Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol)

Chương 46 - 48


Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 46 – 48

CHƯƠNG 46
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 46
Chương 46
Mặc dù sở hữu “không gian đẹp nhất thế giới”, như nhiều người thường nói, nhưng Thư viện Quốc hội lại được biết đến nhờ bộ sưu tập sách đồ sộ hơn là nhờ kiến trúc tráng lệ mê hồn. Với những giá sách kéo dài đến hơn 500 dặm – một khoảng cách tương đương từ Washington D.C. đến Boston – nó dễ dàng giành được danh hiệu thư viện lớn nhất thế giới, và vẫn đang tiếp tục mở rộng với tốc độ hơn 10.000 đầu mục sách mỗi ngày.
Thư viện Quốc hội là nơi cất giữ bộ sưu tập cá nhân sách khoa học và triết học của Thomas Jefferson, giờ đây nó đã trở thành biểu tượng cho lời cam kết của nước Mỹ về sự nghiệp phổ biến tri thức. Là một trong những toà nhà đầu tiên ở Washington được mắc điện, thư viện thực sự toả sáng như ngọn đèn hiện trong bóng u minh ở Tân Thế giới.
Đúng như tên gọi của nó, Thư viện Quốc hội được thành lập để phục vụ các nghị sĩ đáng kính làm việc trong Điện Capitol ngay bên kia đường. Mối liên hệ lâu đời giữa thư viện và Điện Capitol gần đây lại được củng cố thêm nhờ việc xây dựng một cầu nối hữu hình – một đường hầm dài ngay bên dưới Đại lộ Độc Lập, nối liền hai toà nhà.
Đêm nay, trong đường hầm tăm tối này, Robert Langdon theo Warren Bellamy băng qua khu vực đang xây dựng dở, cố gắng chế ngự tâm trạng lo lắng mỗi lúc một tăng về Katherine. Gã điên đang ở phòng thí nghiệm của chị ấy! Langdon thậm chí còn không muốn hình dung xem vì sao lại như vậy. Khi gọi đến để cảnh báo, Langdon đã cho Katherine biết chính xác địa điểm để cô tới gặp anh. Cái đường hầm quái quỷ này còn kéo dài bao xa nữa đây? Đầu anh đau như búa bổ vì những ý nghĩa chồng chéo, đan xen quay cuồng: Katherine, Peter, Hội Tam điểm. Bellamy, kim tự tháp, lời tiên tri cổ xưa và một tấm bản đồ.
Langdon lắc đầu, cố xua đuổi những ý nghĩ ấy và rảo bước đi tới.
Bellamy đã hứa sẽ giải đáp ình.
Tới đầu bên kia của đường hầm, Bellamy dẫn Langdon đi qua một dãy cửa hai cánh vẫn đang trong quá trình xây dựng. Chưa thể khoá được cửa, Bellamy đành ứng biến bằng cách lấy một chiếc thang nhôm trong đống dụng cụ xây dựng, dựa hờ nó vào mé ngoài cánh cửa. Sau đó, ông đặt một cái xô bằng kim loại lên đỉnh thang. Nếu có ai mở cửa, cái xô sẽ rơi loảng xoảng xuống sàn.
Hệ thống báo động đây hả? Langdon ngó cái xô đặt chênh vênh, hy vọng Bellamy có một kế hoạch toàn diện hơn để bảo đảm an toàn cho họ tối nay. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tới lúc này Langdon mới bắt đầu xem xét hậu quả của việc tẩu thoát. Mình là một kẻ đang trốn chạy CIA.
Bellamy đi trước quành qua một góc tường, từ đây họ bắt đầu leo lên một cầu thang rộng rãi nằm giữa hai hàng cột màu cam. Cái túi da kéo trĩu vai Langdon theo từng bước tiến.
– Về kim tự tháp đá, – anh đánh tiếng – tôi vẫn chưa hiểu…
– Không phải ở đây, – Bellamy ngắt lời – Chúng ta sẽ xem xét nó ở chỗ sáng. Tôi biết một nơi an toàn.
Langdon băn khoăn, liệu có nơi nào đủ an toàn cho kẻ vừa đánh trọng thương Giám đốc Phòng An ninh của CIA hay không.
Lên hết cầu thang, hai người bước vào một hành lang rộng xây bằng đá cẩm thạch Italia, vữa trang trí và vàng lá. Đại sảnh có tám cặp tượng dàn thành hai hàng, tất cả đều là tượng nữ thần Minerva. Bellamy vẫn rảo bước, dẫn Langdon đi về phía đông, qua một cửa vòm để tiến vào một không gian rộng lớn hơn nhiều.
Dù đèn đóm chỉ còn lờ mờ do đã hết giờ làm việc, đại sảnh thư viện vẫn hiện lên rực rỡ trong dáng vóc cổ điển của một toà dinh thự sang trọng kiểu châu u. Ở độ cao 22 mét, những ô cửa sổ lắp kính màu lấp lánh giữa viền khung thếp nhôm lá hiếm – thứ kim loại có thời còn quý hơn vàng. Đỡ bên dưới là một dãy cột đôi sừng sững chạy dọc ban công tầng hai, dẫn đến hai cầu thang xoắn rất lộng lẫy, mỗi chấn song lại đỡ một bức tượng thiếu nữ bằng đồng đang giơ cao ngọn đuốc khai sáng.
Vừa cố gắng thể hiện chủ đề khai tâm thời hiện đại vừa nỗ lực bảo lưu phong cách kiến trúc trang trí thời Phục hưng, các lan can đều chạm hình thiên sứ kháu khỉnh, dáng dấp tựa thần ái tình nhưng tư thế lại mô phỏng khoa học gia, chẳng hạn kỹ sư điện thiên thần cầm điện thoại hoặc nhà côn trùng học ngây thơ bưng mẫu vật… Langdon tự hỏi không biết Bernini(61) sẽ nghĩ gì khi trông thấy cảnh này.
– Chúng ta lại đằng kia nói chuyện – Bellamy gọi, dẫn Langdon đi qua dãy tủ trưng bày lắp kính chống đạn, bên trong chứa hai cuốn sách quý nhất của thư viện: cuốn Đại Kinh thánh Mainz, bản viết tay năm 1450, và bản sao cuốn Kinh thánh Gutenberg của Mỹ, một trong ba bản sao bằng da cừu hoàn hảo nhất the giới. Thật thích hợp là phần vòm trần phía trên thể hiện bức vẽ sáu mảnh nhan đề Lịch sử tiến hoá Sách của John White Alexander.
Bellamy bước thẳng tới hai ô cửa cánh đôi rất trang nhã trổ chính giữa mặt sau bức tường hành lang phía đông. Langdon biết rõ loại phòng nằm sau mấy cánh cửa ấy, nhưng chọn nơi này để trao đổi thì quả có hơi lạ lùng. Thật hài hước vì họ sẽ nói chuyện trong một không gian đầy những tấm biển “Giữ im lặng”, chưa kể đó còn là một nơi rất thiếu an toàn. Nằm chính giữa mặt bằng hình thập giá của thư viện, căn phòng này chẳng khác gì trung tâm toà nhà. Ẩn mình ở đây cũng tương tự đột nhập vào một thánh đường và núp sau bàn thờ.
Vậy mà Bellamy vẫn mở khoá cửa. Ông bước vào khoảng tối rồi lần mò tìm đèn điện. Công tắc vừa bật lên, một trong những kiệt tác kiến trúc vĩ đại của nước Mỹ thình lình hiện ra.
Phòng đọc sách nổi tiếng này thực sự thoả mãn mọi giác quan. Đây là một không gian hình bát giác đồ sộ với chóp đỉnh chạm tới độ cao 48 mét, tám cạnh đều “ốp đá cẩm thạch, nào là Tenessee màu nâu sô-cô-la, Siena màu kem, rồi Algeria màu táo đỏ. Vì được chiếu sáng từ cả tám góc nên bóng tối không có nơi hiện hữu, tạo cảm giác rằng gian phòng tự phát quang.
– Có người nhận xét đây là gian phòng ấn tượng nhất Washington, – Bellamy lên tiếng, giục Langdon bước vào.
Có khi nhất thế giới ấy, Langdon nghĩ thầm và đưa chân qua ngưỡng cửa. Như thường lệ, trước tiên ánh mắt anh lướt ngược lên dọc thân cột trung tâm, tới chỗ những ô trần lõm uốn cong theo mái vòm xuống một ban công tầng trên. Tại đây, mười sáu pho tượng “chân dung” bằng đồng đứng quây tròn theo viền phòng, đăm đăm nhìn xuống. Phía dưới cũng là một ban công, do dãy cong tò vò tạo thành. Ở phần sàn, những chiếc bàn gỗ láng bóng xếp thành ba đường tròn đồng tâm, toả ra quanh một chiếc bục bát giác rất lớn.
Bellamy đẩy mạnh cho hai cánh cửa phòng mở rộng hơn. Langdon chuyển sự chú ý sang ông, anh thắc mắc.
– Chúng ta đang lẩn trốn cơ mà.
– Tôi muốn phát hiện động tĩnh nếu chẳng may có ai vào toà nhà – Bellamy nói.

– Nhưng họ sẽ mau chóng tìm thấy chúng ta ở đây thôi.
– Nhất định họ sẽ tìm thấy, dù chúng ta trốn ở đâu. Nhưng nếu bị bao vây, anh sẽ lấy làm mừng vì tôi đã chọn căn phòng này.
Langdon chưa hiểu vì sao, nhưng rõ ràng Bellamy không định thảo luận tiếp. Ông tiến thẳng vào giữa phòng, chọn một trong những chiếc bàn đặt sẵn ở đó, kéo hai chiếc ghế lại, bật đèn bàn lên và trỏ cái túi của Langdon.
– Được rồi, Giáo sư, chúng ta cùng xem xét kỹ hơn nào.
Không muốn mạo hiểm để khối đá hoa cương thô cứng làm xước mặt gỗ nhẵn bóng, Langdon đặt cả túi lên bàn, mở khoá và gấp hết mép túi xuống cho lộ cái kim tự tháp bên trong ra. Warren Bellamy chỉnh lại đèn và cẩn thận xem xét kim tự tháp. Ông rờ tay lên những dòng chữ khắc dị thường.
– Tôi đồ rằng anh nhận ra thứ ngôn ngữ này chứ? – Bellamy hỏi.
– Dĩ nhiên rồi, – Langdon đáp, mắt nhìn mười sáu ký tự.
Thứ ngôn ngữ mã hoá, thường được gọi là Mật mã Tam điểm này, là phương tiện liên lạc riêng giữa các huynh đệ Tam điểm thời kỳ đầu. Sau này họ không dùng phương pháp mã hoá ấy nữa, vì một lý do hết sức đơn giản là quá dễ phá giải. Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của Langdon đều có thể giải loại mật mã này trong vòng năm phút. Còn chính anh thì chưa cần đến 60 giây, chỉ với cây bút chì và tờ giấy.
Xét từ đặc tính dễ giải nổi tiếng của loại mật mã đã có lịch sử hàng trăm năm này, câu chuyện tối nay bộc lộ vài điều phi lý. Thứ nhất, thật ngớ ngẩn nếu cho rằng Langdon là người duy nhất trên Trái đất hoá giải được nó. Thứ hai, bảo mật mã Tam điểm là vấn đề an ninh quốc gia (như lời Sato) chẳng khác nào bảo mật mã phóng tên lửa hạt nhân được khoá bằng chiếc khuyên giải mã trong gói bim bim Cracker Jack(62). Langdon vẫn nghi hoặc về hai điểm trên. Kim tự tháp là một bản đồ? Nó sẽ chỉ đường tới kho tri thức đã thất truyền của mọi thời đại?
– Robert, – Bellamy lên tiếng, giọng nghiêm trang – Giám đốc Sato đã cho anh biết lý do vì sao bà ta quan tâm đến vụ này phải không?
Langdon lắc đầu.
– Không cụ thể. Sato chỉ nói đây là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi ngờ bà ta nói dối.
– Có lẽ thế, – Bellamy nói và xoa xoa gáy, vẻ đang băn khoăn điều gì. – Nhưng còn một khả năng đáng ngại hơn thế – ông quay sang nhìn Langdon – Chưa chừng Giám đốc Sato đã phát hiện ra tiềm năng thật sự của kim tự tháp này.
Chú thích:
(61) Gian Lorenzo Bernini (1598 -1680) là một nghệ sĩ Italia làm việc tại Rome trong thế kỷ XVII. Ông là nhà điêu khắc trường phái Cổ điển hàng đầu của thời đại mình và cũng là một Kiến trúc sư nổi tiếng. Ngoài ra, ông cũng vẽ, viết kịch và thiết kế sân khấu – ND.
(62) Bộ giải mã bí mật, dưới dạng phù hiệu hoặc cái khuyên, là một trò chơi rất phổ biến cho trẻ em từ những năm 1930 và trong suốt thế kỷ XX. Nó thường được đặt trong các hộp ngũ cốc và bim bim, chẳng hạn của hãng Cracker Jack, làm phần thưởng. Đây là một cách khá lý thú để phát huy trí tưởng tượng của trẻ em rằng chúng có những loại mật mã dùng để gửi các thông điệp bí mật cho nhau – ND.
CHƯƠNG 47
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 47
Bóng tối vây kín quanh Katherine Solomon.
Tách xa khỏi vùng an toàn quen thuộc của lớp thảm, cô chỉ còn nước dò dẫm bước, loạng choạng đi sâu vào khoảng không trống trải, tay vươn thẳng không nơi bấu víu. Dưới hai bàn chân đi tất của Katherine là nền xi măng lạnh giá vô tận như hồ nước đóng băng… một môi trường hung hiểm mà giờ đây cô cần phải thoát ra.
Không còn ngửi thấy mùi ethanol nữa, Katherine dừng bước và chờ đợi trong bóng tối. Cô đứng bất động, nghiêng tai lắng nghe, chỉ mong sao tim mình đừng đập mạnh như vậy. Những bước chân nặng trịch phía sau cô dường như đã dừng lại. Mình thoát được hắn rồi ư?
Katherine nhắm mắt, cố hình dung vị trí đang đứng. Mình đã chạy theo hướng nào? Cửa ở đâu? Vô ích. Cô đã chạy lòng vòng nên giờ lối ra có thể ở bất kỳ chỗ nào.
Katherine từng nghe nói nỗi sợ hãi chính là chất kích thích làm trí não suy nghĩ thêm sắc bén. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi hiện thời khiến tâm trí cô quay cuồng vì hoảng loạn và bối rối. Cho dù tìm được cửa thì mình cũng không thể ra ngoài. Tấm thẻ đã bị mất khi cô thoát khỏi chiếc áo choàng. Hy vọng duy nhất của cô là lúc này là gã sẽ không tên được cô Mặc dù rất muốn chạy trốn, nhưng trí não quen phân tích của Katherine mách bảo cô hành động hợp lý nhất là không di chuyển đi đâu hết. Cứ ở yên một chỗ. Dừng gây ra tiếng động. Bảo vệ đang trên đường tới, và vì một lý do không rõ nào đó, kẻ tấn công cô toả ra mùi ethanol rất mạnh. Nếu hắn đến gần, mình sẽ phát hiện ra.
Đứng yên lặng giữa bóng tối, Katherine điểm lại trong trí những lời Langdon nói. Anh trai chị… bị bắt cóc. Cô cảm thấy giọt mồ hôi lạnh ngắt rơi xuống cánh tay và chảy xuôi xuống chiếc điện thoại di động vẫn nằm gọn nơi bàn tay phải. Cô quên bẵng mối nguy này.
– Nếu điện thoại đổ chuông, nó sẽ chỉ ra vị trí của Katherine, và cô không thể tắt được nó mà không mở ra và làm màn hình sáng lên.
Đặt điện thoại xuống… tránh xa khỏi nó.
Nhưng đã quá muộn. Từ bên phải, mùi ethanol đang lan dần lại phía cô, mỗi lúc một nồng hơn. Katherine gắng trấn tĩnh, cố chế ngự bản năng muốn bỏ chạy. Rất cẩn thận, rất chậm rãi, cô bước một bước sang trái. Tiếng quần áo sột soạt khe khẽ chính là điều mà kẻ tấn công đang cần. Cô nghe rõ hắn chồm lại, mùi ethanol ào tới khi một bàn tay tóm lấy vai cô. Katherine xoay người đi, vô cùng khiếp hãi.

Xác suất toán học hoá ra vô ích, cô bung người chạy quáng quàng. Cô nhớn nhác lao sang trái, đổi hướng, chạy nháo nhào trong khoảng không vô định.
Tường nhà đột ngột xuất hiện.
Katherine va mạnh vào tường, tay và vai đau buốt, nhưng cô vẫn cố đứng vững. Nhờ đụng phải góc vát của bức tường nên lực va chạm có giảm bớt, nhưng cũng không dễ chịu mấy. Tiếng động vang vọng khắp nơi. Hắn biết mình ở chỗ nào. Quên cả đau. Katherine ngoảnh đầu và nhìn xoáy vào khoảng tối và cảm nhận rõ gã kia đang trừng trừng nhìn lại.
Đổi vi trí ngay thôi! Vừa cố điều hoà hơi thở, Katherine vừa nhích xuôi theo bức tường, dùng tay trái lần từng cái núm thép trên đường di chuyển. Cứ theo sát bức tường. Luồn qua hắn trước khi hắn dồn được mình. Katherine vẫn nắm chặt chiếc điện thoại di động trong tay phải, sẵn sàng dùng nó để ném nếu cần thiết.
Đột ngột, có tiếng sột soạt rất rõ của quần áo cọ vào tường ngay phía trước, Katherine hoàn toàn bất ngờ, cô cứng người, và nín thở.
Làm sao mà hắn áp sát được tường thế? Một luồng không khí thoáng qua, mang theo mùi ethanol tanh tưởi. Hắn đang di chuyển dọc theo tường về phía mình!
Katherine lùi lại vài bước. Sau đó, lặng lẽ xoay 180 độ, cô bắt đầu di chuyển thật nhanh theo hướng ngược lại men theo tường. Cô di chuyển được khoảng sáu mét thì một điều bất ngờ lại xảy ra. Lại một lần nữa, ngay trước mặt cô, sát tường, có tiếng sột soạt của quần áo.
Tiếp đến là một luồng không khí quạt đến như lúc nãy, mang theo mùi ethanol. Katherine Solomon cứng đờ tại chỗ.
Chúa ơi, hắn khắp mọi nơi!
***
Cởi trần trùng trục, Mal’akh nhìn xoáy vào bóng tối.
Mùi ethanol trên tay áo dễ khiến gã bị phát hiện, gã bèn biến nó thành một thứ hữu dụng bằng cách cởi áo sơ mi và áo khoác rồi dùng chúng để dồn ép con mồi của mình. Ném chiếc áo khoác vào tường phía bên phải, gã nghe thấy tiếng Katherine dừng lại và đổi hướng.
Lúc này, vừa ném xong chiếc áo sơ mi sang phía trái, Mal’akh lại nghe thấy Katherine dừng lại. Gã đã dồn được cô vào sát tường bằng cách tạo ra những ranh giới mà cô không dám vượt qua.
Giờ thì gã chờ đợi, tai căng ra trong im lặng. Mụ chỉ còn một hướng để đi thôi – đó là tiến thẳng về phía ta. Thế nhưng, Mal’akh vẫn chẳng nghe thấy gì cả. Katherine đã sợ đến mức tê liệt chăng, hay cô đã quyết định đứng yên và đợi cứu viện vào Khoang 5. Dù thế nào thì mụ cũng thua cuộc thôi. Sẽ chẳng kẻ nào vào được Khoang 5 nhanh chóng cả, Mal’akh đã vô hiệu hoá ổ khoá ngoài bằng một kỹ thuật rất thô sơ nhưng lại hiệu quả. Dùng xong thẻ của Trish, gã nhét một đồng xu vào khe đút thẻ để ngăn không cho ai khác dùng được trừ phi phải dỡ bỏ toàn bộ hệ thống.
Chỉ có bà và tôi thôi. Katherine… bao lâu tuỳ thích.
Mal’akh im lặng nhích lên phía trước, lắng nghe từng cử động. Đêm nay, Katherine Solomon sẽ chết trong bóng tối tại cái bảo tàng của anh trai mụ. Một kết cục thật nên thơ. Mal’akh mong đợi giây phút được chia sẻ thông tin về cái chết của Katherine với anh trai mụ. Nỗi đau đớn của lão già chính là sự trả thù gã chờ đợi bao lâu nay.
Đột nhiên, trong bóng tối, Mal’akh vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một đốm sáng ở phía xa và nhận ra Katherine vừa phạm phải một sai lầm chết người. Mụ gọi điện cầu cứu ư? Màn hình điện tử vừa sáng lên ở độ cao ngang hông, cách đó khoảng 20 thước, như một ngọn đèn toả sáng trên đại dương tăm tối mịt mùng. Mal’akh đã sẵn sàng đợi Katherine tiến ra, nhưng giờ thì gã không phải đợi nữa.
Mal’akh hành động ngay, gã lao về phía có ánh sáng, biết rằng phải tới nơi trước khi con mồi kịp hoàn tất cuộc gọi kêu cứu. Chỉ mất vài giây là tới nơi, và gã nhảy xổ lại, hai cánh tay dang rộng bao lấy hai bên chiếc điện thoại đang bật sáng, sẵn sàng ôm chặt lấy con mồi.
Những ngón tay của Mal’akh va mạnh vào bức tường rắn chắc, dội ngược trở lại và gần như gãy lìa. Tiếp đến, đầu gã va mạnh vào một cái dầm thép. Gã rú lên đau đớn và đổ sụp xuống cạnh tường. Vừa chửi rủa, gã vừa lồm cồm bò dậy, bám vào thanh giằng nằm ngang tầm thắt lưng mà Katherine Solomon đã khôn ngoan đặt chiếc điện thoại mở sẵn lên đó.
Katherine lại chạy, lần này không còn phải lo sợ tiếng động phát ra khi tay chạm vào những núm thép bố trí đều đặn của Khoang 5. Chạy! Nếu cứ bám theo bức tường chạy vòng quanh khoang, cô biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ tìm thấy cửa ra.
Bảo vệ đâu rồi nhỉ?
Khoảng cách đều đặn của những núm thép vẫn cứ xuất hiện trên đường chạy, Katherine dùng tay trái lần theo bức tường còn tay phải giơ ra trước mặt để đề phòng nguy hiểm. Khi nào thì mình mới tới góc phòng? Bức tường dường như cứ chạy mãi, nhưng đột nhiên các núm thép hẫng đi. Tay trái Katherine hụt vào khoảng trống trơn kéo dài vài bước liền, và sau đó lại thấy các núm thép. Katherine dừng phắt rồi quay trở lại, cảm thấy rõ mình đi qua một tấm thép nhẵn nhụi, trơn láng. tại sao lại không có núm thép ở chỗ này?
Bấy giờ, cô nghe thấy tiếng kẻ tấn công đang lết tới, dò dẫm men theo tường tìm đường tiến về phía mình. Nhưng còn một thứ âm thanh khác khiến Katherine kinh hãi hơn, tiếng một nhân viên an ninh đang nện cây đèn pin vào cửa Khoảng 5 ở phía xa.
Bảo vệ không vào được đây.
Mặc dù ý nghĩ trên thật hãi hùng nhưng chính vị trí của tiếng đập – hơi chếch về bên phải – lập tức giúp Katherine xác định được phương hướng. Giờ đây cô có thể hình dung ra mình đang ở chỗ nào trong Khoang 5. Một tia sáng lóe lên kéo theo một nhận thức bất ngờ.
Giờ thì cô biết rõ tấm thép phẳng lỳ trên tường là gì rồi. Tất cả các khoang đều có một ô mẫu vật – một bức tường di động có thể kéo sang bên để chuyên chở những tiêu bản quá khổ vào và ra khỏi khoang. Cũng giống như trong các ga ra chứa máy bay, cánh cửa này rất lớn, và Katherine chưa bao giờ nghĩ đến việc cần phải mở nó ra cả. Nhưng lúc này, dường như đó lại là hy vọng duy nhất của cô.
Chẳng rõ có mở nổi không đây?
Katherine sờ soạng trong bóng tối, cố lần tìm cánh cửa cho tới khi sờ thấy tay nắm bằng thép rất lớn. Tóm lấy nó, cô dồn hết trọng lượng ra phía sau, cố đẩy cánh cửa trượt ra. Vô ích. Cô thử lại lần nữa. Nó không hề nhúc nhích.

Giờ thì cô nghe rõ kẻ tấn công mình đang tiến lại rất nhanh, nhắm thẳng về phía có tiếng động do cô tạo ra. Cửa bị khoá rồi! Hoảng loạn, cô đưa hai tay sờ khắp cánh cửa, cố tìm một cái chốt hoặc đòn bẩy. Đột nhiên tay cô vấp phải thứ gì đó giống như một cái cọc nằm dọc. Cô lần xuống tận nền nhà, luồn tay theo cọc và thấy nó gài vào một cái lỗ trên nền xi măng. Then an toàn! Cô đứng lên, nắm chặt cái cọc cố kéo mạnh để nâng cái chốt ra khỏi lỗ.
Hắn gần tới nơi rồi
Katherine dò dẫm tìm tay nắm cửa. Vừa thấy nó, cô cô gắng dồn hết sức kéo nó sang bên. Cả tấm thép đồ sộ dường như không nhúc nhích, nhưng một tia sáng bất ngờ lọt vào Khoang 5. Katherine lại kéo mạnh. Cột ánh trăng từ bên ngoài toà nhà chiếu vào rõ hơn.
Thêm chút nữa thôi!
Cô kéo lần cuối cùng, cảm thấy rõ kẻ tấn công mình chỉ còn cách đó vài bước chân.
Tung người về phía có ánh sáng. Katherine cố lách thân hình mảnh mai của mình qua khe hở. Một bàn tay hiện ra trong bóng tối, bấu chặt lấy cô, cố kéo cô trở lại. Katherine gồng người lách qua khe hở, một cánh tay trần phủ kín những hình xăm bám theo sát. Cánh tay khủng khiếp đó chờn vờn như một con rắn đang nổi điên cố gắng tóm lấy cô.
Katherine xoay người và chạy nhanh dọc theo bức tường dài dằng dặc bên ngoài Khoang 5. Nền đá dăm chạy quanh toàn bộ khuôn viên SMSC cứa vào gan bàn chân đi tất mỏng trong khi cô chạy, nhưng cô vẫn tiếp tục lao thẳng về phía lối ra vào chính. Đêm đen như mực, nhưng mắt cô đã quá quen với bóng tối mịt mùng trong Khoang 5 nên giờ cô có thể nhìn rất rõ – chẳng khác gì giữa ban ngày. Phía sau cô cánh cửa nặng nề mở ra, và tiếng bước chân thình thịch đang tăng tốc đuổi theo dọc toà nhà. Tiếng bước chân dường như rất nhanh.
Không tới kịp lối vào chính mất. Cô biết mình đang đến gần chiếc Volvo, nhưng cũng vẫn còn quá xa. Không kịp mất.
Sau đó Katherine nhận ra chỉ còn một con bài duy nhất.
Khi đến gần góc tường Khoang 5, cô nghe rõ tiếng bước chân kẻ tấn công đang bắt kịp mình rất nhanh trong bóng tối. Lúc này hoặc không bao giờ nữa. Thay vì vòng qua góc tường, Katherine đột ngột ngoặt ngang sang bên trái, rời khỏi toà nhà, chạy ra bãi cỏ. Cô nhắm chặt hai mắt, đặt cả hai bàn tay lên mặt và bắt đầu chạy băng qua bãi cỏ.
Hệ thống chiếu sáng cảm ứng quanh Khoang 5 lập tức bị kích hoạt, làm đêm đen sáng rực như ban ngày. Katherine nghe thấy tiếng thét đau đớn phía sau mình. Cả luồng sáng chói chang với cường độ tương đương 25 triệu cây nến rọi thẳng vào đôi mắt đang quen bóng tối của Katherine nghe rõ tiếng gã ngã vật ra trên đá dăm.
Cô vẫn nhắm nghiền hai mắt, lao mình qua bãi cỏ. Khi cảm thấy đã đủ xa toà nhà và những ngọn đèn, cô mới mở mắt, xác định lại phương hướng và chạy thục mạng qua bóng tối.
Chìa khoá chiếc Volvo vẫn ở nguyên chỗ cất bình thường, trong hộc giữa. Thở không ra hơi, cô vồ lấy chìa khoá mà tay vẫn còn run bắn và lần tìm ổ điện. Động cơ xe nổ giòn, ánh đèn pha xe bật sáng, soi rõ một cảnh tượng hãi hùng.
Một hình nhân gớm guốc đang lao bổ về phía cô.
Katherine chết sững trong giây lát.
Cái sinh vật xuất hiện trong ánh đèn pha của cô là một con thú trần trùng trục, đầu trọc lốc, da dẻ phủ kín những hình vẽ, biểu tượng và văn tự xăm trổ. Gã vừa gầm rống vừa chạy bổ vào quầng sáng đèn, hai tay giơ cao trước mắt như một con thú chuyên sống trong hang lần đầu tiên nhìn thấy ánh mặt trời. Katherine với tay cài số nhưng không kịp, gã kia đã tới tận nơi, xô mạnh vai qua cửa bên của chiếc xe, làm cả một trận mưa kính trút tới tấp xuống lòng cô.
Một cánh tay phủ kín hình xăm thò qua cửa sổ, quờ quạng điên loạn, cố tìm cách thít lấy cổ Katherine. Cô cho xe chạy lùi lại, nhưng kẻ tấn công đã bám được cổ họng cô và siết chặt với một sức mạnh ghê gớm. Cô cố xoay đầu nhằm thoát khỏi bàn tay gọng kìm của gã, nhờ đó trông thấy gương mặt gã trừng trừng nhìn mình. Ba vệt đen thẫm, như những vết cào do móng tay, rạch qua lớp hoá trang trên mặt gã, đe lộ ra những hình xăm bên dưới. Đôi mắt gã toát lên vẻ hoang dại và tàn độc.
– Lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước, – gã gào lên – Vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.
Khi những lời ấy vọt ra, một ký ức hãi hùng ập đến Katherine: chính ánh mắt hung dữ kia – cô đã từng nhìn thấy. Chính là hắn.
Có lẽ cô đã kêu thét lên nếu như không có bàn tay đang bấu chặt cổ họng.
Katherine dận mạnh bàn đạp ga, chiếc xe ngoằn ngoèo chạy lùi lại, gần như làm cổ cô tắc nghẹn vì kẻ tấn công vẫn bám chặt lấy sườn xe.
Chiếc Volvo đảo từ bên này sang bên kia, Katherine cảm thấy cổ họng mình sắp đứt lìa trước sức nặng của gã. Đột nhiên, có mấy cành cây tạt mạnh vào sườn xe, quất qua mấy ô cửa bên, và sức nặng kia biến mất.
Chiếc xe rồ qua mấy hàng cây và lao vào tầng trên bãi đậu xe.
Katherine đạp mạnh chân phanh. Dưới kia, gã đàn ông cởi trần gượng đứng lên, nhìn chòng chọc vào đèn pha của cô. Với vẻ bình thản đến lạnh người, gã giơ cánh tay xăm trổ đầy hăm doạ lên và trỏ thẳng vào cô.
Máu trong người Katherine sôi sục vì sợ hãi và căm hận. Cô xoay mạnh vô lăng rồi nhấn ga. Chỉ vài giây sau, cô đã ra tới đường Silver Hill.
CHƯƠNG 48
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 48
Trong lúc bối rối, sĩ quan Nunez không có lựa chọn nào khác là giúp Kiến trúc sư Điện Capitol và Robert Langdon trốn thoát. Nhưng giờ đây, trở lại trụ sở cảnh sát ở tầng hầm, anh nhận thấy những đám mây giông đang quần tụ rất nhanh.
Chỉ huy Trent Anderson chườm một túi đá lạnh vào đầu trong khi một sĩ quan khác chăm sóc những vết bầm tím của Sato. Cả hai đang đứng cùng nhóm giám sát video, xem lại các đoạn ghi hình nhằm xác định vị trí của Langdon và Bellamy.
– Kiểm tra kỹ từng đoạn phim tất cả các hành lang và lối ra – Sato ra lệnh – Tôi muốn biết họ đi đâu?
Nunez trông cảnh đó mà bồn chồn. Anh hiểu rằng chỉ mất vài phút là người ta sẽ tìm ra đúng đoạn hình video và biết rõ sự thật.

Mình đã giúp họ trốn thoát. Tệ hơn nữa là có một nhóm bốn nhân viên CIA vừa đến và đang loanh quanh gần đó, chuẩn bị đuổi theo Langdon và Bellamy. Những gã này không như Cảnh sát Điện Capitol. Những gã này là loại chiến binh lạnh lùng… nguỵ trang tối màu, kính đi đêm, súng ống trông rất lạ.
Nunez cảm thấy nôn nao. Cố trấn tĩnh tinh thần, anh kín đáo ra hiệu cho Anderson.
– Tôi xin gặp riêng Chỉ huy một lát được không ạ?
– Có chuyện gì vậy? – Anderson theo Nunez ra sảnh.
– Chỉ huy, tôi đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, – Nunez nói, mồ hôi mồ kê đầm đìa – Tôi xin lỗi, và tôi xin từ chức – Vài phút nữa thì các ông cũng sa thải tôi mà thôi.
– Tôi không hiểu?
Nunez nuốt khan.
– Lúc trước, tôi đã nhìn thấy Langdon và Kiến trúc sư Bellamy tại trung tâm khách tham quan, trên đường ra khỏi toà nhà này.
– Sao cơ?! – Anderson gầm lên – Sao anh không nói năng gì?!
– Kiến trúc sư dặn tôi không được hé một lời.
– Anh làm việc cho tôi, mẹ kiếp! – Giọng Anderson ầm ĩ trong hành lang. – Bellamy nện đầu tôi vào tường đây này, lạy Chúa!
Nunez đưa cho Anderson chiếc chìa khoá mà Kiến trúc sư đã giao cho anh lúc trước.
– Cái gì đây? – Anderson hỏi.
– Chìa khoá mở lối vào đường hầm mới bên dưới Đại lộ Độc lập. Kiến trúc sư Bellamy đưa cho tôi. Họ thoát ra theo lối ấy đấy.
Anderson chằm chằm nhìn chiếc chìa khoá, không nói lên lời.
Sato thò đầu ra hành lang, ánh mắt dò xét.
– Có chuyện gì ngoài đó vậy?
Nunez cảm thấy như nhũn ra. Anderson vẫn cầm chiếc chìa khoá, và rõ ràng Sato đã nhìn thấy nó. Khi người đàn bà nhỏ thó gớm ghiếc ấy tiến lại gần, Nunez cố nặn ra một câu chuyện, với hy vọng bảo vệ Chỉ huy của mình.
– Tôi tìm thấy một chiếc chìa khoá trên sàn tầng đáy. Tôi vừa hỏi Chỉ huy Anderson xem anh ấy có biết nó dùng để làm gì không.
Sato bước tới, mắt nhìn chiếc chìa khoá.
– Thế Chỉ huy có biết không?
Nunez liếc nhìn Anderson, rõ ràng đang cân nhắc tất cả các trường hợp trước khi lên tiếng. Cuối cùng, Chỉ huy lắc đầu.
– Không thể nói ngay được. Tôi phải kiểm tra…
– Đừng phí thời gian, – Sato nói – Chìa khoá này để mở đường hầm dẫn ra khỏi trung tâm khách tham quan.
– Thật sao? – Anderson nói – Sao bà biết rõ vậy?
Chúng tôi vừa tìm thấy đoạn video theo dõi. Sĩ quan Nunez đây đã giúp Langdon và Bellamy trốn thoát rồi khoá cửa đường hầm lại cho họ. Chìa khoá là do Bellamy đưa cho Nunez.
Anderson quay sang Nunez với vẻ giận dữ.
– Có đúng vậy không hả?
Nunez gật đầu rối rít, cố gắng đáp cho ăn khớp.
– Tôi xin lỗi, thưa Chỉ huy. Kiến trúc sư bảo tôi không được nói gì.
– Tôi mặc mẹ lão Kiến trúc sư nói gì với anh – Anderson gào lên – Tôi định…
– Im đi, Trent, – Sato quát – Cả hai anh đều là những kẻ dối trá tồi tệ! Hãy đợi đến lúc giải trình với CIA – Bà ta giật lấy chiếc chìa khoá đường hầm từ tay Anderson – Các anh không còn việc gì ở đây nữa.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.