Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông

Chương 47: Dưới Cờ Bình Mông


Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 47: Dưới Cờ Bình Mông

Linh-Từ quốc mẫu hỏi Hưng-Đạo vương :
– Không biết Tiết-chế ra lệnh cho già này đem cung quyến đến vùng nào ?
Hưng-Đạo vương đưa mắt nhìn Quốc-mẫu rồi nháy một cái. Quốc-mẫu hiểu ý vương là : Bí mật không thể nói ra lúc này.
Vương tiếp :
– Nhưng nếu như ta mở rộng đường cho giặc vào Thăng-long, thì chúng sẽ nghi ngờ. Vì vậy ta cần dàn quân dọc đường, đánh mấy trận tượng trưng. Sau khi thắng vài trận, Ngột-lương Hợp-thai cho rằng quân ta hèn nhát, ô hợp. Y thẳng tiến vào Thăng-long. Mông-cổ đã quen với chính sách tàn bạo, đi đến đâu chúng dùng bạo lực bắt bọn quan lại đầu hàng, bắt dân chúng cung ứng lương thảo, bằng không chúng sẽ cướp, giết cực kỳ tàn bạo. Thế nhưng, Đại-Việt ta khác. Muốn có lương thảo, chúng phải đánh chiếm các làng xã. Mà mỗi làng, xã của ta là một đồn. Quân của chúng sẽ chết rất nhiều, sẽ vất vả, mệt mỏi lắm mới chiếm được một xã, mà chưa chắc đã có lương. Trong khi đó, ta chia quân thành nhiều cánh nhỏ, ẩn trên đường từ Đại-lý về Thăng-long, chặn đánh các đội tiếp tế lương thực. Ta cầm cự, chờ khi trời nóng, quân, ngựa của giặc bị bệnh, lương thảo thiếu, bấy giờ ta phản công, thì chỉ một trận thì phá xong.
Vương ngừng lại, chỉ tay lên bản đồ Đại-Việt vẽ trên một tấm lụa, choán gần hết bức tường:
– Ta chia lực lượng làm ba. Một là đánh tiêu hao, hai là đánh trực diện, ba là phản công.
Vương đứng dậy hướng vào Khâm-Thiên đại vương:
– Trước hết là lực lượng tiêu hao sẽ do Khâm-Thiên vương, Nhân-Huệ vương, Vũ-Uy vương chỉ huy. Vũ-Uy vương thống lĩnh ba hiệu Tiền thánh-dực, Tả thánh dực, Hữu thánh dực, phạm vi là vùng biên giới cho tới Kinh-Bắc. Nhân-Huệ vương thống lĩnh ba hiệu Trung thánh dực, Thần-sách, Củng-thần, phạm vi là vùng Tây Thăng-long. Khâm-Thiên đại vương thống lĩnh ba hiệu Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh, phạm vi là vùng Đông, Nam Thăng-long.
Vũ-Uy vương hỏi:
– Lực-lượng đánh tiêu hao địch rất quan trọng. Vậy trong ba chúng tôi, ai là chúa tướng?
– Là Khâm-Thiên đại vương.
Khâm-Thiên đại vương hỏi:
– Nhiệm vụ chính của chúng tôi là gì?
– Khi giặc tới, thì phân tán thành từng đội, từng vệ, từng đạo ẩn vào các làng xã, bảo vệ dân, cùng tráng đinh chống giặc. Khi giặc đi, tập trung chiếm lại những vùng giặc đóng quân, đánh những đoàn do thám, những đoàn tiếp tế lương thực. Tùy tình hình, phá cầu, đặt chông, phục kích làm chậm bước tiến của giặc. Nhất là cung cấp lương thực cho các hiệu binh của ta lĩnh nhiệm vụ trực chiến và truy kích.
Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ :
– Hơn ba năm nay, Hưng-Đạo vương cùng các tướng súy Ngũ-yên huấn luyện từ hoàng nam, cho tơí binh địa phương, thiên tử binh về chiến thuật tiêu hao. Tuy vậy, có nhiều văn quan chưa biết về chiến thuật này. Vương nên tóm lược, giảng giải cho mọi người đều biết.
– Tuân chỉ.
Hưng-Đạo vương đưa mắt cho Hưng-Ninh vương. Hưng-Ninh vương đứng dậy giảng:
” Chiến thuật đánh tiêu hao, lấy căn bản là triều đình với dân cùng đồng tâm phá giặc. Địch đông hơn ta, mạnh hơn ta, tùy theo địa thế ta phân hiệu thành đạo (2400), vệ (800),), đô (80), Lượng (20) rồi ẩn vào các làng xã, dựa vào địa thế của làng-xã cùng dân chúng chống giặc. Nếu giặc mạnh quá, thì cùng dân chúng rút chạy sang làng khác. Khi giặc phân tán, ta tập trung thực nhanh, đánh chớp nhoáng, rồi lại phân tán. Chiến thuật này rất lợi hại, vì quân sống với dân, được dân cho ở trong nhà, không cần doanh trại. Được dân nuôi ăn, không phải tiếp tế lương thực. Thương binh có dân chăm sóc. Tử sĩ có dân mai táng. Tổn thất dùng hoàng nam bổ xung. Di chuyển nhẹ nhàng. Thông thuộc đường lối. Được dân báo cho tin tức giặc. Ta có thể tóm tắt chiến thuật này là: Biến đất nước thành một hồ nước. Giặc dùng con dao cắt đứt nước dễ dàng. Nhưng dao vừa cắt xong, thì nước trở lại như cũ”.
Hưng-Đạo vương hướng vào Vũ-Uy vương:
– Võ công vương gia cao nhất trong hoàng tộc. Lâu nay, vương gia theo gương Quốc thượng phụ, thu nhặt các thiếu niên mồ côi, về dạy dỗ, thành lập một đạo võ sĩ mang tên Trấn-quốc. Không biết hiện do ai chỉ huy ? Trong dịp này vương có mang theo không?
– Đội võ sĩ Trấn-quốc gồm toàn những thiếu niên từ 12 tới 20 tuổi. Võ công, tiễn thủ thì chúng ở mức trung bình. Nhưng chúng di chuyển, len lỏi, mưu mẹo không biết đâu mà lường. Người chỉ huy là Đô-thống Hoàng Vui.
Một võ quan dáng người nhỏ bé đứng dậy hành lễ rồi ngồi xuống. Có nhiều tiếng reo :
– Ái chà !
– Ối !
Cả triều thần cùng bật lên những tiếng vui mừng. Nguyên-Phong hoàng đế kinh ngạc hỏi :
– Vương nhi ! Vui là người thế nào mà nghe nhắc đến tên, ai cũng reo lên vậy ?
– Tâu phụ hoàng, Vui xuất thân từ trường Ngưu-binh ở Hoa-lư, mặt có trứng cá, thành ra trông như bị rỗ. Bạn hữu gọi là Vui-rỗ. Khi ở trong trường, từ học văn, tới luyện võ, Vui-rỗ chỉ ở bậc trung. Nhưng khi ra trường, giống như cá chậu được thả về biển Đông, văn tài của y phát xuất. Vì vậy tuy là võ quan, mà y trở thành danh sĩ vùng Thăng-long !
Thái-sư Trần Thủ-Độ thêm :
– Đẳng trật của y hiện là Đô-thống. Y lĩnh hai nhiệm vụ, một là thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực. Hai là chỉ huy đội võ sĩ Trấn-quốc. Y là người đủ khả năng đối phó với Mông-cổ. Bởi như Hưng-Ninh vương chỉ có mưu thần, chước thánh, mà thiếu những quỷ kế, thiếu lối hành sự của bọn lưu manh dân dã. Còn Vui thì y có đủ, đúng như ta thường nói : Đi với Phật thì mặc áo cà sa. Đi với ma thì mặc áo giấy. Mưu kế của y không biết đâu mà lường.
Hưng-Đạo vương hài lòng nói với Vũ-Uy vương :
– Vậy khi bọn Mông-cổ nhập biên, vương gia dùng Đô-thống Hoàng Vui với đội Trấn-quốc quấy nhiễu làm cho chúng mất ngủ ít nhất hai đêm, lại chọc cho chúng tức đến điên người lên…Có như vậy, khả năng chiến đấu của chúng mới bị giảm.
Vũ-Uy vương cười hỏi Đô-thống Hoàng Vui :
– Vui đệ ! Quốc kế, Hưng-Đạo vương vạch ra như vậy, thế đệ thi hành rasao ?
– Thưa vương gia.
Vui đứng dậy trình : Gì chứ chuyện thần vơi bọn nhãi ranh thừa sức làm. Đầu tiên, khi chúng nhập biên, sau một ngày di chuyển mệt mỏi, chiều thần sẽ cho bọn nhỏ giả làm mục đồng, dẫn dụ chúng vào trong làng xã, rồi giết vài chục tên. Sau đó quấy nhiễu suốt đêm, không cho chúng ngủ. Hôm sau thần lại tiếp tục bầy chướng ngại trên đường đi, gây tức bực cho chúng, cuối cùng lừa cho chúng đóng quân qua đêm vào khu ven rừng cỏ khô Thảo-lâm. Đêm thần dùng Lôi-tiễn nã lên đầu chúng, nướng chả ít trăm tên. Thế là trọn ba đêm chúng không được ngủ. Lúc chúng tới Bình-lệ-nguyên thì người ngựa mệt mỏi bơ phờ, ta mới dễ thắng chúng.
Nguyên-Phong hoàng đế nhắc Hưng-Đạo vương:
– Bây giờ tới lực lượng phản công.
– Tâu, lực lượng này cần một tướng hết sức mẫn cán, trẫm tĩnh, bằng không dễ bị kỵ binh giặc đánh tan. Trong các tướng hiện diện, ngoài Hưng-Ninh vương không ai gánh nổi.
Hưng-Ninh vương đứng dậy nhận lệnh.
Hưng-Đạo vương tiếp:
– Hưng-Ninh vương thống lĩnh ba hiệu Tứ-thiên, Tứ-thần, Tứ-thánh. Nhiệm vụ chính là ém quân quanh Thăng-long, chờ đợi khi giặc đói vì không lương, bệnh vì thời khí, thì xuất hiện đánh như sét nổ, rồi đuổi bất kể ngày đêm, cho tơí biên giới thì thôi. Bây giờ tới lực lượng trực diện…
Vương đưa mắt nhìn các tướng Ngũ-yên:
– Lực lượng này có nhiệm vụ dụ địch. Phàm khi địch kiêu căng, thì ta phải giả ngu, giả dại để chúng mắc mưu. Mông-cổ là thứ binh kiêu khí vô cùng tận. Biết rằng dàn quân trực diện với chúng thì ta bị chúng dẹp ngay. Thế nhưng ta cũng phải dàn quân để chúng khinh thường. Ta sẽ dàn quân tại ba nơi. Một là tại Bình-lệ-nguyên, hai là Cụ-bản, ba là Phù-lỗ. Khi tiến quân vào nước ta, chắc chắn Ngột-lương Hợp-thai sẽ sai một trong ba tên Triệt Triệt Đô, A Truật, A Tan đi tiên phong. Võ công ba tên này thực không phải tầm thường. Vì thế tướng trấn thủ cần bốn điều kiện.
Một là dũng, tức võ công cực cao, để có thể đối trận với chúng.
Hai là trí, để có thể ứng phó với biến chuyển của trận thế.
Ba là mưu, để có thể lừa giặc.
Bốn là đảm, vì khi trấn tại đây thì lành ít, dữ nhiều.
Vương ngừng lại, nhìn cử tọa một lượt, chính khí người nào cũng tỏa ra hừng hực. Tất cả như đều muốn được lĩnh nhiệm vụ có đi, không về này. Vương hỏi:
– Có ai tình nguyện không?
Tất cả các tướng đồng loạt đứng dậy, dơ cao tay. Trong đó có cả Nguyên-Phong hoàng đế, Thái-sư Trần Thủ-Độ. Tổng cộng 28 người. Vương mỉm cười:
– Bệ hạ cũng như Quốc-phụ là tướng của các tướng, thì phải ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài nghìn dặm, không thể ra trấn nhậm ở đầu mũi tên, ngọn giáo được.
Nhà vua tỏ ý không vui:
– Thái-tổ Mông-cổ là Thành-cát Tư-hãn, Thái-tông là Oa Khoát Đài từng xung sát hằng trăm, hằng ngàn trận. Không lẽ trẫm chịu thua họ ta sao?
Ngài chỉ Thái-sư Trần Thủ-Độ:
– Còn Thái-sư! Thái-sư từng thống lĩnh binh đoàn Phương Đông của Mông-cổ. Tại sao trong trận lớn như thế này, khanh không cho Thái-sư xuất trận?
– Tâu, ý thần muốn bệ hạ cùng Thái-tử ẩn quanh Thăng-long, điều động toàn quân. Đợi khi giặc mệt mỏi, bệ hạ sẽ xuất trận, khích lệ ba quân truy kích giặc.
Vương thấy trên mặt nhà vua thoáng vẻ không vui. Vương biết võ công ngài cực cao, ngài lại muốn nêu gương chiến đấu với ba quân… Vương đành tâu:
– Nếu như bệ hạ muốn ra tuyến đầu đối trận với chúng, thần xin đề nghị bệ hạ thân chinh tại Bình-lệ-nguyên. Còn Thái-sư, thì xin Thái-sư cùng Khu-mật viện thống lĩnh cả ba mặt trận Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ.
Nhà vui tỏ ý vui mừng:
– Trẫm xin lĩnh nhiệm vụ của một đại tướng… Bấy lâu, trẫm có một đội Thị-vệ trên 3 trăm người, trẫm sẽ mang theo…Rồi ! Bây giờ trong 28 tướng tình nguyện, khanh chọn lấy ba người chỉ huy ba mặt trận.
– Trong các tướng tình nguyện, người nào cũng có đủ tài trí trấn tại ba tuyến đầu. Thần xin cho rút thăm.
Người trẻ nhất hiện diện là Huệ-Túc phu nhân. Phu nhân cắt 28 mảnh giấy, cầm bút viết vào ba mảnh. Mảnh thứ nhất có chữ Bình-lệ-nguyên. Mảnh thứ nhì có chữ Cụ-bản. Mảnh thứ ba có chữ Phù-lỗ…rồi gấp lại bỏ vào trong cái đĩa bằng vàng. Nguyên-Phong hoàng đế cầm cái đĩa đưa ngang đầu. Ngài khấn:
” Thần Trần Cảnh, đức bạc, phải lĩnh trọng trách bảo vệ Xã-tắc. Nay Mông-cổ như hùm, như sói sắp sửa vào cướp phá. Chư tướng đều tình nguyện ngăn giặc. Xin Quốc-tổ, Quốc-mẫu, chư vị thần linh Đại-Việt chọn ba tướng tài trí để lĩnh trọng trách trấn Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ”.
Huệ-Túc phu nhân đứng dậy mang bát đi một vòng. Mỗi tướng rút một thăm. Thái-sư Trần Thủ-Độ hô:
– Mở thăm!

Sau khi mở thăm, hầu hết các tướng đều tỏ vẻ thất vọng. Duy Lê Tần, Trần Tử-Đức và Phạm Cụ-Chích hiện ra vẻ hân hoan. Thái-sư Trần Thủ-Độ kiểm lại: Phiếu của Lê Tần có chữ Bình-lệ-nguyên, của Phạm Cụ-Chích có chữ Cụ-bản, của Trần Tử-Đức có chữ Phù-lỗ.
Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ:
– Mừng cho ba vị tướng quân được lĩnh trọng trách trấn nhậm địa đầu ngăn giặc.
Hưng-Đạo vương trao binh phù cho Lê Tần:
– Vũ-kỵ thượng tướng quân lĩnh hiệu binh Yên-bang, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phù-Đổng, một đạo Ngưu-binh Hoa-lư, thêm hạm đội Âu-Cơ dàn ra tại Bình-lệ-nguyên. Khi giặc tới, phải đánh một trận cho chúng biết rằng Nam-phương không thiếu những người con can đảm bảo vệ đất tổ. Sau đó sẽ xuống thuyền của hạm đội Âu-Cơ, rút về bến Đông-bộ đầu Thăng-long đặt dưới quyền Hưng-Ninh vương chờ lệnh phản công. Hoàng thượng sẽ xuất trận, khích lệ tướng sĩ.
Nhà vua nhìn Lê Tần:
– Trẫm sẽ là một tướng dưới quyền điều động của khanh.
Vương đưa mắt nhìn Nam-thiên ngũ long, rồi cung cung, kính kính đứng dậy:
– Mông-cổ mang theo rất nhiều cao thủ võ lâm Trung-nguyên, với ý định giết tướng, làm loạn hàng ngũ. Tuy vậy trong lúc Mông-cổ tiến binh, thì các tôn sư võ học phải ẩn thân. Tuyệt đối không giao chiến. Chờ lúc phản công thình lình ra tay, giết tướng giặc. Còn khi giặc tiến binh thì các vị có võ công cao, xin vị có thể nhập trại Mông-cổ để dò quân tình, kịp thời báo cho Khu-mật viện hay cho các tướng. Vậy thần xin các vị trưởng thượng di giá lên Bình-lệ-nguyên, Cụ-bản, Phù-lỗ để dò quân tình địch
Tuyên-minh thái hoàng thái hậu mỉm cười:
– Trong năm chúng tôi, thì Linh-Từ quốc mẫu bận chỉ huy, bảo vệ hậu cung, không thể xuất trận. Vương phi Kinh-Quốc vương đảm trách theo đạo quân của Thái-tử. Vậy chỉ còn già này với Hưng-Nhân vương phi và Kiến-Quốc vương phi. Vậy Hoàng nhi nên sai sứ đến yết kiến Vô-Huyền bồ tát, xin Bồ-tát điều động võ lâm, theo ba cánh quân để tùy nghi yểm trợ thì hơn.
Ghi chú của thuật giả
Nam-thiên ngũ long, xin xem chú giải hồi 45.
Nhân-Huệ vương thắc mắc:
– Mông-cổ có 5 vạn Lôi-kỵ, 5 vạn quân Đại-lý, với hai mươi vạn lao binh. Thế mà ta chỉ có một hiệu bộ binh, một đạo Kỵ-binh, một đạo Ngưu-binh, một hạm đội, tổng cộng chưa quá hai vạn người. Lấy một chọi mười thì nguy thay!
– Vương gia ơi! Bình-lệ-nguyên có một khu đất dài không quá hai dặm, giỏi lắm mỗi bên dàn được năm nghìn quân là nhiều. Quân Mông-cổ có đông đến đâu chăng nữa cũng vô ích mà thôi.
Hưng-Đạo vương trao binh phù cho Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Phạm Cụ-Chích:
– Tướng quân lĩnh hiệu binh Tiên-yên, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phủ-đổng, một đạo Ngưu-binh thuộc hiệu Hoa-lư trấn tại Cụ-bản. Sau khi cánh quân của tướng Lê Tần, cùng hạm đội Âu-Cơ rút về rồi, tất bọn Mông-cổ đuổi theo. Trái với đạo quân Bình-lệ-nguyên. Tướng quân thiết lập hệ thống đồn thực kiên cố, nằm trên đường đi. Như vậy giặc bắt buộc phải công đồn. Trận chiến sẽ hết sức khốc liệt. Khi thấy đồn ải bị vỡ, tướng quân cho binh sĩ tản ra thành nhiều toán nhỏ, đi theo hương lộ, lùi về hương Đông Thăng-long, đặt dưới quyền Thái-tử chờ phản công.
Hưng-Đạo vương là người gần với Phạm Cụ-Chích nhiều nhất. Vương biết Phạm là người trung chính, khi luyện hiệu Ngưu-binh, ông chỉ dạy tiến, mà không dạy lùi. Bây giờ để ông trấn Cụ-bản, thì e ông tử chiến, chứ không chịu lui . Vương tiến lên cầm tay ông:
– Phạm hiền đệ. Những lời ta sắp nói với đệ đây là của người anh, nói với người em. Đệ có nghe ta không?
– Đệ xin nghe.
– Phàm làm đại tướng, thì phải biết tiến, biết lùi. Chứ không nên cứng quá. Mũi nhọn dễ gẫy.
– Dạ.
Tuy Cụ-Chích vâng dạ, nhưng trong lòng Vương vẫn áy náy không yên.
Vương gọi Phú-lương hầu Trần Tử-Đức:
– Hầu lĩnh hiệu binh Yên-phụ, một đạo Kỵ-binh thuộc hiệu Phù-đổng, một đạo Ngưu-binh thuộc hiệu Hoa-lư, trấn tại Phù-lỗ. Sau khi quân của Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân rút rồi, ắt quân quân Mông-cổ kiêu căng, mục hạ vô nhân, chúng sẽ tràn tới như nước vỡ bờ. Tướng quân đánh một trận cho chúng ghê sợ, rồi chia quân thành toán nhỏ, tản vào làng xã, lui về Tây-kết, đặt dưới quyền của Thái-tử, chờ ngày phản công.
Bùi Thiệu Hoa hỏi:
– Khải vương gia, thần với Trần Ý Ninh có đội nữ võ sĩ hơn trăm người, vẫn dùng để huấn luyện thanh nữ tại Ngũ-yên. Không biết trong trận đánh lớn này, vương gia có cho thần mang theo không?
– Được! Phu nhân cứ mang theo.
Trần Ý Ninh than:
– Đánh giặc mà lùi thì…chán quá!
Trong không khí trang nghiêm cực kỳ, mà cử tọa nghe một thiếu nữ sắc nước hương trời than, cũng bật cười. Nhà vua an ủi:
– Quận chúa lùi một lần, rồi tiến cả trăm lần. Đấy mới thú vị!
Hầu hỏi Hưng-Đạo vương :
– Thần có người em kết nghĩa tên Nguyễn Thiên-Sanh, hiện đẳng cấp tới Đô-thống, đang coi một vệ quân Tế-tác của Ngũ-yên chuyên bắt trộm cướp. Xin vương gia cho Sanh cùng trấn Phù-lỗ với thần.
Nghe nói đến tên Nguyễn Thiên-Sanh, hầu như tất cả chư tướng vùng Ngũ-yên đều bưng miệng cười. Thái-sư Trần Thủ-Độ thấy có sự lạ, ông hỏi :
– Cái gì mà chư vị cười ?
Hưng-Ninh vương đáp :
– Thưa Thái-sư, anh em chúng tôi cười là cười về hành trạng kỳ lạ của Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh.
_ ? ! ? ! ? !
– Phú-lương hầu Trần Tử-Đức, Đô-thống Lý Tùng-Bách, Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh là ba anh em kết nghĩa. Đô-thống Lý Tùng-Bách là một võ quan trí dũng tuyệt với, giỏi kỵ chiến bậc nhất bậc nhì Đại-Việt. Còn Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh, rất thông minh, võ công cao, nhưng học văn thì cực kỳ lười. Vì khi sinh ra, môi trên bị rách, hở hàm răng, nên bạn hữu gọi là Sanh Méo. Hưng-Đạo vương trao cho Sanh nhiệm vụ bắt trộm, bắt cướp ở vùng Yên-sinh. Mỗi khi nghe thấy trong vùng nào có trộm, hay cướp, Sanh không đem quân đi bắt, mà âm thầm dò la. Rồi đêm đến, y bí mật đột nhập nhà tên trộm, bắt vợ con nó trói bỏ gầm giường, sau đó leo lên giường giả làm vợ hắn nằm chờ. Khi tên trộm trở về mò vào giường, y mới ngồi bật dậy bắt sống.
Cả triều đình cùng im lặng nghe Hưng-Ninh vương kể. Vương tiếp :
– Tất cả đầu trộm, tướng cướp bị Sanh bắt sống, đều khâm phục đởm lược của Sanh, xin suy phục. Sanh xin ân xá cho chúng, rồi luyện võ, dậy hành binh, xung phong hãm trận. Hiện đám này lên đến 12 tên, người nào cũng có quân hàm Đô-úy, Vệ-úy. Thiên-Sanh kết huynh đệ với 12 người này. Ngũ-yên không trộm, chẳng cướp là nhờ Sanh Méo.
Nguyên-Phong hoàng đế cực kỳ vui vẻ, ngài buột miệng :
– Phải gọi Sanh với 12 người này là Đại-đởm thập tam kiệt mới đúng.
Hưng-Đạo vương ban lệnh :
– Tôi đồng ý cho Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh theo Hầu trấn Phù-lỗ.
– Tuân chỉ.
Thái-sư Trần Thủ-Độ hỏi Phạm Cụ-Chích :
– Mông-cổ dùng Lôi-kỵ tấn công. Khắp gầm trời này, không nước nào có thể chống nổi. Thế nhưng tôi nghe Hưng-Đạo vương muốn dùng Ngưu-binh chống Lôi-kỵ. Vậy tướng quân có thể trình bầy rõ khả năng Ngưu-binh cho chư tướng biết.
Phạm Cụ-Chích đứng dậy :
« Ngưu-binh là một loại binh, mà duy nhất Đại-Việt ta biết xử dung. Ngưu-binh do vua Đinh Tiên-Hoàng cùng các tướng thuộc quyền đã nghiên cứu rồi chế ra.
Nguyên thời thơ ấu, vua Đinh là một mục đồng. Vì vậy ngài chế ra những tiếng để ra lệnh cho trâu. Lúc đầu chỉ có 72 tiếng. Ngài lại dùng trâu lập trận, khi hợp, lúc phân, khi tiến, lúc lùi, khi húc, lúc lồng. Tổng cộng 36 thế võ khác nhau. Trên sừng trâu hoặc buộc dao, hoặc buộc giáo nhọn. Lưng trâu sẽ qua áo tơi, trên áo tơi ghép nhiều miếng thép, đồng, để không bị tên bắn.
Đến đời Lý, Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ-hùng lại xử dụng Ngưu-binh đánh Tống. Nhân đó chế ra tới 180 tiếng ra lệnh cho trâu. Các thế võ bắt trâu tập từ 36 tăng lên 72.
Cho đến nay, Ngưu-binh được luyện tập thành một thứ binh dân gian. Về tác chiến, như khi gặp trận địch kiên cố, một đội trâu xếp hàng 10, dàn làm 5 hàng cùng xung vào. Sau khi húc vỡ trận địch, thì chia ra làm hai, mỗi bên năm trâu, húc sang hai bên. Hàng thứ hai tiếp tục xông vào trong trận địch. Sau khi húc vỡ lớp thứ nhì của trận lại chia hai, tỏa ra hai bên. Hàng thứ ba tiếp tục thocï sâu vào trận địch.
Mông-cổ có Lôi-kỵ, mà ta dùng Kỵ-binh chống với họ thì không khác gì lấy sở đoản mà chống sở trường ? Địa thế của ta toàn đồng lầy, rừng rậm ? Địa thế này Kỵ-binh vô dụng, ngược lại Ngưu-binh lại thuận lợi.
Kỵ-binh Mông-cổ giỏi về tiễn thủ, ta dùng Ngưu-binh mang khiên-mây xung phong trước, quân bộ theo sau, thì có thể chống được.
Tất cả các cấp chỉ huy Ngưu-binh đều tuyển từ mục đồng, rồi huấn luyện. Các cấp Ngũ, Lượng, Đô thì huấn luyện tại xã, huyện. Các cấp Vệ, Quân, Hiệu thì phải đưa về trường Ngưu-binh ở Hoa-lư học ».
Thái-sư Thủ-Độ cau mặt :
– Tôi cầm quyền Tể-tướng, cứ thấy báo cáo có nhiều Hiệu, Quân, Vệ Ngưu-binh, mà không thấy đòi tiền nuôi trâu, nuôi binh là cớ gì ?
Hưng-Đạo vương đáp :
– Thưa Thái-sư, nếu như thành lập một Hiệu Ngưu-binh với 9.600 trâu, thì công nho phải chi tiêu nào trại cho trâu ngủ, nào người cắt cỏ, nào người tắm trâu, nào y sĩ chăm sóc trâu. Khi trâu già phải mua trâu trẻ thay thế, lại phải chi rất lớn để hằng ngày nuôi trâu. Vì vậy, ta chỉ tuyển người lập Cương ( Ngày nay gọi là Khung) chỉ huy Vệ, Quân, Hiệu. Còn lại, trâu của dân chúng đều được huấn luyện thành Ngưu-binh. Tất cả mục đồng đều huấn luyện thành Ngũ, Lượng, Đô trưởng. Tỷ như khi giăëc tới Đăng-châu, ta cần một Vệ Ngưu-binh, thì gửi lên một Cương, gồm các cấp chỉ huy của Vệ, rồi tập hợp các Ngũ, Lượng, Đô lại, nhanh chóng lâm chiến. Sau trận đánh, trâu, mục đồng lại trả về dân. Các cấp chỉ huy lại trở về.
Triều đình thở phào nhẹ nhõm. Bởi từ lâu, họ nghe nói nhiều về Ngưu-binh. Hôm nay họ mới hiểu rõ.
Sau khi trả lời hết thắc mắc của chư tướng. Hưng-Đạo vương tâu với nhà vua:
– Ba hiệu binh Yên-bang, Tiên-yên, Yên-phụ, hiệu Kỵ-binh Phù-Đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư là năm hiệu binh sẽ phải đối đầu với địch. Xin bệ hạ duyệt, rồi ban lời khích lệ, cho binh sĩ phấn khởi.
Ngay hôm sau, các hiệu binh rầm rộ di chuyển về vùng trấn nhậm. Tuy đã luyện tập liên tiếp ba năm qua về chiến thuật của Hưng-Đạo vương. Thế nhưng bây giờ di chuyển về địa phương mới. Các tướng thân dẫn cấp chỉ huy đô, vệ, đạo, hiệu quan sát địa thế từng con lộ, từng con lạch, từng xóm, từng làng để biết rõ địa thế. Tiếp theo, các đô trưởng dẫn quân trực thuộc tập trận giữ làng với hoàng nam. Quân, dân, già, trẻ, nam, nữ hồ hởi chờ giặc.

Nguyên-Phong hoàng đế, cùng Thái-sư Trần Thủ-Độ, Tiết-chế Hưng-Đạo vương duyệt các đơn vị trấn tại Bình-lệ-nguyên. Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần trình bầy chi tiết việc dàn quân, nơi đặt chông, chỗ phục binh, cùng kế hoạch tiến lui. Long tâm hoan hỷ. Ngài đi duyệt binh. Trước hết là hiệu Yên-bang, tướng chỉ huy là Đô-thống Trần Biên, tuổi khoảng 30, dáng người nhỏ bé, da sạm đen, vẻ mặt cương quyết. Thái-sư Thủ-Độ hỏi:
– Đô thống có biết nhiệm vụ của cánh quân Bình-lệ-nguyên phải làm gì không?
– Thưa Thái-sư.
Trần Biên trả lời: Có ba nhiệm vụ. Một là đánh chặn đường, cho Mông-cổ biết Đại-Việt ta không thiếu anh hùng, hào kiệt. Hai là rút về Đông-bộ-đầu, ẩn vào làng xóm cùng dân chống giặc. Ba là phản công truy kích giặc.
– Giỏi.
Thái-sư hỏi tướng chỉ huy đạo Kỵ-binh:
– Người báo danh đi.
– Thuộc hạ là Đô-thống Nguyễn Thời, tục danh Thời thẹo. Đạo Kỵ-binh có 300 ngựa, 20 thớt voi.
– Sau khi giao chiến một trận, bộ binh rút lui xuống hạm đội. Vậy Kỵ-binh rút như thế nào?
– Thuộc hạ đã nghiên cứu rất kỹ. Voi, ngựa chia thành toán nhỏ, rút theo hương lộ. Khi quân của thuộc hạ rút rồi, thì hoàng nam sẽ đăt chông, đặt chà trên đường. Giặc không thể đuổi theo được. Mà ví dù chúng có đuổi theo, cũng bị hương binh phục trong các con đường nhỏ bắn chết.
Đến trước đạo Ngưu-binh, nhà vua hỏi tướng chỉ huy:
– Khanh báo danh đi.
– Tâu thần là Đô-thống Nguyễn Tha. Nguyên xuất thân chăn trâu. Đạo của thần gồm 300 trâu. Trâu đều khỏe mạnh.
Ngài phóng mắt nhìn đoàn trâu : Sừng buộc dao, hoặc giáo nhọn. Lưng có áo giáp. Mỗi trâu có một Ngưu-binh đứng cạnh. Tuổi chúng từ 11 đến 20. Đứa nào cũng cháy nắng, da đen thui, nhưng khỏe mạnh. Trong 20 Đô Ngưu-binh hiện diện, thì đứng đầu mỗi Đô là một Đô-úy, tay cầm cờ, cổ đeo tù và.
Nguyễn Tha tâu :
– Đây là 20 đô úy chỉ huy 20 đô Tế-tác. Gồm có 10 nam, 10 nữ. Chúng có tên rất đặc biệt. Mười nam thì 5 mang tên Cu là Cu Chó, Cu Đen, Cu Méo, Cu Rỗ, Cu Lác ; 5 mang tên Trâu là Trâu Đen, Trâu Xanh, Trâu Điên, Trâu Trắng, Trâu Mập. Mười nữ có 5 mang tên Hĩm là Hĩm Còi, Hĩm Cao, Hĩm Lùn, Hĩm Rỗ, Hĩm Hô ; 5 nữ mang tên Cái là Cái Lan, Cái Huệ, Cái Sen, Cái Hồng, Cái Tiên.
Hoàng đế hỏi một nữ Đô-úy :
– Khanh báo danh đi.
Đứa con gái đáp :
– Thưa vua, cháu là Hĩm Còi.
– Thế họ tên cháu là gì ?
– Cháu mồ côi từ bé, không biết bố mẹ là ai, nên không biết họ, cũng chẳng có tên.
– Cháu bao nhiêu tuổi ?
– Cháu tuổi Ất Tỵ.
– À, Ất Tỵ là 14 tuổi.
Nhà vua bật cười. Ngài hỏi đứa con trai, tuy mặt non choẹt, nhưng người nó to lớn kềnh càng :
– Cháu báo danh đi.
– Cháu là Cu Chó.
Cũng như Hĩm Còi, Cu Chó không tên, chẳng họ, không biết mình bao nhiêu tuổi. Ngài bẹo má hai trẻ, tỏ một cử chỉ yêu thương, rồi hỏi :
– Khanh cho biết nhiệm vụ phải làm gì?
Cu Chó trả lời :
– Vũ-kỵ thượng tướng quân ban lệnh: Sau khi giao chiến một trận, thì bộ binh rút xuống thuyền. Kỵ-binh tản vào nàng. Còn Ngưu-binh đi cản hậu. Nếu như Nôi-kỵ Mông-cổ đuổi theo, thì bọn cháu xua tâu chạy xuống đồng lầy. Bố bảo Kỵ-binh giặc cũng không dám đuổi theo. Nhược bằng chúng đuổi theo, thì ngựa sa nầy hết, bọn cháu sẽ dùng tâu húc chúng nòi ruột con bà chúng ra hết.
Hầu hết Ngưu-binh là những trẻ mục đồng lâu năm, được tuyển mộ, rồi huấn luyện thành binh sĩ. Những ngôn ngữ bình dân chúngï dùng từ nhỏ đã quen, coi là sự thường. Bây giờ, lần đầu tiên đứng trước mặt đấng chí tôn, Cu Chó thuận miệng tuôn ra, mà y không biết là vô phép. Nhà vua nghe tiếng bình dân, bất giác bật thành tiếng cười.
Thấy Cu Chó nói ngọng theo thổ âm vùng Thiên-trường. Hưng-Đạo vương bẹo má nó:
– Quê con ở đâu?
– Dạ ở Thiên-tường.
– Bố mẹ con tên gì?
– Con mồ côi từ bé, không biết bố mẹ là ai!
Nguyễn Tha tâu:
– Tuy Cu Chó mới mười ba tuổi, nhưng sức khỏe không ai sánh. Trong đội Kỵ-binh, ai vật nhau với Cu Chó cũng bị nó vật ngã hết.
Thấy nét mặt Cu Chó có vẻ buồn, Hưng-Đạo vương xua đầu nó:
– Anh hùng đâu quản xuất thân. Thôi để ta nhận con làm con nuôi. Từ nay họ của con là Trần. Để ta đặt cho con một cái tên…
Ngài còn đang suy nghĩ thì Nguyên-Phong hoàng đế mỉm cười:
– Trông nó to lớn kềnh càng không khác gì con voi, thôi thì cứ gọi là Dã Tượng. Dã là đồng quê, tượng là con voi.
Thời xưa được vua, chúa ban cho cái tên là một điều cực kỹ hãnh diện. Cu Chó quỳ gối tạ ơn. Hưng-Đạo vương rút thanh trủy thủ đeo bên hông:
– Con là con ta. Trong các con của ta, ta đều cho một thanh trủy thủ để làm tin. Vậy con hãy cầm lấy con dao này.
Dã Tượng tiếp đao đeo vào bên hông.
Hoàng Đế đến trước một đội thiếu niên khác. Tất cả đều mặc quần áo bó sát lấy người. Mỗi thiếu niên đều đeo sau lưng cuộn dây thừng, một cái búa, hai ba cái đục, một số đinh lớn. Đội trưởng là một thiếu niên, dáng người thanh nhã, da trắng, mắt sáng. Nó hành lễ:
– Thần là Sấu-vàng, xin bái kiến Hoàng-đế bệ hạ.
Nguyễn Tha giới thiệu:
– Tâu bệ hạ, đây là đội Ngạc-ngư, gồm 18 thiếu niên. Tất cả đều là con của ngư dân trong vùng Đồn-sơn. Chúng có thể lặn dưới nước lâu hàng giờ. Những dụng cụ võ trang cho chúng dùng để đục thuyền địch. Đội trưởng có danh hiệu Sấu-vàng, không tên, chẳng họ.
Nhà vua bẹo má Sấu-vàng:
– Bố mẹ con là ai?
Sấu-vàng cúi mặt xuống:
– Tâu, bố mẹ con đi đánh cá, bị đắm thuyền qua đời từ lâu.
Nguyên-Phong hoàng đế chỉ Hưng-Đạo vương:
– Vương nên nhận trẻ này làm con…
Hưng-Đạo vương nắm tay Sấu-vàng:
– Tuân chỉ Hoàng-thượng, ta nhận con làm con. Cu Chó được Hoàng-thượng ban cho tên Dã Tượng. Vậy ta cũng đặt cho con cái tên là Yết-Kiêu.
Ngài lại tặng cho Yết Kiêu thanh trủy thủ.
Ghi chú của thuật giả
Sử sách đều ghi, hai anh hùng Dã Tượng, Yết Kiêu là gia tướng của Hưng-Đạo vương. Trong khi đó thì gia phả các chi con cháu ngài lại ghi hai ông là con nuôi. Tôi thấy gia phả đáng tin hơn. Bởi sau này, tứ vị vương tử là Hưng-Vũ vương, Hưng-Hượng vương, Hưng-Hiến vương, Hưng-Trí vương cho tới nhị vị vương cô Khâm-Từ hoàng hậu, công chúa Thủy-Tiên…tuy địa vị lớn mà vẫn lễ phép với hai ông, vì hai ông là con nuôi, lại cao niên hơn, tức là vai anh. Nếu là gia tướng thì lễ nghi thời Trần, phân biệt chủ, tớ rất phân minh, không thể có việc này.
Thế rồi, tháng 9, Ngột-lương Hợp-thai không thấy sứ trở về phục mệnh. Y sai một sứ đoàn nữa lên đường. Cũng như sứ đoàn trước, khi tới biên giới, cũng được triều đình cử Chiêu-Minh vương cùng ba hầu tước biết nói tiếng Mông-cổ lên biên giới tiếp rước trọng thể. Khi về Thăng-long, sứ thần cũng hống hách, trịch thượng. Thái-sư Trần Thủ-Độ lại ra lệnh tống giam vào ngục.

Sang tháng 10, không có tin tức của hai sứ đoàn trước. Ngột-lương Hợp-thai lại sai sứ đoàn thứ ba lên đường. Lần này triều đình Đại-Việt cử Hoài-Đức vương cùng ba hầu tước lên đón rước rất trọng thể. Khi tới Thăng-long, sứ đoàn đặt yêu sách: Triều đình Đại-Việt phải cho họ gặp hai sứ đoàn trước, rồi họ mới chịu trao quốc thư. Thái-sư Thủ-Độ vui vẻ truyền lệnh: Họ muốn gặp hai sứ đoàn trước thì cho gặp. Họ được dẫn vào nhà ngục, gặp hai sứ đoàn trước, và họ được gông lập tức, để ba sứ đoàn được sống với nhau trong ngục. Vui vẻ vì gặp nhau… Căm hận vì bị giam…Uất ức vì không báo tin về cho Ngột-lương Hợp-thai biết tình trạng của họ.
Ghi chú của thuật giả
ĐVSKTT chép Ngột-lương Hợp-thai ba lần sai sứ đến dụ vua Trần Thái-tông đầu hàng, nhưng không chép rõ thời gian ba lần sứ đến.
– ĐVSKTT chỉ chép sứ tới lần đầu vào tháng 8.
– Nguyên-sử quyển 121 chép sứ đến lần thứ nhì vào tháng 9.
– Nguyên-sử quyển 209 chép sứ đến lần thứ ba vào tháng 10.
Chỉ độc giả AHĐA mới biết rõ chi tiết, thời gian ba lần sứ đến, rồi bị tống giam như thế nào mà thôi.
Ngày 1 tháng Chạp năm Đinh Tỵ
nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7,
đời vua Thái-tông nhà Trần (6 tháng 1 năm 1258)
Tướng thống lĩnh đạo quân trấn biên là Vũ-Uy vương sai ngựa Lưu-tinh về Thăng-long cáo cấp:
” Không biết bằng cách nào đó, Ngột-lương Hợp-thai biết rõ vụ ba sứ đoàn bị tống giam. Y quyết tiến quân vào Đại-Việt. Chỉ còn hai ngày nữa thì chúng sẽ nhập vào biên giới. Tiền quân chia làm hai cánh, tiến dọc theo sông Thao. Hai tướng chỉ huy là Triệt Triệt Đô và A Tan. Mỗi cánh gồm một nghìn Lôi-kỵ, năm nghìn quân Đại-lý, một vạn lao binh. Phò-mã Hoài-Đô và con trai Ngột-lương Hợp-thai là A Truật dẫn một cánh tiếp ứng, gồm 1 vạn Lôi-kỵ, 2 vạn quân Đại-lý, 3 vạn lao binh. Còn đại quân Ngột-lương Hợp-thai tiến sau. Thần lệnh cho Đô-thống Trần Quới chỉ huy hiệu Tiền Thánh-dực cùng Hà Khuất thống lĩnh dân binh vùng Quy-hóa chia quân thành các Đô Vệ, giữ các trang ấp. Từ Quy-hóa tới Thảo-lâm, Đô-thống Bùi Hoán chỉ huy hiệu Tả Thánh-dực trấn nhậm. Lưu động từ Quy-hóa tới Bỉnh-lệ nguyên do Đô-thống Hoàng Vui chỉ huy hiệu Hữu Thánh-dực, đội Trấn-quốc, gây bất ổn cho giặc ».
Khu-mật viện sai chim ưng báo cho tất cả các tướng chỉ huy mặt trận, cũng như các phủ, huyện, trấn biết, kịp thời phản ứng. Toàn quốc rung động. Nhà nhà chuẩn bị, người người mài gươm, vót chông, chế tên chuẩn bị giết giặc.
Hưng-Đạo vương cùng các cấp trong bộ tham mưu đóng trên một soái hạm của hạm đội Âu-Cơ đậu ở bờ sông Thao. Nguyên-Phong hoàng đế dẫn ba trăm Thị-vệ tới Bình-lệ-nguyên tham chiến. Trước khi lên đường, Hưng-Đạo vương truyền trói ba tên bồi sứ Mông-cổ Trịnh Ngọc, Trịnh Đức, Trịnh Long, bịt mắt mang theo. Tới Bình-lệ-nguyên vương mời Vũ-Uy vương, Lê Tần xuống soái thuyền, rồi ban lệnh:
– Như quốc kế đã nghị, chúng ta chỉ đánh một trận, rồi rút lui, ẩn vào dân kháng chiến, tiêu hao lực lượng giặc. Đợi giặc mệt mỏi, hết lương. Bấy giờ ta mới phản công. Vậy nhị vị cần hết sức tinh tế bảo tồn lực lượng.
Vương dặn riêng Vũ-Uy vương:
– Vương có đội võ sĩ Trấn-quốc, gồm toàn thiếu niên khôn ngoan, linh lợi. Tuy ta lùi, không giao chiến với giặc, nhưng vương cũng làm cho chúng bực tức, cáu giận, mất bình tĩnh, mất tự tin.
Vũ-Uy vương cười khúc khích:
– Đệ chỉ có võ công cao, có tài dùng binh. Còn từ mưu thần chước thánh, cho tới cách dùng trò ma, trò quỷ, lối hành sự lưu manh dân dã, thì Đô-thống Hoàng Vui, rất giỏi. Tiết-Chế yên tâm. Đệ sẽ làm cho chúng tức đến hóa điên, hóa khùng, đến xùi bọt mép ra được.
Nguyên-Phong hoàng đế duyệt lại một lượt kế hoạch của Lê Tần. Tướng Lê Tần sai cấp ngựa cho ba tên họ Trịnh, thả chúng về biên giới. Khi bị giải từ Thăng-long lên Bình-lệ-nguyên, bọn họ Trịnh những tưởng phen này bị chém đầu tế cờ. Không ngờ lại được thả ra.
Rời Bình-lệ-nguyên, đi về hướng Bắc, khi qua khu rừng Thảo-lâm, bọn họ Trịnh gặp một toán mười đứa trẻ chăn trâu, vừa trai, vừa gái ngăn lại. Đứa nào tay cũng lăm lăm gậy tầm vông, liềm cắt cỏ. Đứa lớn nhất mặt rỗ như tổ ong bầu. Nó vỗ ngực:
– Ông nội mày đại danh Cu Rỗ, lãnh chúa mục đồng vùng này. Ba chúng bay là ai? Có phải bọn bay là quân do thám của Mông-cổ không?
Trịnh Ngọc có hơi sợ, y đáp:
– Chúng bay không được vô phép. Bọn ta là bồi sứ của Thiên-quốc Mông-cổ. Chúng ta từ Thăng-long về Trung-nguyên.
Cu Rỗ chỉ mặt Trịnh Ngọc:
– Tổ bà mi! Mi là người Việt tại sao lại làm bồi sứ cho Mông-cổ. Mi nói láo rồi.
– Im miệng! Bọn ranh con mà biết gì? Bọn bay không được hỗn.
– Hỗn! Con bà mi. Ông cứ hỗn thì chúng mày làm gì ông nào?
Cu Rỗ hạ lệnh :
– Anh em ơi ! Giết gian tế đi.
Cả bọn cùng thúc trâu bao vây ba tên họ Trịnh, chúng vung liềm, múa gậy. Trịnh Ngọc bở vía, y xuống nước :
– Tôi nói thực ! Chúng tôi là bồi sứ mà.
– Nói láo. Nhất lé nhì lùn. Tao trông cái mã mi mắt ti hí, vừa lé, vừa lùn. Nhất định là gian tế rồi.
Cu Rỗ hỏi đứa con gái :
– Hĩm Cao ! Mày nghĩ sao ? Có đúng chúng là gian tế không ?
Đứa con gái hô to :
– Nhất định nó là gian tế rồi. Có tật giật mình. Cứ nhìn dáng điệu sợ sệt, cái mặt bé choắt chéo thế kia, thì chúng là gian tế đứt đuôi con noòng loọc đi rồi. Làm thịt chúng đi anh em ơi.
Bọn trẻ vật cổ ba gã họ Trịnh, trói váo gốc cây. Thằng Cu Rỗ hét:
– Bọn con ghế, nhắêm mắt lại.
Một đứa con trai dùng liềm móc vào bụng Trịnh Long giật một cái, rút quần đứt ra. Y trở thành tồng ngồng.
Cu Rỗ lại hạ lệnh:
– Thiến!
Một thằng mục đồng khác vung liềm, tên Trịnh Long bị thiến. Y hét lên một tiếng lạc giọng. Một đứa mục đồng khác lấy thuốc cầm máu rịt vết thương cho y. Tiếp theo, tên Trịnh Đức bị cắt hai tai. Tên Trịnh Ngọc bị cắt mũi.
Đám trẻ hành sự xong, chúng đem thuốc cầm máu, lấy vải buộc vết thương cho ba tên họ Trịnh, rồi Cu Rỗ đe dọa:
– Ông nói cho bọn bay biết. Ông là cháu 10 đời của vua Đinh Tiên-Hoàng, thống lĩnh mục đồng vùng này. Hôm nay, ông sinh phúc tha cho bọn mi khỏi bị chết. Nhược bằng bọn mi còn theo Mông-cổ, hại nước thì ông sẽ chọc thủng mắt bọn mi. Nhớ không!
– Nhớ!
Bọn họ Trịnh đi rồi, đám mục đồng cười với nhau :
– Đô-thống Hoàng Vui hay thực. Người sai chúng ta đón đường hành sự, chỉ với mục đích nhắn cho bọn Mông-cổ biết : Nước Việt đến đứa trẻ cũng biết ra sức giữ nước.
Tuy được rịt thuốc, băng bó, nhưng cũng đau đớn đến chết đi sống lại. Ba tên Việt-gian họ Trịnh cố lết về tới biên giới. Gặp tiền quân của A Tan, cha con, anh em họ Trịnh khóc lóc tường thuật việc ba sứ đoàn bị tống giam. Tên Trịnh Ngọc báo: Quân Đại-Việt đã dàn ra tại Bình-lệ-nguyên chờ đợi.
– Thái-sư sai người do la tin tức về đại tướng Trần Thủ-Độ. Người đã dò ra chưa?
– Không những tiểu nhân tìm ra tông tích ông ta, mà còn biết rất nhiều về mưu mô của triều đình Đại-Việt nữa!
_???
– Tuy bị giam trong tù, nhưng tiểu nhân cũng liên lạc được với các tay sai ở ngoài. Chúng cho tiểu nhân biết một tin trọng đại: Trần Thủ-Độ là Thái-sư An-Nam. Ông ta mới chết cách đây bốn tháng?
– Tại sao ta không nghe An-Nam phát tang?
– Bí mật! Vua An-Nam biết rằng Trần Thủ-Độ từng làm đại tướng Mông-cổ. Khi nghe danh ông còn sống, tất binh tướng ta còn nể vì. Do vậy, dù ông ta chết, nhưng triều đình vẫn dấu, rồi tìm một người giống ông ta. Hằng ngày, Thủ-Độ giả vẫn ra vào Hoàng-thành, thành ra ai cũng tưởng ông ấy còn sống!
– Có thực không?
– Chính tiểu nhân gặp Trần Thủ-Độ giả. Tiểu nhân nói tiếng Mông-cổ, y ngơ ngác không hiểu gì, ậm ờ cho qua.
– Tin này quý lắm. Để ta khẩn sai người báo với Thái-sư.
A Tan là tướng kinh nghiệm chiến đấu. Lập tức y ra lệnh y sĩ điều trị cho ba tên họ Trịnh, rồi tiến binh thực gấp. Đích thân y đi tiên phong.
Thế nhưng từ khi nhập vào biên giới Đại-Việt, y cảm thấy một cái gì ghê ghê, lạnh lẽo khó tả. Khí hậu tháng Chạp buốt tới xương, gió heo may rít lên từng cơn nghe thực khó chịu. Trên đường, không một bóng người, không một bóng thú. Những trang, những động, cổng đóng im lìm. Giờ Thân, y ra lệnh cho quân ngừng lại nấu cơm chiều. Nhưng trời mưa phùn, không tìm đâu ra rơm, rạ, củi khô. Quân sĩ hạ trại trên một bãi đất bằng phẳng.
Có tiếng sao véo von, rồi từ một lối đi nhỏ hẹp trong rừng, hai đứa trẻ mục đồng, một nam, một nữ, tuổi khoảng mười hai, mười ba đang thủng thẳng đi ra. Chúng cỡi trên lưng trâu, mình mặc áo tơi, tay cầm ống tiêu tấu một bản nhạc êm dịu, nhẹ nhàng. Thấy quân Mông-cổ, nào người, nào ngựa rầm rập đi tới, mà hai trẻ vẫn thản nhiên tấu nhạc, mở to mắt nhìn. A Tan vẫy tay gọi chúng. Chúng thúc chân vào bụng trâu, miệng kêu tiếng nghé ọ. Hai con trâu thủng thẳng tiến lại gần A Tan. A Tan ra lệnh cho tên Trịnh Ngọc dịch.
– Hai đứa bay tên gì?
Đứa con gái chỉ đứa con trai:
– Nó là thằng Dã Tượng, đại danh Cu Chó. Còn cháu là con Hĩm Còi.
– Từ đây đến Bình-lệ-nguyên còn bao nhiêu dặm nữa?
Con Hĩm Còi lắc đầu:
– Tôi không nói. Ông cho tiền, tôi mới nói.
A Tan móc túi đưa cho Hĩm Còi một nén bạc. Con bé nhìn bạc, rồi bỏ vào túi, miệng nở nụ cười:
– Từ đây đến Bình-lệ-nguyên bao nhiêu dặm thì tôi không biết. Nhưng đi bằng chân thì mất một ngày. Đi bằng trâu thì mất nửa ngày. Còn phi ngựa thì chỉ mất hơn giờ thôi.
– Gần đây có làng xóm nào không?
Dã Tượng chỉ vào con đường mà chúng vừa đi ra:
– Phía sau khu rừng trúc này có đến ba xã lớn lắm.
– Mày có thể dẫn chúng tao vào làng kiếm củi khô không?
– Trong làng thiếu gì rơm, rạ, củi khô. Các ông vào đó mà mua.
– Mày dẫn đường nhé.
– Vâng.
A Tan sai hai Lôi-kỵ dẫn một Thập-phu lao binh theo hai đứa trẻ đi vào con đường mòn rừng trúc. Nhưng hơn hai khắc sau (28 phút ngày nay) không thấy quân trở về.

Tên Trịnh Ngọc tỏ ra hiểu biết:
– Tướng quân phải cẩn thận. Chúng ta đang ở trong vùng trấn nhậm của con thứ Trần Cảnh là Vũ-Uy vương. Tên này võ công đã cao, mà mưu trí không biết đâu mà lường. Cạnh y có tên Hoàng Vui, rất nhiều quỷ kế. Có thể hai trẻ mục đồng ban nãy là võ sĩ trong đội Trấn-quốc của y. Cách đây hơn nửa tháng, trên đường về biên giới, ba chúng tôi bị một bọn mục đồng do Cu Rỗ, Hĩm Cao làm nhục… cắt mũi, xẻo tai, rồi…thiến. Mưu này phi tên Vui, không ai nghĩ ra được.
A Tan gạt đi:
– Dù tên Vũ-Uy, dù tên Vui tên buồn gì, dù đội Trấn-quốc thế nào chăng nữa, với Lôi-kỵ, ta há sợ chúng sao?
Thế nhưng một khắc trôi qua. Sốt ruột, A Tan lại sai hai Lôi-kỵ khác dẫn một Thập-phu lao binh đi tìm. Nhưng hai khắc sau cũng không thấy chúng trở về. Biết có điều bất tường, y sai viên Thập-phu trưởng Lôi-kỵ dẫn một Thập-phu Lôi-kỵ, hai Thập-phu Đại-lý đi tìm. Không đầy nửa khắc sau, có tiếng hò hét, tiếng ngựa hý, tiếng quát tháo, tiếng vũ khí chạm nhau. Rồi hai Lôi-kỵ chạy bộ trở ra, mặt đầy máu. Chúng báo cáo:
” Qua con đường hai bên đầy bụi tre, khoảng trăm trượng, thì tới một con hương lộ dẫn tới một làng, bao bọc bởi những lũy tre dầy, cao vút. Cổng làng mở rộng. Chúng tôi vào trong làng, không một bóng người, không một bóng thú. Trên một bãi đất, bốn Lôi-kỵ, hai Thập-phu lao binh bị trói tròn như bó củi đặt nằm dài trên luống khoai. Chúng tôi tiến đến giải cứu, thì bị trúng phục binh. Chỉ một loạt tên, phân nửa chúng tôi bị ngã. Rồi những tên Nam man, nam có, nữ có, già có, trẻ có. Chúng trang phục dân gian. Đứa thì vác mã tấu, đứa thì vác gậy tầm vông, đứa thì vác dao phát dậu. Chúng xông ra chém giết. Vì chúng quá đông, nên chỉ hai chúng tôi chạy thoát về đây”.
Tên Trịnh Ngọc được dịp khoe tài:
– Tôi đã nói, mà tướng quân không nghe. Nhất định vụ này do Vui-rỗ bầy ra !
A Tan đang cáu, không biết trút cái giận đi đâu, nghe gã Trịnh Ngọc nói, y co chân đạp gã một cái, gã ngã lăn như con chó tiền rưỡi. A Tan thân dẫn một Bách-phu Lôi-kỵ với hai Bách-phu quân Đại-lý, quyết giết hết bọn Nam man. Khi tới con đường nhỏ, chỉ có thể một ngựa đi vừa mà thôi. Y truyền quân ngừng lại quan sát: Cổng làng đã đóng. Giữa cổng, bốn năm con bùi nhùi rơm tẩm bùn chất lên nhau, chặn mất đường vào.
Dã Tượng, Hĩm Còi đứng trên con bùi nhùi, tay cầm tù và rúc lên tu tu, chúng nói vọng ra bằng tiếng Mông-cổ rất rõ ràng:
– Bọn Thát-đát! Có giỏi vào đây chơi với ông vài keo?
A Tan nổi lôi đình. Y dương cung bắn, nhưng ở xa quá, tên chưa tới cổng làng đã rơi xuống đất. Dã Tượng, Hĩm Còi biến mất.
A Tan nghĩ thầm:
– Con lộ nhỏ thế này, chỉ có thể đi được một người, thì làm sao tấn công vào làng?
Có ba tiếng trống, một tiếng thanh la vang lên. Cổng làng mở rộng, một con ngựa kéo chiếc xe hai bánh thủng thẳng tiến ra, trên đầy xác chết của Lôi-kỵ, của binh Đại-lý, của lao binh. A Tan muốn điên lên được. Trong đời chinh chiến của y. Y từng xung sát hàng trăm trận, chưa bao giờ y gặp một đối thủ kỳ quái như thế này.
Y sai đem xác hơn hai chục tử sĩ ra ngoài, rồi ban lệnh cho một Thập-phu trưởng:
– Người đem Thập-phu của người, dùng mộc che thân, xông vào chiếm cổng làng. Ta sẽ cho hai Thập-phu khác theo tiếp ứng.
Viên Thập-phu hô lên một tiếng, Thập-phu của y xếp hàng một vọt tới. Nhưng giữa lúc đó, một con trâu từ trong làng thủng thẳng đi ra. Người cỡi trâu mình mặc áo tơi, đầu đội nón che mất mặt nên không biết y là nam hay nữ, già hay trẻ? Y thổi tiêu. Tiếng tiêu véo von vang lên át cả tiếng vó ngựa. Thập-phu Lôi-kỵ đang vọt tới, bị ngăn lại. Viên Thập-phu trưởng vội giật cương, thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa bị bắt buộc ngừng khẩn cấp, nó hý lên một tiếng, rồi cất cao hai vó trước. Mười Lôi-kỵ đi sau cũng chung một hoàn cảnh.
A Tan biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, y cảnh cáo viên Thập-phu trưởng:
– Phải cẩn thận!
Nhưng đã trễ. Viên Thập-phu trưởng tung giây thoòng loọng chụp cổ mục đồng, rồi giật mạnh. Vù một tiếng, ai cũng tưởng người mục đồng bay bổng lên cao, nhưng nào ai ngờ, gã Thập-phu trưởng bị tung lên trời. Ngườùi mục đồng cặp y vào nách, rồi vung tay lên. Mười tiếng vi vu rít lên trên không, mười mũi phi tiêu trúng giữa trán mười Lôi-kỵ phía sau.
A Tan hô Lôi-kỵ xung phong. Nhưng con đường quá hẹp, đã bị xác các Lôi-kỵ, bị ngựa chặn mất rồi. Chúng đành phi ngựa tràn xuống ruộng. Ngựa chạy được mươi bước thì chân bị lún sâu, bước không nổi nữa. A Tan ra lệnh cho binh Đại-lý lách qua xác Lôi-kỵ đuổi theo gã mục đồng. Nhưng y với trâu đã trở vào trong làng.
Bọn binh Đại-lý ào tới cổng làng, thì một tiếng lệnh đánh lên, tên từ trong làng bay ra vun vút, mười mấy gã bị trúng tên ngã vật xuống ruộng.
Trời đã tối hẳn. A Tan đành trở ra bãi đóng quân. Y sai hai Kỵ-mã phi tiễn báo cho Ngột-lương Hợp-thai biết tình hình, rồi truyền lệnh qua đêm.
Mọi việc xong xuôi, y vào soái lều ngủ. Nhưng vừa mở cửa, thì y giật mình, vì gã cỡi trâu, mặc áo tơi đã ngồi trong trướng từ bao giờ. Biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, y bình tĩnh hỏi :
– Tôn giá là ai ? Vào đây có việc gì ? Với võ công của tôn giá, thì địa vị đâu có nhỏ ? Xin tôn giá cho biết mặt được không ?
Người mặc áo tơi mở nón . Bất giác A Tan ngẩn người ra, vì hắn rất trẻ. Hắn trả lời A Tan bằng tiếng Mông-cổ :
– Tôi là ai, tướng quân không cần biết đến. Tôi đến đây, vì muốn được tướng quân chỉ giáo cho mấy chiêu.
Tên Trịnh Ngọc đã đến, y chỉ người mặc áo tơi :
– Vũ-Uy vương ! Ta đã biết người trong những ngày ở Thăng-long. Người đừng hòng qua mắt ta.
Trong khi Vũ-Uy vương đối thoại với A Tan, thì gã vệ sĩ của y đã báo động. Quân sĩ đốt đuốc, bao vây soái liều, reo hò. A Tan nghĩ rất nhanh :
– Tên này chỉ huy lực lượng phòng thủ biên giới của An-Nam đây. Tất cả những trò ma, trò quỷ ban ngày đều do y bầy ra. Ta phải bắt y, thì mới mong bình định vùng biên giới này.
Nghĩ vậy y hít hơi, phát một chưởng bằng tất cả công lực hướng Vũ-Uy vương. Vũ-Uy vương nhận ra đó là chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a. Vương cười nhạt, cũng trả bằng chiêu Đông-hải lưu phong. Hai chưởng chạm nhau, phát thành tiếng lớn. Cả hai cùng bật lui, đứng gườm gườm nhìn nhau. Vũ-Uy vương xoa tay cười nhạt :
– Này tướng quân! Tôi biết tướng quân học võ với Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt lại học với thái thúc tổ ( cụ chú) Trần Thủ-Huy của tôi. Như vậy võ công của tướng quân là võ công của nhà tôi. Không biết khi truyền thụ võ công cho tướng quân, Hốt Tất Liệt có nói về môn quy của bản phái không ? Điều thứ mười nói gì nhỉ?
– Dĩ nhiên là có.
– Xin tướng quân nhắc lại nghe thử.
– « Đệ tử Đông-a nào dùng võ công chống lại chủ đạo của tộc Việt, thì toàn môn phái phải tru lục ».
– Thế sao tướng quân lại dùng võ công này đánh Đại-Việt ?
– Vương gia há không biết rằng luật nhà thua luật làng. Luật làng thualuật nước sao ? Môn quy của phái Đông-a chỉ là luật nhà. Còn tôi mang quân sang đây là tuân luật nước. Vậy vương gia hãy đem quân đầu hàng, thì tính mệnh được bảo toàn, mà cái tước vương cũng không mất .
– Chúng ta ai cũng vì nước mình. Ta xin lĩnh giáo tướng quân ít chiêu.
Nói vừa dứt vương đã phát chiêu tấn công. A Tan bình tĩnh trả đòn. Dưới ánh đuốc chập chờn, hai người dùng cùng một thứ võ công đấu với nhau. Bàn chung, về công lực, thì Vũ-Uy vương tuổi còn trẻ, không thể nào thắng nổi A Tan, y đã đi vào tuổi 30. Nhưng về chiêu số, thì A Tan học lại của Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt lại học từ phò mã Trần Thủ-Huy… Võ công của Thủ-Huy là võ công Đông-a hồi gần trăm năm trước, sao có thể so sánh với võ công Đông-a hiện thời ; đã được Nguyên-tổ Trần Lý cùng Phùng Tá-Chu, Nam-thiên ngũ long sửa đổi đi nhiều. Vì vậy trải qua hơn trăm hiệp, hai bên vẫn bình thủ. Quân sĩ say mê đứng xem trận đấu kinh khủng mà chưa bao giờ họ thấy.
Biết không thắng được A Tan, Vũ-Uy vương đánh liền ba chưởng như vũ bão, rồi tung mình chạy. Chỉ nhấp nhô mấy cái, vương đã biến vào rừng.
A Tan lệnh cho quân sĩ đi ngủ.
Quân sĩ vừa riu riu ngủ, thì trong rừng tre vang lên tiếng trống thúc, tiếng người reo. Tưởng quân Việt tập kích, quân Mông-cổ choàng dậy, mặc áo giáp, đốt đuốc chờ đợi. Nhưng sau hơn giờ, thì tiếng trống, tiếng reo lại im bặt. Rừng núi vọng về tiếng dế kêu não nuột. Thỉnh thoảng, đâu đó tiếng cú kêu sầu thảm.
A Tan ra lệnh cho quân sĩ mặc áo giáp mà ngủ. Khoảng hơn giờ sau, mọi người vừa riu riu, thì có tiếng la hoảng, tiếng ngựa hý. Quân sĩ choàng dậy đốt đuốc lên, tất cả bật ngửa ra rằng, hơn hai chục chiến mã, bị một bọn vô hình nào đó đột kích bắn trúng bụng. A Tan cay đắng nhìn những thần mã từng tung hoành trên vùng Thảo-nguyên, trên chiến trường Tây-vực, trên khắp lãnh thổ Trung-quốc… oai hùng biết bao. Thế mà bây giờ bị những địch thủ không hình, không bóng bắn chết trong trường hợp không minh bạch. Y ra lệnh cho quân sĩ thắp đuốc tới sáng.
Đội quân Lôi-kỵ bách chiến, bách thắng, sau một ngày dài di chuyển mệt mỏi, rồi trải qua một đêm căng thẳng… Người, ngựa đều bải hoải. A Tan ra lệnh cho quân Đại-lý tiến quân vào tàn sát ngôi làng khốn nạn. Đầu tiên một Bách-phu đi tiên phong, vào trong làng dễ dàng. Nhưng hơn một khắc, không thấy chúng trở ra báo tin. Sốt ruột, y cho Lôi-kỵ tràn vào, thì trong làng không một bóng người, không một bóng thú. Chỉ có xác bọn Lôi-kỵ, bọn lính Đại-lý. Một tên lao binh duy nhất bị trói vào gốc cây cau còn sống. Y thuật:
– Khi tôi bị bắt vào làng, thì trẻ con, ông già bà cả yếu đuối đã di tản đi hết. Còn lại, già, trẻ, trai, gái đều cầm vũ khí chiến đấu. Chúng được chỉ huy bởi hai mươi Ngưu-binh, toàn là nhóc con, chưa đứa nào tới hai chục tuổi.
Dường như chưa hết sợ, y tiếp :
– Bọn binh lính thì không đến nỗi nào. Nhưng tụi dân chúng, nhất là mấy con mụ đàn bà. Chúng hung dữ kỳ lạ. Không có vũ khí, chúng dùng gậy tre, dùng dao phay, dùng cuốc. Nhưng chúng đánh có phương pháp. Chúng liều lĩnh vô cùng. Có đứa bị chặt cụt một tay, bị đâm lòi ruột, mà chúng vẫn lăn xả vào mà chém túi bụi.
A Tan thấy trên bức tường của căn nhà cháy có tờ giấy, trên viết bằng chử Hán. Y nhẩm đọc :
« Thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực và đội võ sĩ Trấn Quốc của nước Đại-Việt là Hoàng Vui
Gửi tướng tiên phong Mông-cổ là A Tan.
Ta nghe, phàm đạo làm tướng thì tai nghe tám hướng, mắt nhìn mười phương. Lại phải biết mình, biết người. Nay mi thân làm đại tướng, mà không biết ta là ai, không biết khả năng quân ta ; mi cũng không tự biết Lôi-kỵ vô dụng đối với binh ta. Mi vừa nhập biên, ta chỉ dùng mấy đứa nhãi con, cũng làm cho hùng binh của mi mất ăn, mất ngủ. Lại giết cả nghìn tên dễ dàng như chà kiến cỏ !
Mi đã sợ ta chưa ?
Ngày mai quyết tái chiến ».
Dưới vẽ hình một đứa trẻ cỡi trâu méo mặt, đang cầm…cò đái.
A Tan tức quá, y ra lệnh đốt tất cả những căn nhà trong làng, cho quân nấu cơm ăn, chôn xác tử sĩ, rồi lên đường. Đến giờ Ngọ, thì đi qua một khu khí hậu ấm áp, cỏ non hai bên đường mọc xanh mướt. Đám chiến mã muốn ngừng lại gặm ít miếng, nhưng bọn kỵ mã không cho. Giữa lúc đó tên Bách-phu trưởng tiền phong cho người báo:
– Con đường phía trước đầy chông với chà. Xin tướng quân định liệu.
A Tan truyền quân tạm ngừng lại. Chiến mã được ăn cỏ xanh tươi, chúng hý lên những tiếng vui mừng. A Tan phi ngựa lên quan sát: Chông chà rất đơn sơ, nhưng nhiều vô tận. Y ra lệnh cho lao binh lên nhổ chông, kéo chà, mở đường. Tuy lao binh đông. Nhưng con đường hẹp, thành ra cuộc gỡ chướng ngại vật phải mất hơn giờ mới xong.
Giờ Mùi, cánh quân của A Tan gặp cánh quân của Triệt Triệt Đô. Vừa gặp nhau, Triệt Triệt Đô đã văng tục, chửi luôn miệng, chửi liên tu bất tận. Thì ra đêm qua cánh quân của Triệt Triệt Đô cũng gặp trường hợp tương tự. Triệt Triệt Đô ngoác mồm ra:
– Tổ mẹ nó. Từ lúc nhập Việt đến giờ không hề thấy một tên chó Việt nào cả. Cũng chưa được bắn một mũi tên, đánh một chiêu võ, màhao mất hơn trăm Lôi-kỵ, mấy trăm binh Đại-lý. Bây giờ tôi mới biết những trò ma, trò quỷ này là mưu kế của tên Hoàng Vui. Tổ bà nó, tôi mà bắt được tên Vui-rỗ, thì tôi sẽ nhét vào miệng nó mười bãi phân ngựa.
A Tan thuật lại trận đấu giữa y với Vũ-Uy vương, rồi kết luận :
– Vũ-Uy vương là người có võ công cao nhất trong đám thân vương trẻ mà công lực đã như vậy. Tôi nghe nói An-Nam còn có những cao thủ như Trần Tung, Trần Khánh-Dư, Lê Tần, Phạm Cụ-Chích, Trần Tử-Đức bọn này võ công cao hơn Vũ-Uy vương nhiều. Hà ! Đáng sợ thực.
Tên Trịnh Ngọc tâng công với chủ :
– Võ công bọn ấy cũng chưa đáng sợ. Đáng sợ là bọn Nam-thiên ngũ long. Năm con hồ ly này võ công cao không biết đâu mà lường. Ấy là chưa kể Đại-Việt thất tuyệt gồm Đặng Kiếm Anh, Đặng Kiếm-Hùng của phái Tản-viên ; Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn của phái Sài-sơn ; Tiêu-Dao, Lung-Á của phái Yên-tử ; Y-Sơn của phái Tiêu-sơn. Ngoài ra còn Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm của phái Mê-linh là Vô-Ảnh, Vô-Sắc, Vô-Huyền.
Mặt A Tan, Triệt Triệt Đô cau lại, tỏ vẻ lo lắng.
Tên Trịnh Ngọc ra vẻ ta biết nhiều :
– Vùng từ biên giới tới Bình-lệ-nguyên do Vũ-Uy vương trấn nhậm. Tất cả những trò gây tổn thất cho ta, là do đội võ sĩ Trấn-quốc của y. Bọn trẻ con mà đã thế, thì các hiệu binh của y sẽ gây ra nhiều trò quỷ quái không biết đâu mà lường. Nhị vị tướng quân phải cẩn thận.
Triệt Triệt Đô, A Tan truyền đóng quân lại, sai Kỵ-mã phi tiễn báo cáo tình hình cho Ngột-lương Hợp-thai.
Thình lình chiến mã, cũng như lừa, trâu, bò kéo xe, đều hý, rống lên thảm thiết; rồi con thì lồng lộn, con thì ngã lăn ra xùi bọt mép, con thì dẫy tê tê. Bọn Lôi-kỵ kinh hãi, chúng mở to mắt ra nhìn những con vật thân yêu. Y sĩ phụ trách thú vật chạy tới, chạy lui, kéo miệng thú ra quan sát. Sau khi khám nghiệm mươi con, hắn đã tìm ra nguyên do: Chúng bị ngộ độc.
Quân luật Mông-cổ định rằng, nếu chiến mã ngộ độc chết, thì lao binh phụ trách chăn ngựa bị tử hình. Đám lao binh mặt nhìn mặt, chúng đều biết rằng nếu đám lừa ngựa này chết, thì tính mệnh chúng khó toàn.
Triệt Triệt Đô quát lên:
– Nhất định trong đám lao binh có gian tế của Nam-man. Tụi bay phải tìm ra thủ phạm, bằng không tao sẽ giết hết bọn bay.
Y quát lớn:
– Tập trung bọn chăn ngựa lại.
Nh


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.