đeo guốc gãy gót để trình diễn múa — ngã dập mặt lúc nào không biết. Nếu nói đến khổ, có thể nói tôi khổ hơn nhị ca của mình nhiều. Nhà của chúng tôi chỉ là một gian phòng bé toen hoẻn, ngay cả giường màn chăn gối cũng không có đủ tiền mà mua. Vào tháng chạp lạnh giá rét mướt, cả nhà già trẻ cùng đắp một tấm ga giường để ngủ. Ông thử nói xem, liệu còn có ai có hoàn cảnh khó khăn hơn gia đình chúng tôi không?”
Lão Lương không tin. Thường nghe người ta nói “Kinh già đời, Vệ già mồm, Kinh già đời nói như khướu, Vệ già mồm cãi như phá, anh có nói cái gì, người ta cũng sẽ vặn lại được”. Những người như Quách Đắc Hữu và Đinh Mão đã lăn lộn trong xã hội không chỉ một hai ngày, thường ngày miệng lưỡi trơn tru, nói chuyện cùng với họ thật sự thú vị, nhưng nếu không để ý sẽ rơi ngay vào bẫy của họ. Bởi vậy, ông không dám tiếp tục kéo dài chủ đề này, bèn nói: “Hai người các vị muốn đi đâu? Tôi cảm thấy các vị đã ăn chén cơm này đã được nhiều năm, quen thuộc từng chân tơ kẽ tóc các đường sông, cho nên tôi có chuyện muốn nhờ hai người hỗ trợ.”
Đến bấy giờ, Quách sư phụ và Đinh Mão mới hiểu được ý định của lão Lương, hai người nói: “Chỉ cần trưởng phòng Lương ông tin tưởng chúng tôi, sau này hễ có chỗ nào hai anh em chúng tôi giúp được thì chỉ cần nói một tiếng. Đến lúc đó, ông sẽ biết chúng tôi có đủ bản lĩnh hay không, nhất định là mòn đũng quần ngồi ghế đẩu — nhịp ra nhịp, phách ra phách*.”
*Cách nói của người Tứ Xuyên, ảnh hưởng từ Xuyên kịch và kinh kịch, ý muốn nói làm việc có bài có bản, đâu ra đấy.
Nghe thấy thế, Lão Lương hết sức phấn khởi, gật đầu đáp: “Có những lời này của các vị là được rồi.” Kế tiếp, lão Lương kể rõ đầu đuôi nguyên nhân, tại sao lại phải tìm đến Quách sư phụ nhờ hỗ trợ. Kể ra cũng có phần rợn người, bởi vì trong khoảng thời gian gần đây, dưới dòng Hải Hà chợt xuất hiện ma chết đuối.
Hải Hà là dòng sông lớn nhất chảy qua nội thành Thiên Tân. Dọc theo dòng sông, tổng cộng có không dưới vài chục cây cầu, trong số đó bao gồm cả câu cầy đường sắt dành cho tàu hỏa. Thời kỳ chiến tranh kháng Mỹ viện Triều, nhằm trợ giúp cho quân tình nguyện chiến đấu ngoài tiền tuyến, toàn quốc tổng động viên hậu phương. Ngay sát cầu đường sắt có một nhà máy quân nhu chế tạo chăn bông và dép cao su. Để mở rộng sản xuất, nhà máy đã tuyển dụng rất nhiều công nhân từ nông thôn, chẳng quản giờ giấc, tăng ca làm việc liên tục không ngơi nghỉ suốt ngày đêm. Chiến tranh Triều Tiên kéo dài đến tháng bảy năm 1953, cuối cùng hai bên đã ký kết hiệp định đình chiến, nhiệm vụ của nhà máy đột ngột cắt giảm, dây chuyền sản xuất bị ngừng mất vài cái, nhưng vẫn có một số công nhân tạm thời ở lại nhà tập thể chờ phân công. Sự việc hai người công nhân gặp ma chết đuối tại bờ sông đã phát sinh đúng vào thời điểm này.
Khi ấy, việc quản lý trong xưởng tương đối lỏng lẻo, lãnh đạo chỉ dặn dò không nên xuống sông bơi lặn. Ngay sau nhà máy là dòng Hải Hà, mặt nước của khúc sông đó rộng mênh mông, nước lại sâu, đáy sông còn có nhiều bùn, xuống sông bơi lội rất dễ gặp phải nguy hiểm. Nhưng vào giữa Tam phục thiên, thời tiết vô cùng oi bức. Vào buổi tối, có mấy công nhân trẻ nóng nực đến mức không chịu nổi nữa, thừa dịp đêm khuya vắng người, chuồn ra ngoài xuống sông tắm át mẻ. Thời điểm họ đi ra ngoài đại khái là tầm hơn một giờ, vẫn chưa tới mười hai giờ đêm.
Hai người công nhân này là anh em ruột, tên đặc chất nông thôn, một người tên là Kim Hỉ một người tên là Ngân Hỉ, bình thường luôn an phận thủ thường, chỉ quanh quẩn ở trong xưởng cắm đầu vào làm, không bao giờ gây rắc rối hay làm phiền đến ai. Đêm hôm đó, khí trời ngột ngạt, nằm trên giường còn khó thở, sau lưng mọc rôm, toàn thân đổ mồ hôi đầm đìa, tinh thần khó chịu đến mức nào thì khỏi cần phải bàn. Lăn qua lăn lại không ngủ, hai người không hẹn mà đều có cùng một suy nghĩ, lúc này nếu như có thể xuống sông bơi đôi ba vòng thì mát mẻ đến cỡ nào? Bởi vậy, hai người vùng dậy, ra khỏi nhà tập thể, leo tường ra ngoài bờ sông. Đưa mắt nhìn lên, một vầng trăng sáng vành vạnh, mặc dù lúc này là đêm khuya, nhưng không cần đèn pin chiếu sáng vẫn có thể nhìn thấy rõ từng cành cây ngọn cỏ.
Thật ra, lúc ấy trời nóng ngột ngạt báo hiệu sắp có một trận mưa lớn, bầu trời u ám đầy mây, vầng trăng sáng cũng chỉ vừa mới ló ra khỏi tầng mây, trong không khí không có lấy một cơn gió thoảng qua, bờ sông dưới gầm cầu đường sắt um tùm cỏ dại, khung cảnh hết sức tĩnh lặng, thỉnh thoảng vang lên vài tiếng ếch kêu. Đến bây giờ, nơi đó đã san sát nhà cửa, người chen chúc nhau mà sống. Nhưng vào đầu thập kỷ năm mươi, nơi đây vẫn còn thưa thớt vắng tanh người ở, ngay cả đèn đường ven sông cũng không có.
Ỷ vào lúc ở quê nhà thường xuyên xuống sông bơi lội, có thể coi là một nửa dân sông nước, Kim Hỉ và Ngân Hỉ tự cho rằng kỹ năng bơi lội của mình không kém. Khi thấy dòng sông nước chảy hiền hòa, hai người hoàn toàn yên tâm, nếu cần phải kiêng dè chắc cũng chỉ có quỷ mà thôi, thầm nghĩ phải mau chóng nhảy xuống sông át. Hai người chạy vào trong bụi cỏ rậm rạp bắt đầu cởi quần áo. Thực ra, vào những ngày giữa hè, trên người họ chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng thùng thình và một cái áo sát nách. Bơi lội vào lúc bầu trời tối đen, quanh đó lại không có một bóng người, không phải lo lắng có ai bắt gặp. Họ quyết định trút sạch quần áo trước khi nhảy xuống nước. Dù sao trong nhà máy cũng có quy định không cho đám công nhân bọn họ xuống sông bơi lội, hai người lén lút trốn đi, đương nhiên không dám gây ra tiếng động. Trong khi đang rón ra rón rén cởi quần áo trong đám cỏ, Kim Hỉ vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy bên bờ sông có một người toàn thân ướt sũng đang đứng.
Bốn
Hai anh em khẽ giật mình, sợ đó là ông lão trực ca ba trong xưởng đi tuần tra ban đêm, bèn trốn vào trong đám cỏ dại lặng lẽ quan sát. Nhưng lúc bình thường, ông lão tuần tra ban đêm chỉ đi lại quanh quẩn trong nhà máy, rất hiếm khi đi tuần tra bên ngoài, đêm hôm khuya khoắt đến bờ sông làm cái gì? Nếu như không phải ông lão tuần tra ban đêm, làm gì có ai rỗi hơi tới một nơi vắng vẻ như thế này?
Ánh trăng soi sáng thân hình của người đứng bên bờ sông, từ chân đến đầu đen thui, không thấy rõ mặt mũi ra sao, hình dáng giống như con người, đứng im không nhúc nhích. Lúc bấy giờ, hai anh em Kim Hỉ và Ngân Hỉ cảm thấy có điểm gì đó là lạ, nhưng hai người này đều còn trẻ bạo gan, cũng chẳng tin vào những lời đồn đại về ma quỷ, thậm chí còn chưa bao giờ từng có ý nghĩ về điều đó. Khi thấy ở phía đằng xa có người đứng bất động nhìn chằm chằm xuống dòng sông, họ nhận định đối phương có ý định nhảy sông tự vẫn. Họ vừa mới định lên tiếng khuyên can, người kia đã im hơi lặng tiếng lội ra chỗ nước ngập đến đùi. Nào có ai ngờ bờ sông dốc đứng, chỉ trong chớp mắt nước sông đã mấp mé đến cổ người nọ.
Hai người thấy tình huống khẩn cấp, vội vàng chạy tới cứu người, người trước kẻ sau nhảy xuống sông. Bơi tới gần, Kim Hỉ mới thoáng nhìn thấy người đang lội xuống sông nọ có gương mặt trắng bệch, đang thè cái lưỡi dài hơn nửa xích (~15 cm) ra. Lúc bấy giờ, trời chợt nổi lên một trận gió lớn. Chỉ trong thoáng chốc, mây đen đã bắt đầu vần vũ, che mất mặt trăng, cơn mưa nặng hạt to như hạt đậu nành đổ ập xuống. Trong lúc mưa to gió lớn, không thể nhìn thấy cái gì, Kim Hỉ sợ tới mức chết đi sống lại. Hắn cuống quít lần mò quay trở lại bờ sông, sau khi lên bờ mới cất tiếng gọi người em. Thế nhưng, hắn gào rách cả cuống họng mà cũng không nghe thấy bất cứ câu trả lời nào.
Kim Hỉ có dự cảm không hay, bất chấp không mảnh vải che thân, đội mưa chạy về khu tập thể tìm người giúp đỡ. Khi nhìn thấy cảnh tượng Kim Hỉ cởi chuồng, cả người ướt sũng, chân không kịp đeo giầy, thở hồng hộc, sắc mặt tái xanh chạy vào trong phòng, tất cả đám công nhân trong khu tập thể sợ hết hồn. May mắn là trong khu tập thể không có nữ công nhân. Đã quá nửa đêm hắn còn lần mò đi đâu vậy, chắc là lẻn ra ngoài ăn trộm bị người ta phát hiện nên chạy về đây hay sao? Trong nhất thời, mọi người mồm năm miệng mười bàn tán hỏi han không ngớt. Đến lúc hiểu rõ nguyên do, mọi người vội vàng khoác áo mưa cầm đèn pin, cùng nhau đi ra chỗ bờ sông tìm kiếm cả đêm, nhưng không những không tìm thấy xác người đã nhảy sông tự tử, ngay cả Ngân Hỉ nhảy xuống sông cứu người cũng không tìm ra. Kết quả, sống không tìm được người chết không tìm thấy xác.
Đến sáng sớm, khi trời đã tạnh mưa mới có người phát hiện ra một xác chết đàn ông trần như nhộng ở dưới hạ lưu. Nhận được tin tức, công an viên chạy đến, xuống sông mò xác chết lên. Sau khi nhận dạng, xác chết đó chính là Ngân Hỉ. Hai mắt xác chết mở trừng trừng, đến lúc chết vẫn không chịu nhắm lại. Kim Hỉ đấm ngực dậm chân phủ phục lên xác chết khóc rống lên. Cuối cùng, sau khi hắn kể lại cho công an viên nghe những gì đã xảy ra, mọi người không kìm được đưa mắt nhìn nhau khó hiểu. Tình trạng này giống như đúc câu chuyện đồn đại ma chết đuối tìm thế thân ngày trước. Dòng sông dưới cầu đường sắt thực sự có ma chết đuối hay sao? Trong lúc nhất thời, mọi người huyên náo cảm thấy bất an không một ai là ngoại lệ. Lời đồn nổi lên khắp nơi, bảo là quỷ cũng có, nói là quái cũng có.
Cục công an khám nghiệm xác Ngân Hỉ, xác nhận trên thân thể có vài vết thương tụ máu, giống như là bị chết sặc do người khác tóm chặt kéo xuống đáy nước. Kẻ nào có thể dìm chết một thanh niên cường tráng biết bơi ở dưới sông đây? Đầu tiên, không thể định tính đây là một vụ chết đuối ngoài ý muốn bình thường, mà là một vụ án mạng. Nếu như không phải do ma dưới sông làm ra, vậy thì phải truy bắt hung thủ đã hại chết Ngân Hỉ. Về phần Kim Hỉ, mặc dù có dấu hiệu tình nghi, nhưng người trong cục công an đâu phải là những kẻ bất tài. Sau khi đối mặt thẩm tra đối chiếu để lấy khẩu cung, có thể suy đoán ra không phải Kim Hỉ đã nhẫn tâm ra tay. Bởi vậy, nhiệm vụ phá án đã rơi vào tay những điều tra viên của cục công an.
Lời phê công an viên phá án chỉ gói gọn trong tám chữ “Cần tìm hiểu thêm, chờ manh mối mới”. Lúc bấy giờ, điều tra viên của cục công an, phần lớn là bộ đội phục viên và chuyển nghề, khi tiếp nhận vụ án này thực sự cảm thấy không biết đâu mà lần, bởi vì hoàn toàn không có manh mối. Nếu như phải bắt một con ma chết đuối, chúng ta tới chỗ nào mà bắt? Hơn nữa, dưới dòng Hải Hà thực sự có ma chết đuối hay sao?