Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 16 – 18
CHƯƠNG 16
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 16
Chỉ huy Trent Anderson lao bổ trở lại Nhà tròn Điện Capitol, giận sôi vì nhóm an ninh của mình thất bại. Một người trong đội đã tìm thấy dải băng đeo và chiếc áo khoác nhà binh tại một hốc tường gần cổng phía đông.
Đây là chỗ thằng khốn thoát thân!
Anderson đã phân công các nhóm xem lại đoạn video khu vực bên ngoài, nhưng đến lúc họ tìm được gì đó thì gã kia đã cao chạy xa bay từ lâu.
Lúc này, khi bước vào Nhà tròn để xem xét tình hình, Anderson nhận thấy mọi việc đã được kiểm soát khá tốt. Lực lượng an ninh khéo léo phong toả cả bốn lối vào Nhà tròn bằng phương pháp kiểm soát đám đông sẵn có. Họ sử dụng một tấm màn chắn bằng nhung, bố trí bảo vệ trực để xin lỗi khách du lịch, và treo tấm biển mang dòng chữ PHÒNG NÀY TẠM THỜI ĐÓNG CỬA ĐỂ LÀM CÔNG TÁC VỆ SINH. Cả chục nhân chứng được dồn thành một nhóm ở mé phía đông gian phòng, bị tịch thu hết điện thoại di động và máy ảnh.
Anderson không muốn để ai gửi một bức ảnh chụp dù bằng điện thoại di động tới CNN.
Trong số những nhân chứng bị giữ lại có một người đàn ông tóc đen, cao ráo, mặc áo tuýt thể thao, đang cố tách khỏi nhóm để nói chuyện với viên Chỉ huy. Bấy giờ người đó đang tranh cãi khá gay gắt với các nhân viên an ninh.
– Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với anh ta – Anderson gọi với tới chỗ nhân viên của mình – Còn bây giờ, hãy giữ tất cả mọi người trong sảnh chính cho tới khi chúng ta xác định được thứ này.
Anderson đưa mắt về cái bàn tay vẫn đứng trơ trơ ở giữa phòng.
Lạy Chúa lòng lành. Suốt mười lăm năm làm công tác an ninh tại Điện Capitol, anh đã trông thấy vài thứ kỳ lạ. Nhưng không có thứ nào như thế này.
Phải gọi pháp y tới đây nhanh để đưa cái đó ra khỏi khu vực của mình.
Anderson tiến lại gần hơn, thấy rõ rằng phần cổ tay đầm đìa máu đã được găm vào một đế gỗ có cắm chông để làm cho bàn tay đứng thẳng được. Gỗ và thịt, anh nghĩ. Các máy dò kim loại chịu chết. Vật duy nhất bằng kim loại là một chiếc nhẫn vàng lớn mà Anderson cho rằng đã từng bị dò ở cửa kiểm soát hoặc bị kẻ tình nghi tuốt khỏi ngón tay người chết để tự đeo.
Anderson cúi thấp xuống để xem xét bàn tay. Trông nó như tay một người đàn ông trạc tuổi 60. Cái nhẫn mang một dấu hiệu trang trí nào đó với một con chim hai đầu và chữ số 33. Anderson không biết biểu tượng này. Nhưng anh chú ý nhiều hơn đến những hình xăm nhỏ xíu trên đầu ngón cái và ngón trỏ.
Một tác phẩm quái gở khốn kiếp.
– Chỉ huy? – Một nhân viên an ninh bước vội tới, giơ điện thoại ra – Cuộc gọi đích danh Chỉ huy. Tổng đài an ninh vừa nối máy.
Anderson nhìn cấp dưới như nhìn một kẻ tâm thần.
– Tôi đang dở việc ở đây, – anh quát ầm lên.
Mặt anh chàng kia tái mét. Anh ta bịt ống nói và thì thào.
– CIA gọi.
Anderson sửng sốt. CIA đã biết vụ này rồi kia à?
– Gọi từ Phòng An ninh của họ.
Anderson đờ người. Chó chết thật. Anh khó chịu nhìn chiếc điện thoại trên tay cậu nhân viên.
Trong cái đại dương mênh mông nhung nhúc những cơ quan tình báo ở Washington này, Phòng An ninh (OS) của CIA chẳng khác gì Tam giác quỷ Bermuda – một khu vực nguy hiểm và bí ẩn mà tất cả những ai hiểu biết đều tìm cách tránh xa bất cứ khi nào có thể. OS do CIA thành lập và được trao quyền gần như thanh trừng nội bộ, chỉ để phục vụ một mục đích kỳ cục là kiểm soát chính CIA. Là một phòng nội chính rất có thế lực, OS theo dõi tất cả các nhân viên CIA để phát giác những hành vi trái phép: tham ô ngân quỹ, buôn bán bí mật, đánh cắp công nghệ, và sử dụng những hình thức tra tấn trái luật, đại loại như vậy.
Họ theo dõi các tình báo viên của nước Mỹ.
Với toàn quyền điều tra mọi vấn đề an ninh quốc gia, OS có phạm vi ảnh hưởng rất mạnh và rộng. Anderson không thể đoán được tại sao họ lại quan tâm đến sự cố ở Điện Capitol, hoặc làm cách nào mà họ biết nhanh đến vậy. Người ta đồn rằng OS có tai mắt khắp mọi nới. Tất cả những gì Anderson biết là họ có đường truyền tín hiệu trực tiếp từ các máy quay an ninh ở Điện. Sự cố này không phù hợp với định hướng quản lý của OS, nhưng thời gian cuộc gọi tới cho Anderson có vẻ quá trùng khớp, không thể là vụ gì khác hơn vụ bàn tay ghê tởm?
– Chỉ huy – như giơ một chủ khoai nóng rãy, nhân viên an ninh chìa điện thoại cho Anderson – Chỉ huy cần nhận cuộc gọi ngay bây giờ. Nó là từ… – Anh ta ngừng lại và chúm môi tạo hình hai chữ: SA-TO
Anderson cau mặt lườm anh chàng kia. Cậu đùa tôi đấy chắc? Anh cảm thấy bàn tay mình bắt đầu vã mồ hôi. Sato đích thân xử lý vụ này cơ? sỏ Phòng An ninh – Giám đốc Inoue Sato – là một huyền thoại của làng tình báo. Sinh ra sau vụ Trân Châu Cảng, trong hàng rào một trại giam của Nhật ở Manzanar California và phải trải qua bao nhiêu gian nan mới sống sót nổi, Sato cực kỳ thấm thía sự kinh khủng của chiến tranh, cũng như hiểu rõ tình báo quân sự kém hiệu quả thì nguy hại ra sao. Giờ đây, ở vào một trong những địa vị quyền lực và bí mật nhất của ngành tình báo Hoa Kỳ, Sato đã chứng tỏ mình là một người yêu nước kiên định và một đối thủ đáng sợ cho bất kỳ kẻ đối lập nào. Chẳng mấy khi lộ diện nhưng rất được công chúng nể sợ, vị Giám đốc OS thường lùng sục tại những vùng nước sâu của CIA, y như loài quái thú săn mồi, chỉ trồi lên khi nào định xơi tái nạn nhân của mình.
Anderson mới diện kiến Sato có một lần, nhưng ký ức về đôi mắt đen lạnh lùng ấy khiến anh cảm thấy được trao đổi chuyện này chỉ qua điện thoại là rất may rồi.
Anderson cầm điện thoại và đưa lên miệng.
– Giám đốc Sato, – anh cố nói bằng giọng thân thiện nhất – Tôi là Chỉ huy Anderson đây. Tôi có thể giúp…
– Tôi cần nói chuyện ngay với một người đàn ông đang hiện diện trong toà nhà anh quản lý – Giọng vị Giám đốc OS rất đanh, y như tiếng sỏi chà lên bảng viết. Cuộc phẫu thuật ung thư vòm họng để lại nơi cổ Sato một vết sẹo to tướng, và làm cho giọng nói trở nên uy hiếp người nghe một cách ghê gớm – Tôi muốn anh tìm ông ta cho tôi ngay lập tức.
Có thế thôi sao? Muốn tôi gọi một ai đó à? Anderson đột nhiên cảm thấy đầy hy vọng rằng có lẽ cuộc điện đàm này là hoàn toàn ngẫu nhiên.
– Giám đốc đang tìm ai?
– Robert Langdon. Tôi tin chắc rằng ông ta đang ở trong khu nhà của anh.
Langdon à? Cái tên nghe quen quen, nhưng Anderson không tài nào xác định được. Giờ anh chỉ thắc mắc liệu Sato đã biết về vụ bàn tay chưa.
– Hiện tôi đang ở trong Nhà tròn, – Anderson phân vân – nhưng ở đây cũng có một số khách du lịch… Giám đốc chờ chút – Anh buông điện thoại xuống và gọi vọng lại phía nhóm người – Này các vị, có vị nào tên là Langdon không?
Không gian lặng đi chốc lát, rồi một giọng trầm thấp vang lên từ đám du khách.
– Có tôi là Robert Langdon.
Sato biết tất cả mọi chuyện. Anderson nghển cổ, dõi mắt nhìn người vừa lên tiếng.
Chính là người đàn ông đã cố gắng tách khỏi đám đông để đến gặp anh lúc trước. Anh ta có vẻ đang mất bình tĩnh… nhưng trông rất quen.
Anderson đưa điện thoại lên miệng.
– Vâng, ông Langdon có ở đây.
– Đưa máy cho ông ấy – Sato xẵng giọng.
Anderson thở hắt ra. Đỡ quá.
– Chờ nhé!
Anh vẫy Langdon.
Khi người đàn ông đến gần. Anderson bỗng hiểu ra tại sao tên họ anh ta lại quen quen. Mình vừa đọc một bài báo về thằng cha này. Hắn làm cái quái gì ở đây không biết.
Mặc dù Langdon cao tới 1m80 và nở nang như vận động viên, nhưng Anderson thấy anh thiếu hẳn vẻ sắc sảo hay lạnh lùng đáng ra phải có ở một nhân vật nổi tiếng vì đã thoát chết trong vụ nổ ở Vatican và vụ săn lùng tội phạm ở Paris. Trông anh ta giống một kẻ cắm cúi đọc Dostoyevsky bên lò sưởi thư viện một trường Đại học tên tuổi nào đó hơn. Thằng cha này trốn tránh cảnh sát Pháp bằng cách náu vào một đống giày thì phải?
– Ông Langdon? – Anderson lên tiếng và bước tới đón – Tôi là Chỉ huy Anderson, phụ trách an ninh ở đây. Ông có một cuộc điện thoại.
– Gọi tôi? – Đôi mắt xanh da trời của Langdon lộ vẻ lo lắng và bất ổn.
Anderson đưa điện thoại ra.
– Gọi từ Phòng An ninh CIA.
– Tôi chưa bao giờ biết đến cơ quan đó cả.
Anderson mỉm cười e ngại.
– Chà, thưa ông, thế mà họ lại biết ông đấy.
Langdon đưa điện thoại lên tai.
– A lô?
– Ông Robert Langdon phải không? – Cái giọng cay nghiệt của Giám đốc Sato oang oang vọng ra từ chiếc loa tí xíu, to đến mức Anderson cũng nghe rõ.
– Vâng – Langdon đáp.
Anderson nhích lại gần hơn để nghe xem Sato nói gì.
– Tôi là Giám đốc Inoue Sato, thưa ông Langdon. Tôi đang phải xử lý một cuộc khủng hoảng, và tôi tin ông có những thông tin may ra giúp ích cho tôi.
Langdon lộ vẻ hy vọng.
– Có liên quan đến Peter Solomon phải không? Các vị biết ông ấy ở đâu chứ?
Peter Solomon à? Anderson chịu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.
– Thưa Giáo sư, – Sato nhắc nhở – Lúc này tôi là người đặt câu hỏi.
– Peter Solomon đang gặp nguy hiểm, – Langdon kêu lên – Một gã điên nào đó vừa…
– Xin lỗi, – Sato ngắt lời.
Anderson co rúm người. Không hay rồi. Ngắt mạch câu hỏi của một quan chức CIA chóp bu đúng là một sai lầm mà chỉ dân thường mới mắc phải. Chắc gã Langdon này tự ình là khôn đây.
– Nghe cho kỹ – Sato nói – Như chúng tôi vừa nói, đất nước đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Người ta gợi ý cho tôi rằng ông có những thông tin ngăn chặn được cuộc khủng hoảng đó. Nào, tôi hỏi lại lần nữa. Ông nắm giữ những thông tin gì?
Langdon hoàn toàn mất phương hướng.
– Thưa Giám đốc, tôi chẳng hiểu Giám đốc đang đề cập tới chuyện gì. Bây giờ tôi chỉ quan tâm tới việc tìm Peter và…
– Không hiểu gì ư? – Sato gặng.
Anderson nhận ra Langdon bắt đầu phát cáu. Giọng vị Giáo sư lúc này nghe hung hăng tợn.
– Không hề, thưa ông. Chẳng hiểu tí nào cả.
Anderson chớp mắt. Sai lầm. Sai lầm. Sai lầm. Robert Langdon vừa mắc phải một sai lầm đắt giá trong cách ứng xử với Giám đốc Sato.
Và cũng quá muộn để sửa chữa rồi. Trước sự ngạc nhiên của Anderson, Giám đốc Sato xuất hiện ở mé bên kia Nhà Tròn, và đang tiến lại từ phía sau Langdon. Sato ngay trong toà nhà này. Anderson nín thở và chuẩn bị tinh thần xem tấn kịch sắp tới. Gã Langdon đúng là loại điếc không sợ súng.
Cái bóng lù lù của vị Giám đốc tiến lại gần hơn, điện thoại vẫn áp trên tai, đôi mắt đen như hai tia laser dính chặt vào lưng Langdon.
Langdon nắm chặt chiếc điện thoại của viên Chỉ huy cảnh sát và cảm thấy càng lúc càng thất vọng khi vị Giám đốc OS dồn ép anh.
– Tôi xin lỗi, thưa ông, – Langdon nói cộc lốc – nhưng tôi không hiểu được ý ông. Ông muốn gì ở tôi?
– Tôi muốn gì ở anh ư? – Giọng chói lói của vị Giám đốc OS vang qua chiếc điện thoại Langdon đang cầm, xóc óc và trống rỗng, như giọng một người đang hấp hối vì căn bệnh viêm họng liên cầu.
Trong khi vị Giám đốc nói, Langdon cảm thấy ai đó vỗ vào vai anh. Anh quay lại và mắt anh nhìn thẳng xuống… gương mặt của một phụ nữ Nhật Bản nhỏ thó. Bà ta có vẻ mặt dữ tợn, nước da lốm đốm, mái tóc thưa, hàm răng ám khói thuốc lá, và một vết sẹo trắng ởn dễ sợ chạy ngay qua cổ. Bàn tay xương xẩu của người phụ nữ cầm một chiếc điện thoại di động áp vào tai, và khi môi bà ta mấp máy, Langdon nghe thấy giọng nói khó chịu quen thuộc qua điện thoại di động của mình.
– Tôi muốn gì ở anh ư, thưa Giáo sư? – Bà ta bình thản gập điện thoại và đăm đăm nhìn anh – Trước hết, anh có thể thôi gọi tôi là ông được rồi.
Langdon trợn mắt nhìn, sượng trân.
– Thưa bà, tôi… xin lỗi. Tín hiệu điện thoại không tốt nên…
– Tín hiệu điện thoại rất tốt, thưa Giáo sư, – Sato gạt đi – Và tôi không đủ khoan dung để tiếp tục chịu đựng câu chuyện nhảm nhí này.
CHƯƠNG 17
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 17
Giám đốc Inoue Sato chỉ cao xấp xỉ 1m50, nhưng là mẫu người đáng sợ, dễ trở nên dữ dội. Bà ta gầy trơ xương với những đường nét góc cạnh, làn da lốm đốm như đá hoa cương thô phủ địa y (hậu quả của một chứng bệnh da liễu gọi là bạch biến). Bà mặc áo khoác xanh lam nhàu nhĩ trông chẳng khác gì cái bao tải, bên trong là chiếc áo cánh cổ mở phơi ra toàn bộ vết sẹo chạy vắt ngang cổ. Theo các đồng nghiệp, hình thức làm đẹp duy nhất mà Sato chấp nhận là cạo ria mép.
Sato cai quản Phòng An ninh của CIA đã hơn mười năm. Bà có chỉ số IQ ngoại hạng và trực giác chính xác đến ghê người, hai yếu tố đó đem lại cho bà sự tự tin khiến bất kỳ ai không làm nổi những việc tưởng chừng bất khả thi đều phải khiếp sợ. Ngay cả khi nghe chẩn đoán mình bị ung thư cổ họng giai đoạn cuối, Sato cũng không gục ngã. Cuộc chiến với căn bệnh khiến bà phải rời bỏ công việc suốt một tháng, lấy đi phân nửa cơ quan thanh quản và làm trọng lượng cơ thể bà sụt mất một phần ba, nhưng bà đã quay lại văn phòng cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xem chừng Inoue Sato là người không thể bị đánh bại.
Robert Langdon ngờ rằng có lẽ anh không phải là người đầu tiên nhầm Sato là nam giới trên điện thoại, nhưng vị Giám đốc ấy vẫn nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen đầy giận dữ.
– Một lần nữa, tôi rất xin lỗi, thưa bà, – Langdon phân bua – Tôi đang cố tìm hiểu lý do mình ở đây. Có một kẻ lừa tôi tới thủ đô tối nay. Hắn ta đang bắt giữ Peter Solomon – Anh rút từ trong áo vét của mình ra bản fax – Đây là thứ hắn gửi cho tôi lúc trước. Tôi cũng đã ghi lại số đuôi của chiếc máy bay mà hắn cử tới, có lẽ các vị nên gọi cho Cục Hàng không Liên bang và truy xem…
Sato chìa bàn tay nhỏ xíu giật lấy tờ giấy và đút tọt nó vào tôi, chẳng buồn mở ra.
– Giáo sư, tôi đang tiến hành một cuộc điều tra. Từ giờ cho tới lúc ông bằng lòng cung cấp những gì tôi muốn biết, tôi khuyến cáo ông nên im lặng, trừ phi được yêu cầu mở miệng.
Rồi bà xoay sang viên Chỉ huy trưởng.
– Chỉ huy Anderson – bà lên tiếng, bước lại thật sát và nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen nhỏ xíu – liệu anh có thể cho tôi biết đang xảy ra chuyện quái gì ở đây không? Nhân viên bảo vệ đằng cồng phía đông báo với tôi rằng các anh phát hiện thấy một bàn tay người. Đúng không?
Anderson bước tránh sang bên và trỏ cái vật đang nằm chình ình giữa sàn nhà.
– Vâng, thưa bà, chỉ mới vài phút trước.
Sato thờ ơ liếc bàn tay như thể đấy chỉ là một thứ quần áo đặt sai chỗ.
– Anh không hề đả động đến nó khi tôi gọi?
– Tôi… tôi tưởng bà biết rồi.
– Đừng nói dối tôi. – Anderson xụi lơ trước ánh mắt Sato, nhưng giọng anh vẫn rất tự tin.
– Thưa bà, tình huống hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát.
– Tôi thực sự nghi ngờ điều đó! – Sato nhận xét với vẻ tự tin không kém.
– Tổ pháp y đang trên đường tới đây. Bất kỳ kẻ nào gây ra việc này cũng sẽ để lại dấu vân tay.
Sato lộ vẻ hoài nghi.
– Tôi cho rằng một kẻ đủ khôn ngoan vượt qua trạm kiểm tra an ninh của các anh với một bàn tay người thì chắc cũng đủ thông minh để không lưu lại dấu tay nào.
Điều đó có thể đúng, nhưng tôi nắm trách nhiệm điều tra.
– Nói thật nhé, bây giờ tôi sẽ giải thoát cho anh khỏi trách nhiệm đó Tôi sẽ tiếp quản vụ việc.
Anderson cứng người.
– Đây không thuộc lãnh địa của OS thì phải?
– Rất đúng. Đây là vấn đề an ninh quốc gia.
Bàn tay của Peter… liên quan đến an ninh quốc gia cơ à?
Đầy thắc mắc, Langdon sửng sốt theo dõi cuộc đối đáp giữa hai người kia. Anh cảm thấy Sato không có chung mục tiêu cấp bách như mình là tìm kiếm Peter. Xem ra vị Giám đốc OS đang quan tâm đến một vấn đề hoàn toàn khác.
Anderson cũng lộ vẻ bối rối.
– An ninh quốc gia ư? Với tất cả lòng kính trọng, thưa bà…
– Suy cho cùng, – Sato ngắt lời – vị trí của tôi cao hơn anh. Tôi nghĩ anh nên làm đúng như tôi nói, và hãy tuân thủ mà đừng cật vấn gì.
Anderson gật đầu và nuốt khan.
– Nhưng ít nhất chúng tôi cũng cần in dấu tay để khẳng định bàn tay kia là của Peter Solomon chứ?
– Tôi xin xác nhận điều đó, – Langdon thốt lên, thấm thía một sự thật chắc chắn đến tởm lợm – Tôi nhận ra chiếc nhẫn… và bàn tay ông ấy! – Anh ngừng lại – Nhưng những hình xăm thì rất mới. Kẻ nào đó vừa xăm cho ông ấy thôi.
– Sao cơ – Lần đầu tiên kể từ lúc xuất hiện, Sato tỏ ra lúng túng – Bàn tay bị xăm ư?
Langdon gật đầu.
– Ngón cái có hình vương miện. Ngón trỏ hình ngôi sao.
Sato đeo kính lên và bước lại phía bàn tay, lượn vòng xung quanh như một con cá mập.
– Ngoài ra. – Langdon nói – mặc dù các vị không nhìn thấy ba ngón còn lại, nhưng tôi dám chắc chúng cũng có những hình xăm trên đầu ngón tay.
Sato lộ vẻ ngạc nhiên trước thông báo đó và ra dấu với Anderson.
– Chỉ huy, anh có thể xem xét mấy đầu ngón tay khác cho chúng tôi được không?
Anderson cúi xuống bên cạnh bàn tay, rất thận trọng để không chạm vào nó. Anh áp má xuống gần sát sàn nhà và ngước lên nhìn mé dưới những ngón tay bị bẻ gập.
– Ông ấy nói đúng, thưa bà. Tất cả các ngón tay đều có hình xăm, mặc dù tôi không thể nhìn rõ đó là…
– Một mặt trời, một đèn lồng và một chìa khoá, – Langdon bổ sung luôn.
Giờ thì Sato quay hẳn lại phía Langdon, đôi mắt hẹp của bà ta như đang đánh giá anh.
– Làm thế nào mà ông biết chính xác như vậy?
Langdon trợn mắt nhìn trả lại.
– Hình ảnh một bàn tay người được vẽ dấu hiệu như thế trên các đầu ngón tay là một biểu tượng rất cổ xưa. Người ta gọi nó là Mật Thủ.
Anderson đứng thẳng lên.
– Thứ này mà cũng có tên gọi à?
Langdon gật đầu.
– Nó là một trong những biểu tượng bí mật nhất của the giới cổ đại.
Sato gõ gõ lên đầu mình.
– Vậy thì tôi băn khoăn rằng nó làm quái quỷ gì ở giữa Điện Capitol chứ?
Langdon ước sao mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này.
– Theo truyền thống, thưa bà, nó được sử dụng như một lời mời.
– Một lời mời… cho cái gì? – Sato hỏi.
Langdon nhìn xuống những biểu tượng trên bàn tay đáng sợ của bạn mình.
– Trong nhiều thế kỷ. Mật Thủ được sử dụng như một lời triệu tập huyền bí. Về cơ bản, nó là một lời mời tiếp nhận tri thức bí mật, những tri thức được bảo vệ mà chỉ một vài nhân vật chủ chốt mới được biết.
Sato khoanh đôi tay gầy gò trước ngực và đăm đăm nhìn Langdon bằng cặp mắt đen láy.
– Chà, thưa Giáo sư, ông vừa cằn nhằn rằng không hiểu tại sao mình ở đây… nhưng đến giờ ông thể hiện rất tốt điều ngược lại đấy.
CHƯƠNG 18
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 18
Katherine Solomon khoác chiếc áo bờ lu trắng và bắt đầu lộ trình thường lệ của mình – “lượn vài vòng”, như anh trai cô thường nói.
Như người mẹ lo âu ghé thăm đứa con đang ngủ. Katherine thò đầu vào phòng máy. Gian buồng dùng nhiên liệu hydro đang chạy rất êm, các két sao lưu của nó đều nằm yên trên giá.
Katherine tiếp tục men theo hành lang tới phòng lưu trữ dữ liệu. Như mọi khi, hai cỗ máy đa sao lưu toàn ảnh vẫn chạy ro ro yên ổn trong khoang chứa có kiểm soát nhiệt độ. Toàn bộ công trình nghiên cứu của mình đây. Katherine nghĩ thầm, ghé mắt nhìn vào qua lớp kính siêu bền dày gần 10 cm. Khác với phiên bản cũ to bằng tủ lạnh, các thiết bị chứa dữ liệu toàn ảnh trông chỉ như thiết bị âm thanh gọn nhẹ, mỗi cái được đặt trên một bệ hình trụ.
Các ổ đọc toàn ảnh trong phòng thí nghiệm đều đồng bộ và giống hệt nhau – cùng là nguồn đĩa sao lưu để bảo vệ các bản sao công trình của Katherine. Hầu hết các phác đồ sao lưu đều chủ trương nên có một hệ thống sao chép thứ cấp ở nơi khác đề phòng trường hợp động đất hoả hoạn, hoặc bị đánh cắp, nhưng Katherine và anh trai cô nhất trí rằng giữ bí mật mới là điều tối quan trọng; một khi các dữ liệu rời khỏi toà nhà để chuyển tới máy chủ ở nơi khác thì họ không dám chắc rằng liệu chúng còn giữ được bí mật hay không.
Hài lòng vì tất cả vẫn vận hành trơn tru. Katherine quay trở lại theo lối hành lang. Khi vòng qua góc tường, cô chợt nhận ra có điều khác thường bên kia phòng thí nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ? Một quầng sáng đang chiếu rọi tất cả các thiết bị. Katherine chạy vội vào để nhìn cho rõ, lòng rất ngạc nhiên khi thấy ánh sáng phát ra từ phía sau bức tường kính Plexiglas của phòng điều khiển.
Anh ấy ở đây. Katherine lao như bay qua phòng thí nghiệm, đến cửa phòng điều khiển và đẩy bật nó ra.
– Anh Peter! – cô kêu lên và chạy bổ vào.
Người phụ nữ to béo ngồi ở bàn máy trong phòng điều khiển nhảy bật dậy.
– Ôi lạy Chúa! Chị Katherine? Chị làm em sợ hết hồn!
Trish Dunne là chuyên gia phân tích siêu hệ thống của Katherine, cũng là người duy nhất ngoài hai anh em Solomon được phép có mặt ở đây. Cô gái tóc đỏ 26 tuổi này là một thiên tài lập mô hình dữ liệu và đã khai thác được một tài liệu mật rất đáng giá của KGB. Cô rất ít khi làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần, nhưng tối nay, cô bận phân tích dữ liệu trên bức tường plasma của phòng điều khiển, bức tường này là một màn hình phẳng rất lớn trông chẳng khác gì màn hình điều khiển của NASA.
– Em xin lỗi. – Trish nói – Em không biết chị cũng ở đây. Em đang cố làm cho xong trước khi chị và anh trai chị tới.
– Cô vừa nói chuyện với Peter à? Anh ấy đến muộn và không trả lời điện thoại.
Trish lắc đầu.
– Em cá là Peter vẫn đang loay hoay với chiếc iPhone mà chị mới tặng anh ấy.
Katherine rất cảm kích sự hài hước của cô bạn đồng nghiệp, và sự có mặt của Trish làm cô nảy ra một ý tưởng.
– Nói thật thì tôi rất vui vì cô ở đây tối nay. Chưa chừng cô sẽ giúp được tôi đấy cô không phiền chứ?
– Bất cứ việc gì, em tin nó sẽ hay hơn xem đấu bóng.
Katherine hít một hơi thật sâu, cố giữ cho tâm trí bình tĩnh.
– Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào, nhưng sớm hôm nay, tôi đã nghe được một câu chuyện rất bất thường…
Trish Dunne không đoán nổi Katherine Solomon đã nghe được chuyện gì, nhưng rõ ràng câu chuyện đó khiến chị ấy không vui. Đôi mắt xám vốn luôn điềm tĩnh nay lại lộ vẻ lo âu, và chị đã phải vén tóc ra sau tai ba lần kể từ lúc bước vào phòng – một “dấu hiệu” chứng tỏ chị ấy đang bối rối, như Trish thường nói. Một nhà khoa học xuất chúng, nhưng không biết che giấu cảm xúc của mình.
– Với tôi, – Katherine nói – câu chuyện này rất hoang đường… như một chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng… – Cô ngừng lời, lại đưa tay gạt một lọn tóc ra phía sau tai.
– Nhưng sao ạ?
Katherine thở dài.
– Nhưng hôm nay, một nguồn tin rất đáng tin cậy đã cho tôi biết rằng chuyện cổ tích đó là có thật.
– Ồ… Chị ấy muốn dẫn câu chuyện đến đâu đây?
– Tôi định trao đổi với Peter, nhưng tôi sực nghĩ, biết đâu cô sẽ giúp tôi nảy ra ý tưởng nào đó trước khi tôi hỏi anh ấy. Tôi rất muốn biết liệu câu chuyện cổ tích này đã bao giờ được chứng thực trong lịch sử chưa.
– Trong lịch sử ư?
Katherine gật đầu.
– Ở đâu đó trên thế giới, bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, vào một thời điểm nào đó trong lịch sử.
Kỳ quặc quá, Trish thầm nghĩ, những rất có khả năng. Mười năm trước, điều này là không tưởng. Nhưng ngày nay, với Internet, với mạng toàn cầu, và với quá trình số hoá những thư viện và bảo tàng lớn trên thế giới, mục tiêu của Katherine có thể thực hiện được bằng cách sử dụng một cơ chế tìm kiếm tương đối đơn giản có trang bị một loạt mô đun dịch thuật và vài ba từ khoá được lựa chọn kỹ.
– Không thành vấn đề – Trish nói. Nhiều cuốn sách nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có chứa những đoạn ngôn ngữ cổ xưa, khi ấy Trish phải viết nhiều mô đun dịch thuật Nhận dạng ký tự quang học (OCR) chuyên dụng để tạo văn bản tiếng Anh từ các ngôn ngữ khó hiểu. Chắc chắn cô là chuyên gia siêu hệ thống duy nhất trên thế giới lập được các mô đun dịch thuật OCR bằng tiếng Frisian(32) cổ, tiếng Maek(33) và tiếng Akkadian(34).
Các mô đun rất có tác dụng, nhưng bí quyết xây dựng một cơ chế tìm kiếm kiểu nhện hiệu quả lại phụ thuộc vào việc lựa chọn các từ khoá đúng, độc đáo nhưng không hạn chế quá mức.
Trong lúc Trish suy nghĩ, Katherine đã ghi nhanh những từ khoá thích hợp ra một băng giấy. Viết được vài từ, cô dừng lại, nghĩ ngợi và tiếp tục thêm vài từ nữa.
– Được rồi đấy, – cuối cùng cô nói và đưa băng giấy cho Trish.
Trish đọc lướt danh sách các chuỗi tìm kiếm, và mở to mắt.
Katherine đang điều tra loại cổ tích quái quỷ gì đây?
– Chị muốn em tìm kiếm tất cả các cụm từ khoá này à? – Có một từ Trish còn không nhận ra. Liệu đây có phải là tiếng Anh không? – Chị cho rằng chúng ta sẽ tìm được những từ này ở cùng một chỗ à? Chính xác cả cụm ấy?
– Cứ thử đi.
Trish định nói không thể (impossible) nhưng ở đây, những từ bắt đầu bằng chữ cái I bị cấm. Katherine coi đó là vật cản tư duy rất nguy hiểm trong một lĩnh vực thường biến những định kiến sai lầm thành hiện thực được khẳng định. Trish Dunne thật sự ngại rằng việc tìm kiếm các cụm từ khoá này sẽ rơi vào phạm trù đó.
– Mất bao lâu để có kết quả? – Katherine hỏi.
– Vài phút để viết con nhện và cho nó hoạt động. Sau đó, có lẽ mất 15 phút để nó vận hành hết hiệu suất.
– Nhanh thế à? – Katherine phấn khởi.
Trish gật đầu. Các cơ chế tìm kiếm truyền thống thường cần trọn một ngày để lướt qua toàn bộ không gian trực tuyến, tìm kiếm các văn bản mới, phân tích nội dung của chúng và cho nó vào cơ sở dữ liệu thu thập được. Nhưng Trish không viết loại nhện đó.
– Em sẽ viết một chương trình gọi là người uỷ thác, – Trish giải thích – Không hợp pháp lắm, nhưng nó rất nhanh. Thực chất đó là một chương trình ra lệnh cho các cơ chế tìm kiếm của người khác làm việc thay ình. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều có chức năng tìm kiếm tích hợp trong, chẳng hạn thư viện, bảo tàng, các trường đại học, chính phủ. Cho nên em sẽ viết một con nhện chuyên dò ra cơ chế tìm kiếm của người ta, nhập các từ khoá của chị, và yêu cầu các cơ chế ấy hoạt động. Bằng cách này, chúng ta khai thác được sức mạnh của hàng nghìn cơ chế, làm việc thống nhất.
Katherine có vẻ rất ấn tượng.
– Xử lý song song.
Một loại siêu hệ thống.
– Em sẽ gọi chị nếu em phát hiện thấy gì đó.
– Rất cảm ơn cô. Trish – Katherine vỗ nhẹ vào lưng cô gái và đi ra phía cửa – Tôi sẽ ở bên thư viện.
Trish tập trung viết chương trình. Lập trình một con nhện tìm kiếm là nhiệm vụ quá ư tầm thường so với trình độ năng lực của cô, nhưng Trish Dunne không bận tâm. Cô sẵn sàng làm bất kỳ việc gì cho Katherine Solomon. Có lúc, Trish vẫn không tin nổi số phận may mắn lại đưa cô đến nơi này.
Cưng đã đi được một chặng đường dài, cưng nhỉ!
Chỉ mới hơn một năm trước, Trish bỏ công việc của một chuyên gia phân tích siêu hệ thống tại một trong vô vàn công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Lúc rỗi rãi, cô nhận lập trình ột số nơi và bắt đầu mở một blog chuyên ngành mang tên “Những ứng dụng trong phân tích siêu hệ thống máy tính” mặc dù cô nghĩ chẳng ai thèm đọc nó. Rồi một buổi tối, điện thoại của cô đổ chuông.
– Cô Trish Dunne phải không? – một giọng phụ nữ nhã nhặn hỏi thăm.
– Vâng, xin hỏi ai gọi thế ạ?
– Tôi là Katherine Solomon.
Trish gần như ngất xỉu tại chỗ. Katherine Solomon à?
– Tôi vừa đọc cuốn sách của chị, cuốn Lý trí học. Cánh cổng hiện đại đi tới tri thức cổ xưa, và tôi đã viết về cuốn đó trên blog của mình!
– Phải, tôi có biết, – người phụ nữ trả lời rất nhã nhặn – Và đó là lý do tôi gọi cho cô.
– Dĩ nhiên là thế. Trish nhận ra như vậy, cảm thấy chẳng biết nói sao.
Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc cũng phải sử dụng Google.
– Blog của cô khiến tôi rất thích, – Katherine nói tiếp – Tôi không ngờ rằng kỹ thuật lập mô hình siêu hệ thống lại tiến xa đến vậy.
– Vâng, – Trish hồ hởi, với tâm trạng rất muốn được người khác biết đến – Mô hình dữ liệu là một công nghệ đang bùng nổ với những ứng dụng rất rộng lớn.
Hai người phụ nữ dành vài phút nói chuyện phiếm về công việc của Trish trong ngành siêu hệ thống, kinh nghiệm của cô trong việc phân tích, lập mô hình và dự đoán xu hướng của các trường dữ liệu lớn.
– Nói thực cuốn sách của chị rất cao siêu so với tôi. – Trish nói – nhưng tôi cũng đủ khả năng hiểu nó để thấy có sự giao thoa với công trình siêu hệ thống của tôi.
– Trên blog, cô nói rằng cô tin ngành lập mô hình siêu hệ thống có khả năng biến cải những nghiên cứu của lý trí học, phải không?
– Chắc chắn là như vậy. Tôi tin siêu hệ thống sẽ biến Lý trí học thành một môn khoa học thật sự.
– Khoa học thật sự à? – Giọng Katherine hơi đanh lại – Thế hiện giờ nó không phải…?
Ôi thôi hớ rồi.
– Ừm, ý tôi là Lý trí học có vẻ… huyền bí hơn.
Katherine cười.
– Không sao đâu, tôi đùa thôi. Tôi nghe nói điều đó luôn ấy mà!
Cũng phải. Trish nghĩ bụng. Thậm chí Viện Lý trí học ở California cũng mô tả lĩnh vực này bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu và bí ẩn, xem nó như ngành nghiên cứu về “sự tiếp cận tức thời và trực tiếp của con người đối với những kiến thức vượt xa sức mạnh lý trí và độ cảm nhận của các giác quan bình thường”.
Trish được biết rằng từ lý trí xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ – nếu dịch thô là “kiến thức bên trong” hoặc “ý thức trực giác”.
– Tôi rất quan tâm đến công trình siêu hệ thống của cô, – Katherine nói – và muốn xem nó liên hệ ra sao với dự án tôi đang tiến hành. Cô có sẵn lòng gặp tôi không? Tôi rất muốn được thử bộ não của cô.
Katherme Solomon muốn thử bộ não của mình ư? Chẳng khác gì bảo Maria Sharapova đi hỏi thủ thuật chơi tennis.
Ngày hôm sau, một chiếc Volvo trắng tiến vào sân nhà Trish và một người phụ nữ yểu điệu duyên dáng trong bộ đồ bò màu xanh bước ra. Trish lập tức cảm thấy mình thật hèn kém. Trời ạ, cô lẩm bẩm. Thông miinh, giàu có, mảnh mai – và chắc mình phải tin là Chúa rất lòng lành mất? Nhưng phong thái khiêm nhường của Katherine khiến Trish cảm thấy thoải mái ngay.
Hai người ngồi ở hiên sau khá rộng rãi của Trish, nhìn xuống một khuôn viên khang trang.
– Nhà cô rất đẹp, – Katherine nhận xét.
– Cảm ơn chị. Tôi gặp may khi còn học đại học, bán được bản quyền một số phần mềm do tôi viết.
– Vẫn về siêu hệ thống chứ?
– Một dạng tiền thân của siêu hệ thống. Sau vụ 11-9, chính phủ chặn và xâm nhập các trường dữ liệu lớn như thư điện tử dân sự, điện thoại di động, fax, văn bản, website để tìm kiếm các từ khoá liên quan đến những giao dịch liên lạc có tính khủng bố. Vì thế tôi viết một phần mềm cho phép họ nắm giữ trường dữ liệu theo hình thức thứ cấp khai thác từ đó một sản phẩm tình báo bổ sung – Cô mỉm cười – Điều quan trọng là phần mềm của tôi cho phép họ đo được thân nhiệt của nước Mỹ.
– Tôi không hiểu lắm?
Trish bật cười.
– A nghe hơi kỳ cục, tôi biết. Y tôi định nói là nó định lượng trạng thái tình cảm của cả nước. Nó cung cấp một loại phong vũ biểu đo ý thức chung – Trish tiếp tục giải thích việc một người có thể đánh giá được tâm trang của đất nước như thế nào bằng cách sử dụng một trường dữ liệu về thông tin liên lạc của cả nước dựa trên “mật độ xuất hiện” một số từ khoá và chỉ số tình cảm nhất định trong trường dữ liệu ấy Những thời điểm vui vẻ sẽ có ngôn ngữ vui vẻ hơn, và những thời điểm căng thẳng thì ngược lại. Chẳng hạn, trong tình huống xảy ra một vụ tấn công khủng bố, chính phủ có thể sử dụng các trường dữ liệu để đo sự thay đổi trong tâm lý nước Mỹ và đưa ra lời khuyên tốt hơn cho Tổng thống về tác động tình cảm của sự kiện ấy.
– Rất lý thú, – Katherine nhận xét, tay xoa cằm – Và cô đang tiến hành kiểm nghiệm một nhóm các cá nhân… như là một chủ thể đơn nhất.
– Chính xác. Một siêu hệ thống. Một chủ thể đơn nhất được xác định bởi số lượng hợp phần của nó. Chẳng hạn, cơ thể người gồm hàng triệu tế bào riêng lẻ, mỗi tế bào có những thuộc tính và mục đích khác nhau, nhưng có chức năng như một chủ thể đơn nhất.
Katherine hào hứng gật đầu.
– Như một đàn chim hoặc đàn cá. Chúng tôi gọi đó là hội tự hoặc ràng buộc.
Trish cảm thấy vị khách nổi tiếng này bắt đầu nhìn thấy tiềm năng ứng dụng kỹ thuật lập trình siêu hệ thống vào lĩnh vực Lý trí học của mình.
– Phần mềm của tôi, – Trish giải thích – được thiết kế để giúp các cơ quan chính phủ đánh giá tốt hơn và phản ứng phù hợp với những cuộc khủng hoảng quy mô lớn như dịch bệnh, các thảm hoạ quốc gia, khủng bố, đại loại thế – Cô ngừng lại – Dĩ nhiên, luôn có khả năng sử dụng nó theo những hướng khác… chẳng hạn là nắm bắt nhanh trạng thái tâm lý quốc gia và dự đoán kết quả một cuộc bầu cử hoặc xu hướng vận động của thị trường chứng khoán vào thời điểm mở cửa.
– Tuyệt vời!
Trish ra hiệu về phía ngôi nhà rộng rãi của mình.
– Chính phủ cũng nghĩ vậy.
Giờ thì đôi mắt xám của Katherine tập trung hết vào cô.
– Trish, cho tôi hỏi về vấn đề đạo đức do công trình của cô đặt ra nhé?
– Ý chị là gì?
– Ý tôi là phần mềm của cô rất dễ bị lợi dụng. Kẻ sở hữu nó sẽ tiếp cận được với những thông tin rất quan trọng không phải ai cũng biết. Cô không cảm thấy do dự khi tạo ra nó ư?
Trish không hề chớp mắt.
– Hoàn toàn không. Phần mềm của tôi không khác gì hơn là… một chương trình mô hình tập bay trong ngành hàng không. Một số người sử dụng sẽ thực hành bay cho các nhiệm vụ cứu trợ tới các nước chậm phát triển. Một số người lại sử dụng để tập điều khiển máy bay chở khách lao vào các toà cao ốc. Kiến thức là một công cụ, và như tất cả các công cụ, tác động của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng.
Katherine ngả người ra sau, vẻ rất ấn tượng.
Vậy cho phép tôi hỏi cô một câu hỏi giả định.
Trish đột nhiên cảm thấy cuộc trò chuyện của họ chuyển thành một buổi phỏng vấn tuyển dụng.
Katherine cúi xuống và nhặt một hạt cát nhỏ xíu dưới bàn và giơ lên cho Trish nhìn.
– Theo tôi hiểu, – cô nói – công trình siêu hệ thống ấy giúp cô tính toán được trọng lượng của cả một bãi biển toàn cát… bằng cách cân một hạt cát.
– Vâng, về cơ bản đúng như vậy.
– Cô biết đấy, hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.
Trish gật đầu.
– Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên, cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có.
– Vâng.
– Vậy thì, – Katherine nói, – nếu chúng ta có hàng nghìn tỉ hạt cát thế này và để chúng hấp dẫn nhau nhằm tạo nên… ví dụ mặt trăng đi thì trọng lực kết hợp của chúng đủ để dịch chuyển toàn bộ các đại dương và tạo ra thuỷ triều lên xuống trên hành tinh chúng ta.
Trish không hiểu rõ câu chuyện sẽ đi đến đâu, nhưng cô thấy thích thú với những điều mình đang nghe.
– Giờ chúng ta cùng giả định nhé? – Katherine nói, tay phủi hạt cát đi -Nếu tôi bảo cô rằng một suy nghĩ… tức là bất kỳ ý tưởng nhỏ nhoi nào hình thành trong tâm trí chúng ta… trên thực tế cũng có khối lượng thì sao nào? Nếu một suy nghĩ là một vật chất thật sự, một thực thể đo đếm được, với một khối lượng đo đếm được thì sẽ sao? Dĩ nhiên, đó là một khối lượng vô cùng nhỏ, nhưng vẫn cứ là khối lượng. Vậy hàm ẩn ở đây là gì?
– Nói một cách giả định ư? Chà, hàm ẩn rõ nét là… nếu một suy nghĩ cũng có khối lượng thì nó sẽ có trọng lực và có thể hút mọi vật về phía nó.
Katherine mỉm cười.
– Cô cừ lắm. Giờ ta tiến thêm một bước nhé. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhiều người cùng tập trung vào một suy nghĩ giống nhau? Tất cả những điều nảy ra từ những suy nghĩ đó sẽ hợp nhất lại, và khối lượng luỹ tích của suy nghĩ này bắt đầu tăng lên. Bởi vậy, trọng lực của nó cũng tăng lên.
– Đúng.
– Nghĩa là… nếu có đủ số người cùng nghĩ về một điều thì lực hấp dẫn của suy nghĩ đó trở nên hữu hình… tạo ra một lực thực sự – Katherine nháy mắt – Và có thể gây ra một ảnh hưởng đo đếm được lên thế giới vật chất của chúng ta đấy.
Chú thích:
(32) Tiếng Frisan là một nhóm ngôn ngữ tương đối gần gũi với tiếng Đức – ND.
(33) Tiếng Maek là một phương ngữ có thể đã mất, từng được sử dụng ở bán đảo Triều Tiên – ND.
(34) Akkadian là một ngôn ngữ đã mất, từng được sử dụng ở Lưỡng Hà cổ đại. Nó sử dụng hệ chữ viết hình nêm của người Sumer cổ đại. Tên gọi của ngôn ngữ này xuất phát từ tên thành phố Akkad, một trung tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà – ND.