An Offer Of A Gentleman

Chương 10


Đọc truyện An Offer Of A Gentleman – Chương 10

Mặc dù anh ta có nhận lời tham dự (theo lời của Quí bà Covington) Benedict Bridgerton lại không hề xuất hiện tại vũ hội thường niên của nhà Covington. Những lời phàn nàn phát ra từ các quí cô trẻ tuổi (và mẹ của họ) vang lên khắp phòng khiêu vũ.

Theo lời của Quí bà Bridgerton (mẹ anh ta, không phải chị dâu của anh ta đâu ạ), thì Ngài Bridgerton đã đi về vùng nông thôn từ tuần trước và chẳng có tin tức gì từ đó. Những người có thể đang lo sợ cho sức khỏe của Ngài Bridgerton đừng nên buồn phiền ; Quí bà Bridgerton nghe có vẻ là bực mình vì sự vắng mặt của cậu con trai hơn là lo lắng. Năm ngoái có không ít hơn bốn cặp đôi đã gặp được bạn đời tương lai của họ trong vũ hội nhà Covington và năm trước nữa là ba cặp mà.

Cho tinh thần của Quí bà Bridgerton, nếu có bất kỳ mối lương duyên nào được thành hình vào năm nay ở Vũ hội nhà Covington, thì con trai quí bà, ngài Benedict cũng không ở trong nhóm các chú rể.

Phu nhân Whistledown của tờ Nhật báo Xã hội,

Ngày 5 tháng 5 năm 1817.

Có những lợi lộc, Benedict sớm phát hiện ra, khi trải qua quá trình hồi phục kéo dài.

Điều rõ ràng nhất là từ số lượng và sự phong phú từ những món ăn tuyệt hảo nhất từ bếp của Bà Crabtree. Chàng luôn được cho ăn ngon khi chàng ở Nhà Tranh Của Ta, nhưng Bà Crabtree thực sự bùng nổ khi bà ấy có ai đó bị mắc kẹt trong phòng bệnh.

Và thậm chí còn tuyệt hơn, khi Ông Crabtree đã xoay xở để chặn đứng mọi liều thuốc bổ của Bà Crabtree và tráo chúng bằng những ly brandy ngon nhất của Benedict. Benedict đã đầy – ý – thức – trách – nhiệm uống hết đến từng giọt, nhưng lần cuối cùng chàng nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy được rằng có đến ba bụi hồng của chàng bị chết cứng, có thể đoán được rằng đó là nơi Ông Crabtree phi tang mấy liều bổ dưỡng – độc dược đó.

Đó thật là một sự hy sinh buồn thảm, nhưng Benedict còn hơn cả sẵn lòng chấp nhận sự mất mát thương cảm đó sau lần trải nghiệm cuối cùng của chàng với mấy liều bổ dưỡng của Bà Crabtree.

Một lợi ích khác của việc ở trên giường là một sự thực đơn giản rằng, lần đầu trong nhiều năm trời, chàng có thể hưởng thụ khoảng thời gian tĩnh lặng. Chàng đọc, vẽ, và thậm chí là chỉ nằm nhắm mắt và để đầu óc mơ màng – và chàng làm tất cả những điều ấy mà không phải cảm thấy tội lỗi vì đã bỏ bê những nhiệm vụ và việc vặt khác.

Nhưng phần tuyệt nhất trong quá trình lành bệnh của chàng, đó là Sophie. Nàng tạt vào phòng chàng mấy lần liền trong một ngày, thỉnh thoảng là để rũ gối cho chàng, thỉnh thoảng là để đem thức ăn lên, thỉnh thoảng chỉ là đến để đọc cho chàng. Benedict có cảm giác rằng tính siêng năng của nàng là do bởi mong muốn cảm thấy có ích của nàng, và để cảm ơn chàng vì đã cứu nàng khỏi Phillip Cavender.

Nhưng chàng chẳng quan tâm đến lý do tại sao nàng lại đến thăm chàng ; chỉ cần nàng cứ đến thăm chàng là được rồi.

Lúc đầu nàng tỏ ra khẽ khàng và dè dặt, rõ ràng là cố gắng dính chặt với những chuẩn mực của một người hầu, không nghe và cũng không thấy. Nhưng Benedict thì chẳng chịu đâu, và chàng cứ cố tình lôi kéo nàng vào những cuộc chuyện trò, chỉ để nàng chẳng thể rời đi. Hoặc là chàng châm chích và khiến nàng phát cáu cả lên, đơn giản là để nàng nổi đóa lên, bởi chàng thích nàng khạc ra lửa nhiều hơn hẳn khi nàng nhu mì và dễ bảo.

Nhưng hầu hết chỉ bởi chàng rất thích việc ở trong cùng một phòng với nàng thôi. Chẳng quan trọng gì việc họ có nói chuyện hoặc nàng chỉ là ngồi trên một cái ghế, đọc lướt qua một cuốn sách trong khi chàng nhìn lông bông ra ngoài cửa sổ. Có gì đó trong sự hiện diện của nàng khiến chàng cảm thấy thật bình yên.

Một tiếng cốc thật to lôi chàng ra khỏi dòng suy nghĩ, và chàng hăm hở ngước lên, và gào, “Vào đi !”

Sophie ló đầu vào, bờ vai cong cong của nàng hơi rung khi chúng tựa lướt vào mép cửa. “Bà Crabtree nghĩ ngài có lẽ thích dùng trà bây giờ.”

“Trà ? Hay trà và bánh quy ?”

Sophie cười toe, đẩy cửa mở bằng hông khi nàng bưng cái khay. “Ồ, vế sau, thưa ngài.”

“Tuyệt vời. Thế cô có cùng dùng trà với ta không ?” Nàng lưỡng lự, như nàng vẫn luôn làm, nhưng rồi nàng gật, như nàng cũng vẫn luôn làm. Nàng đã học được từ lâu rằng chẳng thể nào tranh cãi được gì với Benedict khi chàng quyết định điều gì đó.

Và Benedict cũng thích điều đó. “Da ngài có vẻ không còn tái nữa,” nàng bình phẩm khi nàng đặt chiếc khay xuống cái bàn gần bên. “Và ngài trông không còn mệt nhiều lắm. Tôi nghĩ chắc ngài cũng sắp khỏe lên và rời khỏi giường sớm thôi.”

“Ồ sớm thôi, ta chắc đấy,” chàng nói lảng. “Cô thì ngày nào trông cũng khỏe mạnh nhỉ.” Rồi chàng lười biếng nói. “Cô có nghĩ vậy không ?”

Nàng nâng bình trà lên và dừng lại trước khi nàng khuấy. “Vâng,” nàng nói với nụ cười giễu cợt. “Tôi cũng chẳng thể nói khác đi được.”

Benedict quan sát tay nàng khi nàng chuẩn bị trà cho chàng. Nàng cử động với vẻ duyên dáng bẩm sinh, và nàng khuấy trà như thể nàng đã làm như thế từ khi mới sinh. Rõ ràng là nghệ thuật dùng trà chiều cũng là một trong những bài học nàng được học từ gia đình tuyệt vời đã thuê mẹ nàng. Hoặc có thể nàng chỉ là quan sát những quý cô khác trong khi họ chuẩn bị trà. Benedict có chú ý thấy rằng nàng là một người con gái rất tinh ý.

Họ đã cùng nhau dùng trà rất nhiều lần rồi, đủ để nàng không phải hỏi chàng xem chàng thích dùng trà thế nào. Nàng đưa cho chàng tách trà của chàng – sữa, không đường – và rồi đặt những cái bánh quy và bánh nướng lên một đĩa.

“Lấy cho cô một tách nữa,” Benedict nói, cắn một cái bánh quy, “và ngồi đây cạnh ta.”

Nàng lại lưỡng lự lần nữa. Chàng biết nàng sẽ lưỡng lự, dù cho nàng vốn dĩ đã đồng ý cùng dùng trà với chàng. Nhưng chàng là một người đàn ông kiên nhẫn, và sự kiên nhẫn của chàng được thưởng với một cái thở dài dịu nhẹ khi nàng vươn tay và lấy thêm một cái tách khác ra khỏi khay. Sau khi nàng tự chuẩn bị trà cho nàng – hai viên đường, với một chút sữa thôi – nàng ngồi lên cái ghế lưng tựa thẳng bọc nhung được đặt cạnh giường chàng,

“Không có bánh qui cho cô ?” Benedict hỏi.

Nàng lắc đầu. “Tôi đã ăn vài cái ngay khi chúng vừa mới được lấy ra từ lò.”

“May cho cô. Bánh luôn ngon nhất khi chúng còn ấm.” Chàng ăn thêm một cái bánh quy nữa, phủi phủi vài mẩu vụn bánh ra khỏi tay áo, và vươn ra lấy thêm cái nữa. “Và ngày hôm nay của cô thế nào ?”

“Sau lần cuối tôi vừa mới gặp ngài từ hai giờ trước?”


Benedict bắn cho nàng một cái nhìn nói rằng chàng có nhận ra sự châm biếm của nàng nhưng chọn không phản ứng với nó.

“Tôi giúp Bà Crabtree trong bếp,” Sophie nói. Bà ấy đang làm món thịt bò hầm cho bữa tối và cần một vài củ khoai tây được lột vỏ. Rồi sau đó tôi mượn một cuốn sách từ thư viện của ngài và đọc trong vườn.”

“Thật sao ? Thế cô đọc gì ?”

“Một cuốn tiểu thuyết.”

“Nó hay không ?”

Nàng nhún vai. “Hơi ngốc, nhưng lãng mạn. Tôi khá thích.”

“Và cô có thích những gì lãng mạn không ?”

Ngay tức thời mặt nàng ửng đỏ. “Đó là một câu hỏi hơi bị riêng tư, ngài không nghĩ vậy sao ?”

Benedict nhún vai và định nói một cái gì đó dứt khoát là cợt nhả, như, “Nó đáng để thử mà,” nhưng khi chàng ngắm khuôn mặt nàng, hai bầu má nàng chuyển sang màu hồng phớt, mắt nàng gằm xuống đùi, và một chuyện lạ lùng nhất đã xảy ra.

Chàng nhận ra chàng muốn nàng.

Chàng thực sự, thực sự muốn nàng.

Chàng không chắc chắn biết tại sao điều đó lại làm chàng kinh ngạc. Tất nhiên là chàng muốn nàng. Chàng thuộc loại máu nóng như bất kỳ gã đàn ông nào khác trên đời, và một người đàn ông thì không thể dành một khoảng thời gian dài ở bên cạnh một người phụ nữ yêu kiều và đáng yêu như Sophie mà lại không muốn nàng. Quỉ quái, chàng muốn đến một nửa số phụ nữ mà chàng gặp ấy chứ, nhưng đó là theo kiểu muốn đơn thuần, không thúc ép.

Nhưng trong lúc này, với người con gái này, nó lại trở nên khẩn cấp.

Benedict đổi tư thế nằm. Rồi chàng kéo cái chăn ngang qua đùi (a, che dấu bằng chứng tội lỗi đây – nếu các sis hiểu em định nói gì ).

Rồi chàng lại ngọ nguậy đổi tư thế nằm lần nữa.

“Có phải cái giường của ngài không được thoải mái lắm ?” Sophie hỏi. “Ngài có cần tôi sửa lại mấy cái gối không ?”

Thôi thúc đầu tiên của Benedict là đáp lại bằng câu trả lời có, rồi túm lấy nàng khi nàng cúi người qua người chàng, và rồi làm những điều xấu xa trong đầu chàng với nàng, khi mà họ vốn, khá là tiện lợi, đang ở trên giường.

Nhưng chàng có một cảm giác lén lút rằng cái kế hoạch đặc biệt ấy sẽ không thành công lắm với Sophie đâu, thay vì thế chàng nói, “Ta ổn,” rồi nhăn mặt khi chàng nhận ra giọng chàng nghe có vẻ cọt kẹt kỳ dị.

Nàng mỉm cười khi nàng nhìn vào những cái bánh qui trên đĩa của chàng, rồi nói, “Có lẽ chỉ thêm một cái nữa thôi.”

Benedict dịch tay ra để cho phép nàng dễ với tới cái đĩa của chàng hơn, cái thứ mà, chàng muộn màng nhận ra rằng, nó đang nằm ườn trên đùi chàng ấy. Hình ảnh bàn tay nàng vươn ra về phía cái hông chàng – mặc dù đấy là nàng đang nhắm tới cái đĩa bánh qui – cũng gây ra một vài ảnh hưởng kỳ quặc đến chàng, nói đúng hơn, là đến cái phần dưới của chàng.

“Ngài có phiền không nếu tôi lấy cái cuối –”

“Cứ lấy đi !” chàng ồm ộp.

Nàng nhón lấy cái bánh qui trên đĩa rồi nhíu mày. “Ngài trông khỏe hơn,” nàng nói, rồi hơi hít lấy mùi hương bánh, “nhưng ngài nghe chẳng khỏe hơn chút nào. Cổ họng ngài đang làm ngài khó chịu ư ?”

Benedict nhấp một ngụm trà. “Không đâu. Chắc ta vừa mới hít phải một đống bụi thôi.”

“Ồ. Vậy thì ngài nên uống một chút trà. Nó sẽ giúp ngài khá hơn.” Nàng đặt cái tách của nàng xuống. “Ngài có muốn tôi đọc cái gì đó cho ngài không ?”

“Có !” Benedict vội vàng nói, túm lấy cái chăn kéo nó cao lên quanh hông chàng. Nàng có lẽ sẽ thử lấy cái đĩa được đặt hơi bị chiến lược đó đi, và rồi khi đó chàng sẽ ở đâu ?

“Ngài có chắc là ngài ổn không đấy ?” nàng hỏi, nhìn có vẻ nghi ngờ hơn là lo lắng.

Chàng mím môi mím lợi vào mà mỉm cười. “Khá ổn.”

“Được rồi,” nàng nói, đứng dậy. “Ngài thích tôi đọc gì cho ngài ?”


“Ồ, cái gì cũng được,” chàng nói một cái vẫy tay vô tư đi.

“Thơ ?”

“Rất tuyệt.” Chàng đáng ra không cần phải nói “Rất tuyệt,” chả lẽ nàng định đọc một bài luận văn về thực vật học sinh trưởng trên vùng lãnh nguyên bắc cực chắc.

Sophie bước về phía giá sách và nhìn qua những cái tựa sách. “Byron ?” nàng hỏi.

“Blake ?”

“Blake,” chàng nói khá là kiên quyết. Một giờ ngồi nghe cái thứ lãng mạn ngớ ngẩn của Byron dễ khiến chàng phát điên lắm.

Nàng rút ra một tập thơ từ cái giá và quay lại ghế ngồi, sột soạt chỉnh lại cái váy hơi bị kinh khủng của nàng trước khi nàng ngồi xuống.

Benedict cau mày.Chàng chưa bao giờ thực sự chú ý trước đây xem cái váy của nàng sao lại xấu xí đến thế. Tất nhiên không tệ như cái váy mà Bà Crabtree đã cho nàng mượn, nhưng chắc chắn là cũng chẳng được thiết kế để gợi nên những đường nét đẹp nhất của người phụ nữ.

Chàng nên mua cho nàng một cái váy mới. Nàng có lẽ sẽ chẳng chịu nhận nó, tất nhiên là thế, nhưng có thể nếu như cái vỏ ngoài hiện tại của nàng vô tình bị đốt mất …

“Ngài Bridgerton ?

Nhưng làm thế nào chàng xoay xở để đem cái váy của nàng đi đốt được ? Nàng phải không mặc nó trước đã, và cái cảnh tượng ấy bản thân nó chắc chắn cũng đã là một thách thức rồi ….

“Ngài có đang nghe tôi đọc không đấy ?” Sophie gặng hỏi.

“Hmmm ?”

“Ngài chẳng để ý nghe tôi đọc gì cả.”

“Xin lỗi,” chàng thừa nhận. “Lỗi của ta. Tâm trí ta nó để đi đâu ấy. Xin cứ tiếp tục đọc đi.”

Nàng đọc một khổ thơ mới, và nỗ lực của chàng là cho nàng thấy chàng đổ rất nhiều sự chú ý của chàng vào đoạn thơ nàng đang đọc, vì vậy chàng tập trung nhìn vào môi nàng, và điều đó hóa ra lại là một sai lầm cỡ bự.

Bởi đột nhiên tất cả những gì chàng có thể nhìn thấy là đôi môi đó, và chàng không thể ngừng nghĩ đến về hôn nàng, và chàng biết – biết một trăm phần trăm – rằng nếu một trong hai người họ không rời khỏi căn phòng này trong ba mươi giây kế tiếp, chàng sẽ làm một cái gì đó mà vì nó chàng sẽ nợ nàng phải đến cả nghìn lời xin lỗi.

Không phải là chàng không có kế hoạch quyến rũ nàng. Chỉ là chàng định làm điều đó với một chút khéo léo tế nhị và mánh khóe hơn thôi. “Ôi trời đất ơi,” chàng thốt.

Sophie bắn cho chàng một cái nhìn kỳ dị. Chàng thì chẳng đổ lỗi cho nàng đâu.

Chàng nghe như là một thằng ngốc hoàn toàn ấy. Chàng không nghĩ rằng nhiều năm qua có giây phút nào chàng lại bật ra cái cụm từ “Ôi trời đất ơi” đấy không. Quỉ thật, chàng nghe như mẹ chàng vậy.

“Có gì không ổn sao ạ ?” Sophie hỏi.

“Ta vừa mới nhớ ra một cái gì đó,” chàng nói, khá là ngớ ngẩn, theo ý kiến của chính chàng.

Nàng nhướng mày dò hỏi.

“Một thứ mà ta đã quên mất ấy mà.” Benedict nói.

“Những thứ mà con người ta nhớ ra ấy,” nàng nói, trông có vẻ cực kỳ vui thích, “hầu hết đều là thứ mà họ quên mất đấy ạ.”

Chàng quắc mắt cau có với nàng. “Ta cần một chút riêng tư.”

Nàng đứng lên ngay lập tức. “Vâng tất nhiên rồi ạ,” nàng khẽ khàng.

Benedict cố không rên lên. Chết tiệt thật. Nàng trông có vẻ bị tổn thương. Chàng không có ý làm nàng buồn. Chàng chỉ đinh định đẩy nàng ra khỏi phòng để chàng khỏi kéo nàng lên giường thôi. “Đó là một vấn đề riêng tư,” chàng nói với nàng, cố làm cho nàng cảm thấy tốt hơn nhưng nghi rằng tất cả những gì chàng đang cố làm chỉ càng làm cho bản thân chàng trông như một thằng ngu mà thôi.


“Ohhhh,” nàng nói với vẻ hiểu biết. “Liệu ngài có cần tôi đem cho ngài một cái bô không ?”

“Ta có thể tự bước ra chỗ cái bô,” chàng gắt, quên luôn rằng chàng thực ra chẳng cần dùng đến cái bô nào cả.

Nàng gật và đứng dậy, đặt cuốn thơ lên cái bàn gần đó. “Tôi sẽ để ngài lại làm việc của ngài. Nếu ngài cần gì cứ rung chuông gọi.”

“Ta sẽ không triệu gọi cô như một người hầu,” chàng lồng lên.

“Nhưng tôi là một –”

“Với ta, cô không phải,” chàng nói. Những từ ngữ nảy ra hơi cay nghiệt hơn cần thiết, nhưng chàng luôn luôn ghê tởm những gã đàn ông dùng quyền lực của mình để đi giày vò những người hầu nữ bất lực không chống lại được họ. Cái ý nghĩ chàng có thể biến thành một trong số những sinh vật kinh tởm ấy cũng đủ để khiến chàng nôn ọe rồi.

“Vâng thưa ngài,” nàng nói, những từ ngữ của nàng y chang của một người hầu vậy. Rồi nàng gật y hệt như một người hầu – chàng cực kỳ chắc chắn rằng nàng làm thế cốt chỉ để chọc tức chàng – rồi rời đi.

Ngay giây phút nàng bước ra khỏi cửa, Benedict bật ra khỏi giường và chạy ngó qua cửa sổ. Tốt. Không ai quanh quẩn ngoài sân cả. Chàng lột cái bộ áo ngủ của chàng ra, mặc thay vào đó là một cái quần ống túm, một cái áo sơ mi và áo khoác ngoài, rồi lại ngó ra cửa sổ lần nữa. Tốt. Vẫn chẳng có ai cả.

“Ủng, ủng,” chàng lẩm nhẩm, nhìn ngó khắp phòng. Cái đôi ủng của chàng ở cái chỗ quỉ quái nào thế ? Không phải đôi ủng mới của chàng – cái đôi bị dính đầy bùn ấy … a, chúng đây rồi. Chàng chộp lấy đôi ủng và xỏ chúng vào.

Quay lại chỗ cửa sổ. Vẫn không có ai cả. Tuyệt vời. Benedict ném một chân qua bậu cửa, rồi tiếp đến cái chân kia, rồi tóm lấy một nhành cây dài và cứng cáp nhô ra từ cái cây đu gần đó. Rồi từ đó chàng khẽ lấy đà, đu người và nhảy xuống đất.

Rồi thẳng tiến về phía cái hồ. Cái hồ rất rất là lạnh.

Để nhận một bữa tắm cũng rất rất rất là lạnh.

“Nếu anh ta cần một cái bô,” Sophie lảm nhảm tự nói với bản thân, “anh ta chỉ cần nói vậy thôi. Có phải mình chưa bao giờ cầm một cái bô đâu.”

Nàng hục hặc giậm chân bước qua cầu thang để xuống tầng chính, chẳng hoàn toàn chắc chắn biết là tại sao nàng lại đi xuống dưới nhà nữa ( nàng chẳng có gì đặc biệt cần phải làm ở đây cả ) nhưng lại cứ thẳng tiến mà bước xuống đơn giản chỉ bởi nàng chẳng nghĩ ra cái gì tốt hơn để làm cả.

Nàng chẳng thể hiểu tại sao chàng lại gặp nhiều rắc rối đến thế trong việc đối xử với nàng theo đúng vị trí của nàng – một người hầu – cả. Chàng cứ khăng khăng rằng nàng không làm việc cho chàng và không cần phải làm bất cứ điều gì để kiếm việc nuôi thân ở Nhà Tranh Của Ta cả, và rồi lại cũng với nhịp thở ấy mà bảo đảm với nàng rằng chàng sẽ tìm cho nàng một vị trí trong nhà của mẹ chàng.

Nếu chàng cứ đối xử với nàng như một người hầu, thì nàng sẽ chẳng gặp phải khó khăn gì để nhớ rằng nàng là một đứa con hoang không ai biết đến và chàng là một thành viên của gia đình giàu có và nhiều ảnh hưởng nhất trong giới thượng lưu. Mỗi lần chàng đối xử với nàng như thể nàng là một con người thực sự (và với kinh nghiệm của mình nàng biết rằng hầu hết các nhà quý tộc đều không đối xử với người hầu của họ như một con người thực sự), điều đó lại làm nàng nhớ đến buổi tối đêm dạ vũ hôm nào, khi nàng được trở thành, dù chỉ trong một buổi tối, một tiểu thư trong giới thượng lưu, người có quyền để mơ tưởng đến một tương lai với Benedict Bridgerton.

Chàng cư xử như thể chàng thực sự yêu thích nàng và thích thú với sự bầu bạn của nàng. Mà cũng có lẽ là chàng thích thật. Nhưng đó lại là điều tàn nhẫn nhất, bởi chàng đang làm nàng yêu chàng, làm một phần nho nhỏ nào đó trong nàng nghĩ rằng nàng có quyền để được mơ về chàng.

Và rồi, chắn chắn rằng, nàng lại phải nhắc nhở bản thân nhớ về hiện thực, và điều đó thật quá đau đớn.

“Ồ, cháu đây rồi, Sophie !”

Sophie ngước mắt nhìn lên, mắt nàng vốn đang lơ đãng nhìn theo vết nứt trên sàn gỗ, và nhìn thấy Bà Crabtree đang đi xuống cầu thang sau nàng.

“Chào bác, bác Crabtree,” Sophie nói. “Món thịt hầm thế nào rồi ạ ?”

“Cũng thường thường thôi,” Bà Crabtree lỡ đãng nói. “Chúng ta hơi thiếu chút cà rốt, nhưng ta nghĩ món thịt vẫn sẽ rất ngon thôi. Thế cháu có thấy Ngài Bridgerton đâu không ?”

Sophie chớp mắt ngạc nhiên trước câu hỏi đó. “Trong phòng của ngài ấy. Chỉ mới vài phút trước thôi mà ạ.”

“Hừm thế thì, lúc này ngài ấy không có đó.”

“Cháu nghĩ ngài ấy đang cần phải dùng đến cái bô.”

Bà Crabtree còn chẳng đỏ mặt một tý nào cả, đây cũng chỉ là kiểu trò chuyện mà những người hầu thường nói về chủ của họ mà thôi. “Vậy ư, nếu ngài ấy có phải dùng nó, thì ngài ấy cũng không hề dùng nó, nếu cháu hiểu ý ta muốn nói gì,” bà ấy nói. “Căn phòng có mùi thoáng đãng như trong một ngày mùa xuân vậy.”

Sophie nhíu mày. “Và ngài ấy không có ở đó ?”

“Chẳng thấy đến một sợi tóc.”

“Cháu chẳng thể tưởng tượng ra ngài ấy có thể đi đâu cả.”

Bà Crabtree chống tay lên cái hông búng bính của bà. “Ta sẽ tìm dưới nhà còn cháu tìm trên gác. Một trong hai ta rồi sẽ tìm thấy ngài ấy thôi.”

“Cháu không chắc đó là một ý hay đâu ạ, bác Crabtree. Nếu ngài ấy rời phòng, thì có lẽ ngài ấy có lý do riêng của mình. Và hơn thế nữa, ngài ấy có lẽ không muốn bị tìm thấy.”

“Nhưng ngài ấy vẫn còn ốm,” Bà Crabtree cự nự.

Sophie cân nhắc về điều đó, rồi nhớ lại hình ảnh mặt chàng trong đầu. Da chàng đã lại lên màu và chàng thì chẳng trông mệt mỏi một tý nào cả. “Cháu không chắc về điều đó lắm đâu, bác Crabtree,” cuối cùng nàng nói. “Cháu nghĩ ngài ấy cố tình giả vờ ốm đấy.”

“Đừng có ngốc thế,” Bà Crabtree giễu. “Ngài Bridgerton sẽ chẳng bao giờ làm những việc như thế đâu.”


Sophie nhún vai. “Cháu không nên nghĩ như thế, nhưng thực sự thì, ngài ấy trông chẳng còn ốm đau tí nào cả.”

“Đó chắc chắn là nhờ thuốc bổ của ta,” Bà Crabtree nói với một cái gật tự tin. “Ta đã nói với cháu rồi chúng sẽ làm ngài ấy khỏe nhanh hơn.”

Sophie đã nhìn thấy Ông Crabtree đổ mấy liều thuốc bổ đó vào mấy bụi hồng ngoài bậu cửa sổ, đồng thời cũng thấy chuyện gì diễn ra sau đó với chúng. Và nó thì chẳng phải là một hình ảnh đẹp đẽ gì đâu. Làm thế nào mà nàng lại xoay xở để tươi cười và gật đầu đồng ý, nàng chẳng thể biết.

“Dù sao thì, ta cũng muốn biết được ngài ấy đi đâu mất rồi,” Bà Crabtree nói tiếp. “Ngài ấy không nên rời khỏi giường, và ngài ấy biết điều đó.”

“Cháu chắc là ngài ấy sẽ về nhanh thôi,” Sophie xoa dịu. “Trong lúc đó, bác có cần giúp gì trong bếp không ạ ?”

Bà Crabtree lắc đầu. “Không, không. Tất cả những gì món hầm đó cần là được nấu lên. Và bên cạnh đó, Ngài Bridgerton cũng đã rầy la ta vì tội cho phép cháu làm việc rồi.”

“Nhưng –”

“Không có tranh cãi gì đâu nhé, cô bé,” Bà Crabtree ngắt ngang. “Ngài ấy đúng, tất nhiên. Cháu là khách ở đây, và đáng ra cháu chẳng cần phải nhúc nhích đến một cái ngón tay.”

“Cháu không phải là khách,” Sophie phản đối.

“Ồ. vậy thì, cháu là gì ?”

Câu đó làm Sophie hơi khựng lại. “Cháu không biết,” cuối cùng nàng nói. “nhưng chắc chắn là cháu không phải là khách. Một vị khách sẽ … Một vị khách nên …” nàng nhún vai để cố làm rõ ý nghĩ và cảm giác của mình. “Cháu cho rằng một vị khách phải là một ai đó cùng giai cấp xã hội, hoặc ít nhất là gần sát với. Một vị khách phải làm một ai đó người mà chưa bao giờ phải đợi cửa một người khác, hoặc phải lau sàn nhà, hay cọ sạch một cái bô chẳng hạn. Một vị khách phải là người –”

“Bất kỳ ai mà chủ nhà chọn để mời đều là một vị khách cả,” Bà Crabtree vặn lại.

“Đó là nét đẹp của việc là chủ nhà. Người đó có thể làm bất kỳ điều gì mà người đó muốn. Và cháu, cô bé, cháu phải ngừng ngay việc tự coi thường mình đi. Nếu Ngài Bridgerton chọn coi cháu là một vị khách, thì cháu nên chấp nhận cách nhìn của ngài ấy và tự vui vẻ bản thân. Lần cuối cùng cháu được sống thoải mái mà không phải động đậy một ngón tay để làm việc là bao giờ ?”

“Ngài ấy không thể hoàn toàn coi cháu là một vị khách được,” Sophie lặng lẽ nói. “Nếu ngài ấy làm thế, ngài ấy đã phải sắp xếp một người đi kèm để bảo vệ danh dự của cháu rồi.”

“Cứ như là ta sẽ cho phép bất kỳ điều gì không đẹp diễn ra dưới mái nhà của ta ấy,” Bà Crabtree nổi giận.

“Tất nhiên là bác sẽ không làm thế,” Sophie dỗ dành bà. “Nhưng khi dính đến danh dự của một ai đó, thì cái vỏ bên ngoài cũng quan trọng như cái lõi bên trong vậy. Dưới con mắt xã hội, một quản gia không đủ tư cách như một người đi kèm, bất kể đức hạnh của người quản qua đó nghiêm khắc và chặt chẽ đến thế nào.”

“Nếu điều đó đúng,” Bà Crabtree cự nự, “vậy thì cháu cần một người đi kèm, Sophie ạ.”

“Đừng ngốc thế bác. Cháu không cần một người đi kèm bởi vì cháu không thuộc tầng lớp của ngài ấy. Không ai để tâm nếu một người hầu gái sống và làm việc dưới mái nhà của một người đàn ông độc thân. Sẽ chẳng có ai nghĩ xấu về cô ta cả, và chắc chắn rằng sẽ chẳng có ai cân nhắc cô ta với hôn nhân khi mà họ cho rằng cô ta đã bị hủy hoại cả.” Sophie nhún vai. “Đó là cách mà mọi thứ diễn ra. Và rõ ràng đó là cách mà Ngài Bridgerton nghĩ, dù ngài ấy có thừa nhận điều đó hay không, bởi ngài ấy chưa bao giờ từng nói một lời nào về việc có đúng đắn không khi để cháu ở lại đây.”

“Dù thế, ta vẫn không thích điều này,” Bà Crabtree tuyên bố. “Ta không thích nó một chút nào.”

Sophie chỉ mỉm cười, bởi thật ngọt ngào làm sao khi bà ấy quan tâm đến nàng.

“Cháu nghĩ cháu sẽ đi dạo một chút,” nàng nói, “miễn là bác chắc chắn rằng bác không cần giúp gì trong bếp hết. Và,” nàng thêm vào với một nụ cười nhăn nhở ranh mãnh, “miễn là cháu vẫn còn ở trong cái vị trí kỳ lạ, mơ hồ này. Cháu có thể không phải là một vị khách, nhưng đây là lần đầu tiên trong nhiều năm rồi cháu không phải là một người hầu, và cháu sẽ hưởng thụ thời gian rảnh rỗi này của cháu cho đến phút cuối cùng.”

Bà Crabtree cho nàng một cái vỗ vai thân mật. “Cứ thế đi, Sophie. Và nhớ hái cho ta vài bông hoa khi cháu nhởn nha ngoài đó.”

Sophie toe toét cười và hướng ra ngoài cửa trước. Hôm nay là một ngày nắng đẹp, và ấm áp, phảng phất xung quanh là mùi hương thơm ngát của những nụ hoa đầu xuân. Nàng không thể nhớ lại được lần cuối nàng được nhẹ nhàng dạo bước và hưởng thụ không khí trong lành như thế này là bao giờ.

Benedict từng kể cho nàng nghe về một cái hồ nhỏ gần đây, và nàng nghĩ nàng có thể thong thả dạo chơi về phía đó, thậm chí có lẽ nàng còn sẽ ngâm chân mình dưới nước nếu nàng cảm thấy đặc biệt có hứng nữa.

Nàng mỉm cười nhìn lên ánh mặt trời chói chang. Không khí có thể ấm áp, nhưng nước thì chắc chắn là vẫn còn buốt lắm. Dù vậy, nó vẫn sẽ thật tuyệt. Bất kỳ điều gì cũng sẽ đều tuyệt vời trong khoảng thời gian rảnh rỗi và những khoảnh khắc bình yên dịu ngọt này.

Nàng dừng lại một chốc, nhíu mày trầm ngâm khi nàng nhìn về phía đường chân trời. Benedict đã từng nhắc rằng cái hồ nằm ở phía Nam ngôi nhà, phải không nhỉ ? Lộ trình đi về phía Nam bây giờ sẽ dẫn nàng thẳng qua một khoảnh rừng khá là rậm rạp nhưng một cuộc đi bộ đường dài chắc chắn cũng chẳng đến nỗi giết nàng đâu.

Sophie luồn lách qua rừng cây, bước qua những rễ cây rằng rợ, đẩy sang bên những nhành cây mọc thấp, để chúng bật lại đằng sau nàng với những cái thả cố ý. Ánh mặt trời rọi qua những tán lá phía trên nàng, soi tỏ những bụi bặm trong không khí.

Về phía xa xa, nàng có thể thấy rõ ràng, thứ mà nàng cho rằng đó chắc phải là cái hồ. Và khi nàng đến gần hơn, nàng thấy được những tia sáng lấp lánh nơi ánh mặt trời phản chiếu xuống làn nước, và nàng thở ra thỏa mãn, mãn nguyện vì biết rằng nàng đã đi đúng đường. Nhưng khi nàng tiến đến gần hơn nữa, nàng nghe thấy tiếng ai đó đang té nước, và nàng nhận ra trong hoảng sợ và tò mò rằng nàng không một mình nơi đây.

Nàng chỉ cách mép hồ khoảng mười feet hoặc hơn, khá dễ dàng để nhìn xem ai đang ở trong mặt nước, vì vậy nàng nhanh chóng len lén nấp sau thân cây của một cây sồi to tướng. Nếu nàng có một cái xương biết điều nào trong người, thì nàng phải quay lưng lại và chạy thẳng về phía ngôi nhà, nhưng nàng lại không thể ngăn bản thân lén liếc trộm qua cái cây và nghía xem ai lại đủ điên để đầm mình trong hồ nước dưới tiết trời thế này.

Với một chuyển động từ từ lặng lẽ, nàng lén nhếch đầu ra khỏi cái cây, cố giấu mình nhiều nhất có thể.

Và nàng nhìn thấy một người đàn ông.

Một người đàn ông trần truồng.

Một trần truồng…

Benedict ?(sắp có chuyện hay ho rồi)


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.